Jump to content

vietsnets2

Thành viên
  • Số bài viết

    45
  • Gia nhập

  • Đăng nhập

Bài viết được đăng bởi vietsnets2


  1. Câu chuyện xảy ra tại một ngôi làng kia có tên là làng Tân Hiệp. Dân làng ở đây sống bằng nghề mổ thịt và được cha truyền con nối từ đời này sang đời khác, có nhà đến 5-6 đời liền chuyên làm nghề mổ thịt. Làm nghề này họ cần phải có những con dao thật bén và nhọn. Mũi dao nhọn dùng để chọc tiết, mũi dao bén để cắt thịt.

     

    Có nhìn những bà, những cô hàng thịt mới biết đợ bén của lưỡi dao như thế nào. Con dao đưa tới đâu thịt của con vật bị cắt đứt ngay đến đó. Chặt xương như chặt bùn. Những người làm nghề mổ thịt thường là dân xóm chợ, trong xóm này có gia đình ông Giang chuyên làm nghề mổ thịt, nay đã 5 đời, cha truyền con nối chỉ dùng 1 con dao. Con dao dùng nhiều nên lưỡi mòn, bản dao thu hẹp lai chỉ còn khoảng 1 phần tư của con dao lúc mới làm nhưng nó vẫn còn bén vô cùng. Ông Giang nói ông nội của ông, cha ông và ngay chính ông đều dùng con dao này dể làm thịt. Nhìn con dao ai cũng biết là bén vô cùng. Ai sơ ý trúng vô nó là đứt tay ngay. Ông Giang nay đã ngoài năm mươi, con trai ông là Lập nay cũng tiếp tục nghề mổ lợn. Mỗi ngày ông hạ thịt ít nhất là hai ba con lợn để cho vợ ông và chi. Lập (vợ của anh Lập) đi bán. Ngoài ra cô Ðinh là con gái ông cũng đem thịt lợn ra bán ở những chợ gần nhà. Ông Giang chọc tiết lợn rất tài, chỉ cần một nhát dao là trúng ngay huyệt, máu chảy ra òng ọc và con lợn cũng mau chết, it' rên la hơn những con lợn bị mấy ông đồ tể khác chọc tiết sai huyệt. Anh Lập được cha truyền cho, chọc tiết lợn cũng rất chính xác.

    Từ ngày ông Giang năm mươi lăm tuổi ông giao hẳn công việc này cho vợ chồng anh Lập và cô Ðinh. Hai người đàn bà con gái này lấy tiết cũng taì tình không thua gì ông Giang và anh Lập. Lần đầu tiên phụ trách công việc lấy tiết, cả chi. Lập và cô Ðinh đều thấy rợn tay. Ohưng chỉ sau 1 lần cả hai chị em đều thấy lấy tiết 1 con lợn sống còn dễ hơn mổ xẻ 1 con lợn đã làm lông. Diều lạ lùng là cả hai người khi cầm tới con dao gia truyền kề vào cổ con lợn đều cảm thấy như có một sức mạnh vô hình nào điều kiển tay dao của mình thọc huyết con lợn rất trúng huyệt.

    Chi Lập nói với chồng:

    - Lạ lắm anh à, không cầm tới con dao chọc tiết thì thôi, cầm tới là em chỉ muốn được "lấy tiết".

    Cô Ðinh cũng nói:

    -Em cũng vậy chị ạ! Cầm tới con dao ấy, được chọc tiết 1 vài con lợn là điều thích thú. Không có lợn, giá có người cho em "lấy tiết" em cũng lấy, em tưởng tượng con người lúc ấy cũng chỉ là một con lợn cho em mổ thịt. Con dao như có thần.

    Anh Lập nói:

    -Con dao này từ đơì các cụ truyền lại tới nay đã có hàng vạn con lợn bị nó lấy tiết, làm lông rôì.

    -"Chắc là có thần" ,chi. Lập nói, thần dao chắc ưa máu lợn lắm !

    Anh Lập hơi suy nghĩ, anh nhớ lại câu chuyện Nam Du Huê Quang. Huê Quang có nhiệm vụ trừ yêu quái lúc đó xuất hiện nhiều ở phương Nam, trong số những yêu quái có một con yêu do thanh long đao của Quan Vân Trường biến thành. Thanh Ðao vì đã chém nhiều đầu giặc, thấm máu người biến thành yêu và chỉ thích ăn thịt người. Còn con dao chọc tiết lợn nhà anh, đã trải qua mấy đời cha truyền con nối với hàng vạn con lợn bị nó chọc tiết làm lông mổ thịt, máu lợn phải thấm vào nó, nó cũng có thể thành yêu được như thanh long đao của Quan Vân Trường vậy. Nhưng nó chỉ dùng để giết lợn nên nó chỉ thèm máu lợn. Anh Lập nghĩ vậy nhưng không dám nói ra, sợ vợ và em gái anh không dám dùng con dao và cũng không dám lấy tiết thay anh nữa. Ngày tháng qua đi, ông Giang qua đời. Cnh Lập thay thế cha trong gia đình và nghề nghiệp. Gia đình anh tiếp tục mỗ i ngày hạ vài ba con lợn đ꿠cho bà Giang, chi Lập và cô Ðinh đem di bán. Trong ba ngươì ai cũng có dao riêng, duy có cô Ðinh là không có dao nên cô dùng luôn con dao chọc tiết để cắt thịt. Với con dao này thịt cua cô xẻ không bao giờ bị ế, có lẽ thần dao phù hộ cho cô. Con dao thật bén, cô Ðinh chặt xương cứ bay bay. Niới bán thịt ai cũng khen cô là chọc tiết lợn hay và pha xẻ lợn tài. Cô Ðinhh có một ý trung nhân, anh Trần cũng làm nghề đồ tể. Anh thường tỏ ý phục tài người yêu trong nghề lấy tiết. Anh thường khen:

    - Em là con gái mà lấy tiết lợn còn giỏi hơn anh.

    Cô Ðinh cười nói:

    - Nghề cha, nghiệp mẹ mà anh, không giỏi kiếm ăn làm saỏ

    - Khi lấy tiết em có ghê tay không?

    - Nhân sát vật, trời sinh ra con lợn để cho mình chọc tiết mổ thịt, sao lại ghê taỷ Vả lại nó cũng quen đi. Bây giờ giá có phải lấy tiết ngươì vì nghề nghiệp em cũng phải làm.

    - Em nói nghe phát sợ

    Trần cười, Ðinh cũng cười theo. Dân làng vẫn sống bình thường, ai làm nghề nấy. Rồi, một hôm bỗng xảy ra những chuyện lạ khiến cả làng xôn xaọ

    Ðêm đó tại nhà một người trong làng, nhà này có nuôi lợn, nửa đêm bỗng nghe có tiếng lợn kêu như bị chọc tiết. Mọi người trong nhà chạy ra chuồng lợn xem coi có chuyện gì thì thấy con lợn tuy vẫn còn nằm trong chuồng nhưng đã bị chọc tiết. Máu còn đang phun ra ồng ọc. Kẻ gian giết con lợn đã chạy mất. Mọi người bàn tán xôn xao và thắc mắc rằng tại sao ke gian chỉ thọc tiết con lợn mà lại không đem nó đi. Chuyện xảy ra ở một nhà, rồi những đêm sau chuyện này lại tái diễn ở những gia đình khác có nuôi lợn. Những ai trong làng có nuôi lợn đều để ý đề phòng. Một đêm tại xóm kia cạnh bờ sông, một nhà nuôi lợn nghe tiếng lợn chạy trong chuồng. Lập tức người trong nhà cùng với ba bốn người đàn ông lưcj lưỡng tay dao, tay rựa chạy uà ra phía chuồng lợn. Con lợn vừa bị chọc tiết xong, đang dãy dụa với những tia máu đang phun ra. Một người ở lại lấy thau hứng tiết và đám người còn lại đốt duốc đi lùng tên giết lợn. Bỗng một bóng đen thoáng từ phía chuồng lợn chạy ra phía hàng rào và hướng về phía bờ sông. Mọi người duổi theo, tới bờ sông không thấy bóng đen đâu nữa. Mẵn đèn đuốc, người ta soi quanh sục sạo từng bụi rậm đến gốc cây gần bờ sông. Bóng đen không biết biến đâu mất, người ta chỉ thấy một con dao chọc tiết lợn nằm ngang trên bờ đê, mũi dao còn dính đầy máu. Nhặt con dao lên một người nói lớn:

    - Dao chọc tiết còn đây kẻ gian chắc chỉ quanh quẩn đâu đây không xạ

    Họ tiếp tục vác đuốc soi tìm, có người cho là ke gian bị đuổi gấp quá nên phải vứt dao lặn xuống sông. Cho nên là họ cho người thay phiên nhau đứng canh bên cạnh bờ sông, nhưng suốt đêm tới sáng họ cũng chẳng thấy ai dưới sông nhô đầu lên. Mọi người ra về, mang theo con dao chọc tiết đã nhặt được cùng hội họp ở nhà gia chủ đợi trời sáng hẳn mới đem trình lý trưởng. Sau khi nhìn kỹ con dao, một người trong xóm vốn cũng làm nghề mổ lợn nói:

    - Con dao này chuôi sắt, lưỡi toàn thép, nhất định phải là con dao của nhà ông Giang. Con dao này sắc lắm, mấy đời cha ông ông Giang cho tới ông vẫn chỉ có một con dao này. Vợ chồng anh Lập và cô Ðinh cũng dùng nó để lấy tiết.

    Ai nấy đều cho là đúng nhưng lại có ý kiến:

    - Chẳng lẽ kẻ gian lại là anh Lập? Anh ta ngày nào chẳng làm thịt hai ba con lợn, hơi đâu di giết lợn của người khác.

    Ngay sáng hôm đó, với sự làm chứng của mấy người hàng xóm, gia chủ tới trình lý trưởng về mọi sự việc xảy ra đêm trước và mang theo con dao tang vật. Họ tới nơi quá sớm, lý trưởng chưa thức dậy nên họ phả i ngồi chờ nơi sân. Lý trưởng thấy có người tới trình mới dậy. Gia chủ thuật lại cho lý trưởng nghe mọi sự việc đã xảy ra. Lý trúó?ng hỏi tới con dao, nhưng lạ lùng thay, con dao đã biến đâu mất.

    Mấy người họ nhìn nhau, người nọ ngờ người kia dấu, nhưng ai dấu đi đâu và dấu lúc nào. Dù mất con dao nhưng vẫn có người làm chứng. Lý trưởng ra lệnh cho Trương Tuần dẫn tuần đinh tới khám xét nhà anh Lập. Bọn họ kéo nhau tới nhà anh Lập. Khi tới nơi họ thấy vợ chồng anh vừa mới làm lông mổ thịt xong ba con lợn, mọi người đều ngạc nhiên. Vậy ra bóng đen chạy trốn lúc đêm qua không phải là anh Lập và cũng không phải vợ anh hoặc cô Ðinh. Cả ba người này đều hầu như không biết gì đến những việc đã xảy ra đêm trước. Vậy kẻ gian là ai? Anh Lập lấy làm lạ, thấy Trương Tuần dẫn tuần đinh tới nhà mình, khi được Trương Tuần cho biết lý do anh Lập mới cười bảo:

    - Mỗi ngày nhà tôi làm thịt ba con lợn. Cả xóm đều biết, tôi còn đi giết lợn của nhà người khác làm gì. Con dao chọc tiết lợn của toỵ nó vẫ n đây, và sáng nay tôi vẫn dùng nó để lấy tiết ba con lợn.

    Vừa nói anh vừa chỉ vào ba con lợn đã bị chọc tiết, cạo lông và mổ bụng. Anh lại chìa con dao ra và nói tiếp:

    - Con dao chọc tiết của nhà tôi vẫn đây, nếu các bác nhặt được nó ở bờ sông thì sáng nay lấy dao đâu tôi làm lợn.

    Trước sự viện đó, Trương Tuần, gia chủ và cả người làm chứng đều không thể buộc tội anh Lập được. Hơn nữa, bóng đen họ đuổi theo tới bờ sông thì biến mất, tất nhiên không phải anh Lập, vì cả gia chủ và những người làm chứng đều cho rằng kẻ gian giết lợn đã nhả y xuống sông không thấy nổi lên, chắc hắn đã bị chết đuối. Trương Tuần và mọi người kéo nhau ra về. Cô Ðinh bảo anh chị:

    - Ngộ thật ! Nhà mình từ ông cố, ông sơ tới nay làm nghềmổ lợn, giết lợn để bán mỗi ngày cũng đã mệt, hơi đâu còn đến chuồng lợn nhà người ta lấy tiết nữạ

    Chi. Lập đồng ý với em chồng, còn anh Lập không nói gì hết tiếp tục làm nốt chỗ thịt lợn để còn đem đi bán. Vừa làm anh vừa trầm ngâm suy nghĩ sự việc hồi sớm này đã xảy ra tại nhà anh trước khi Trương Tuần đến.

    Nguyên sáng sớm hôm ấy, cũng như mọi ngày, vợ chồng anh và cô Ðinh dậy từ lúc gà gáy để làm lợn. Khi vợ anh tìm tới con dao chọc tiết xưa nay vẫn cài trên vách trong nhà bếp, chị ta không thấy nó. Chi hỏi chồng có cất đâu không, anh Lập trả lời anh cất dao làm gì? Chị lại hỏi cô Ðinh chiều hôm trước khi đi làm về đã cài dao vào chỗ cũ chưa, cô Ðinh cho biết là cô đã cài cẩn thận vào đó sau khi lau rửa như thường ngày. Ba người đều tìm nhưng họ tìm hoài cũng không thấy. Brời sáng dần anh Lập định lấy con dao bán thịt cua vợ để chọc tiết ba con lợn, bỗng anh nhìn lại trên chỗ cái nẹp cài dao thìcon dao vẫn cài nguyên ở đó. Anh mắng vợ và em đã quắng mắt. Con dao vẫn nằm nguyên đó mà tìm không ra, tuy chính anh cũng đã không tìm thấy. Búc đó trời đã sáng rõ, anh phai vội vàng cùng vợ và em vừa dùng con dao gia truyền vưà dùng hai con dao khác, và ba người cùng lấy tiết, mỗ i người một con dao, để làm cho kịp có hàng bán. Vừa lúc ba người làm xong ba con lợn thìTrương Tuần dẫn mọi người tới. Anh Lập tựﮧhĩ có lẽ vì trời chưa sáng rõ nên cả ba người không trông thấy con dao, nhưng anh vẫn cho đây là một sự lạ, trước giờchưa từng xảy ra. Phải chăng con dao đã thành tinh đi giết lợn của ngươì, rồi bị săn đuổi phải biến nguyên hình ở bờ sông? Và khi ở sân nhà Lý Trưởng thừa lúc mọi người không để ý nó biến mất và trở về nằm nguyên trong nhà bếp. Anh nghĩ vậy nhưng không nói cho vợ và em nghe. Ngày hôm đó qua đi....và từ đó trong làng cứ cách vài ba đêm lại có nhàbị kẻ gian vào chọc tiết lợn ở trong chuồng. Cả làng Tân Hiệp bàn tán sôi nổi, Lý Trưởng ra lệnh cho Trương Tuần phai tăng cường canh giờ cẩn mật để cố bắt kẻ gian. Một buổi chiều, anh Lập cầm con dao nhìn mũi dao nhọn hoắc lại rất sắc, anh lẩm bẩm:

    - Dao, có phải mày giết lợn không? Nếu là mày thì mày làm phiền cho nhà tao lắm...

    Một hôm, vào buổi chiều, trong lúc ba người đàn bà đi bán thịt chưa về, anh sửa soạn đồ đạc chuẩn bị đi bắt mấy con lợn đã đặt mua tại một nhà trong làng để sáng hôm sau làm thịt, bỗng có khách. Khách là một đạo sĩ la. Ddưa khách vào nhà, sau khi mời trầu nước anh chưa kịp hỏi khách đến có việc gì thìkhách đã nói trước:

    - Bần đạo tu ở núi Bách Kha, nhân đi qua đây thấy khu xóm này có yẻ khí bao trùm. Ði sâu vào trong xóm bần đạo thấy yẻ khí dầy đặc ở phía này, và nhiều hơn cả là nhà thí chủ. Có yêu khí tất có yêu quái ẩn náu. Bần đạo muốn vì dân làng, nhất là vì thiếu chủ trừ con yêu này để nó không quấy rối và báo hại mọi người. Vậy xin phép thí chủ cho bần đạo đi khắp mọi nơi trong nhà coi yêu quái ẩn nấp ở đâu, bần đạo sẽ dùng bùa trừ khử. Lời đạo sĩ khiến anh Lập giật mình. Anh nghĩ ngay tới con dao chọc tiết gia truyền. Anh nói:

    - Xin cán ơn thầy, thầy đã có lòng muốn trừ yêu quái cứu dân, thật là may mắn cho làng chúng tôi lắm. Xin mời thầy xơi trà dùng nước, nghỉ ngơi một lát rồi tôi sẽ dẫn thày đi khắp nhà.

    Khi hai người đang ngồi nói chuyên thì cô Ðinh đã về, và như thường lệ cô gài con dao chọc tiết vào cái nẹp trong nhà bếp. Anh Lập mời đạo sĩ đi thăm khắp nhà, và bỗng ông dừng lại chỗ con dao, khịt khịt mũi mấy cái như đánh được mùi gì khác lạ

    Ông đưa mắt nhìn quanh rồi nói: - Yêu quái ẩn nấp nơi dây. Anh Lập nói: - Ðây là nơi thường ngày nhà tôi mổ lợn nên thầy ngửi thấy mùi máu lợn khô hơi tanh tanh đó. Ðạo sĩ không nói gì đi thẳng tới cái nẹp nơi cài mấy con dao bán thịt. Ông rút ngay con dao gia truyền của nhà anh ra nhìn ngắm rất kỹ và ông hỏi:

    - Con dao này vẫn dùng để chọc tiết lợn?

    Anh Lập gật đầu, ông không nói gì thêm cùng anh Lập trở lại nhà nơi tiếp khách. Tới đây ông bả o anh Lập:

    - Con dao chọc tiết của thí chủ đã thành tinh, không nên dùng nữa. Con dao này được truyền từ ông tổ chúng tôi tới nay đã được sáu đời, chúng tôi không thấy gì khác. Bề ngoài không thấy gì khác nhưng nó đã là yêu tinh, thí chủ nên bỏ đi. Nếu thí chủ bằng lòng bần đạo sẽ yểm bùa nó rồi thí chủ đem vứt nó xuố ng sông hoặc chôn sâu dưới dất, ngăn không cho nó giở phép yêu ra được.

    - Con dao này là của gia truyền từ cụ tổ, chúng tôi không dám vứt nó đi, e có tội với tổ tiên.

    Ðạo sĩ có vẻ suy nghĩ 1 chút rồi nói:

    - Nếu thí chủ không muốn vứt đi thìđể bần đạo yểm bùa rồi thí chủ cất nó vào một chiếc hộp hoặc chiếc vỏ dao, đừng dùng đến nó nữạ

    Anh Lập có vẻ ngần ngại. Biết ý anh, đạo sĩ nói:

    - Bần đạo biết thí chủ không muốn cất bỏ nó sợ phật ý vong hồn các vị tiền nhân. Thôi cũng đự念7907;c, vì giờ đây nếu con dao yêu tinh có hoành hành thì nó cũng chỉ giết hại lợn của người ta thôi, thí chủ phải để ý đừng để máu người giây vào nó. Biết mùi máu người nó se giết người.

    Anh Lập hứa vâng theo lời đạo sĩ. Trước khi giã từ đạo sĩ trao cho anh một lá bùa và dặn rằng:

    - Khi nào lỡ có máu người giây vào con dao, hoặc thấy con dao trở nên nguy hiểm, hại tới mạng người thì thí chủ dùng ngay lá bùa này quấn vào chuôi dao, lấy chỉ ngũ sắc buộc lại cất vào một nơi, yêu tinh sẽ không làm hại được ai nữa.

    Anh Lập nhận lá bùa và tiễ n đạo sĩ ra cổng. Anh cất lá bùa vào ống hương trên bàn thờ, rồi anh cũng không để ý gì đến những lời của đạo sĩ đã căn dặn.

    Thời gian trôi qua, thỉnh thoảng trong làng vẫn có những con lợn đêm hôm bị kẻ gian tới chọc tiết. Dần dà người ta quen đi, nhà nào có lợn bị giết, ngày hôm sau đem bán thịt và lòng cũng chẳng thiệt hại bao nhiêu chỉ mất có ít tiết. Anh Lập vẫn dùng con dao gia truyền để làm lợn và cô Ðinh ngày ngày vẫn mang theo dao đi chợ để cắt thịt, chặt xương bán cho khách hàng.

    Trong một buổi chợ có một bà khách mua một mớ xương, mua xong bà mượn dao của cô Ðinh để chặt nhỏ những miếng xương lớn. Chiều khách cô cho mượn dao nhưng không ngờ bà khách loay hoay thế nào để lưỡi dao làm đứt tay chảy máu, máu ra khá nhiều loang khắp lưỡi dao. Người ta phải lấy vải buộc ngón tay cho bà. Việc này xảy ra cô Ðinh cũng quên đi và cũng chẳng ai chú ý tới, dùng dao sắc đứt tay là chuyện thường.

    Vài đêm sau ở xã Ngư Ðại có chuyện lạ ! Có người đang ngủ tại nhà, bỗng nhiên bị chọc tiết như lợn, tiết ồng ộc chả y ra và chết ngay trên giường. Mạng người là quan trọng, Lý Trưởng phải bẩm quan, quan đã phái lục sựới khám nghiệm điều tra. Cả làng xôn xao về vụ án mạng này. Anh Lập sực nhớ tới lời đạo sĩ căn dặn, nhưng anh còn hồ nghi không biết có phải chính con dao là thủ phạm vụ chọc tiết người chăng??

    Một vụ án mạng thứ hai lại xảy ra khi vụ thứ nhất còn đang trong vòng điều tra. Nạn nhân thứ hai này cũng bị chọc tiết như nạn nhân thứ nhất. Mũi dao đâm chính xác khiến kẻ bị giết không kịp kêu. Lý Trưởng, Trương Tuần lại bận rộn, Quan trên lần này phái Chánh Tổng Bất Phí về tận nơi để điều tra. Nnh Lập nghĩ tới lời đạo sĩ nói con dao chỉ có thể giết người khi lưỡi dao bị dính máu người. Máu ai đã dính vào lưỡi daỏ Vợ chồng anh cũng như cô em gái có ai dám giết người mà bảo lưỡi dao đã nhuốm máu người. Mnh Lập hỏi cô Ðinh, anh ngỡ cô em đã gây lộn với ai rồi dùng dao đâm người ta chăng? Nếu điều này xảy ra việc phải ầm làng lên chứ đâu thể nào. Hay là kẻ bị đâm chỉ bị thương nhẹ rồi do sự àn hòa mà mọi sự an thỏạ

    Thôi chắc là con dao đã bị dính máu người. Anh phải dùng ngay lá bùa của đạo sĩ đã yểm con dao nếu không yêu tinh còn sát hại nhiều người nữa.

    Vẻ lo lắng của anh Lập làm cô em ngạc nhiên. Vừa ngay lúc ấy vị hôn phu của cô tới thăm cô. Bằng một giọng thương mến cô trách anh sao lâu quá mới tới thăm cô. Bnh ta trả lời mắc bận, cô Ðinh vừa cười vừa nói đùa:

    - Anh mà lạng chạng với cô nào đừng trách em sẽ cho con dao này lấy tiết anh.

    Cô Ðinh thuận tay lấy con dao ở rổ ra chĩa vào người yêu để dọa đùa. Nào ngờ một sức mạnh vô hình đã đẩy tay cô đưa thẳng mũi dao vào cổ anh Trần.

    Thấy tay cô Ðinh dưa thẳng mũi dao vềphía cổ họng mình, anh Trần ngửa người để tránh. Và lúc ấy cô Ðinh cũng cố ghìm tay mình lại, giữ không cho con dao có thể đâm tới người yêu. Một bên cố tránh, một bên cố ghìm dao lại vậy màmũi dao vẫn cứ đâm tới anh Trần. May là chỉ sượt qua vai làm rách áo và máu chảy chan hòa.

    Cô Ðinh vứt vội con dao xuống đỡ lấy anh Trần, lấy thuốc lào rịn vào vết thương cho anh để cầm máu. Anh Lập đã chứng kiến sự việc từ đầu tới cuới, anh mắng cô Ðinh sao lại có lối đùa chết người như thế.

    Cô Ðinh mếu máo khóc nói cô chỉ đưa con dao ra để đùa voi anh Trần. Không hiểu sao con dao như cứ tự động tiến tới muốn đâm vào cổ họng anh Trần. Cô phải hết sức cố gắng ghìm lại, nên mũi dao chỉ đâm sướt qua vai người yêu mà thôi.

    Nghe cô em nói, nghĩ tới mọi vu án mang da xay ra, anh Lập đi tìm lá bùa mà trước đây đạo sĩ đã tặng, anh cất nơi ống hương. Nhưng khi lấy được ra, anh kêu cô em đưa cho mình con dao thì con dao đã biến đâu mất.Rõ ràng cô Ðinh vừa vứt con dao xuống đất, cả anh Lập và anh Trần đều trong thấy, giờ đây nó biến đi dâu nhanh vậy. Anh Lập nhớ lại chuyện bọn Trương Tuần kể cho anh nghe, con dao để ở sân nhà Lý Trưởng cũng đã tự nhiên biến mất.

    Không tìm thấy con dao anh lai cất bùa dị

    Con dao biến mất hẳn không tìm thấy nữa, cô Ðinh đi chợ bán thịt phải mua dao khác, và gia đình anh Lập cũng phải dùng con dao khác để lấy tiết mỗi buổi sáng khi giết lợn đi bán.

    Nếu con dao chỉ biến mất, câu chuyện đã được kết thúc nơi đây. Nhưng nó biến đi để đêm nào trong làng Doi hoặc các làng lân cận cũng có những vụ kẻ gian tới chọc tiết lợn trong chuồng và cứ dăm ba ngày lại xảy ra một vụ chọc tiết người, không sao tìm ra được thủ phạm.

    Các nhà chức trách làng xã, hàng tổng, hàng huyện đều xôn xao vì quá nhiều vụ án mạng.

    Mọi vụ giết người, giết lợn này chỉ chấm dứt vào một buổi trưa, trời đang nắng bỗng nổi cơn dông, mưa đổ xuống, rồi một tiếng sét lớn đánh gãy đôi một cây đềcổ thu được trồng trên con Ðường giữa làng Doi và làng Gộị

    Những người đi đến xem sét đánh nói rằng, cây đề gãy gục xuống và có máu chảy ra, người ta lại nhặt được ngay dưới gốc cây một con dao chọc tiết lợn chuôi rất sắc.

    Anh Lập từ khi con dao biến mất và luôn luôn có những án mạng xảy ra, anh rất hối hận vì đã không nghe lời đạo sĩ yểm bùa và cất con dao đi. Nay được tin sét dánh cây đềvà dưới gốc cây có con dao anh mới yên tâm, không lo lắng những vụ án mạng khác xảy ra nữạ

    Người ta nói rằng sau này anh Lập cố tìm chuộc lại con dao, yểm bùa cất vào rương để làm kỷ niệm gia truyền


  2. Những lời đồn về ma quỷ, xương người và tử khí bốc lên ở toà lâu đài cổ của dòng họ khiến tác giả - người đại diện cuối cùng của một dòng họ quý tộc quyết tâm chứng minh về danh dự thanh bạch của tổ tiên. Tôi đã cùng một nhóm nhà khoa học nổi tiếng lao xuống tầng ngầm - một tử địa khủng khiếp từ thời hoang sơ để rồi chạm trán với những điều kinh dị và điên loạn...

    Sau khi công việc phục hồi, sửa sang hoàn tất, tôi vội đến Exhem Prairie vào ngày 16 tháng 7 năm 1923. Việc phục chế thật tuyệt vời và kỳ vĩ.

    Toà lầu đài ấy là nơi sinh ra và lớn lên của tổ tiên tôi, vì thế tôi không hề tính toán khi bỏ tiền xây dựng lại. Không còn ai sống ở đấy nữa suốt từ thời bi kịch khủng khiếp đổ ập xuống gia đình ngài James trưởng họ, khi ông chủ nhân cùng năm người con và một vài gia nhân đã chết đột ngột. Thành viên duy nhất trong gia đình còn sống là người con thứ ba của vị nam tước - cụ tổ trực tiếp của tôi. Ông đành phải rời khu nhà này vì kinh sợ và có mục đích khác là tránh mọi nghi hoặc.

    Sau khi người con trai thứ ba của vị nam tước bị coi là kẻ giết người thì lâu đài ấy đã bị triều đình tịch thu. Nhưng người con trai thứ đó không muốn bào chữa hay đòi lại tài sản gì hết. Sự kinh hoàng còn lớn hơn cả những gì thuộc về lương tâm cắn rứt hay pháp luật gây ra, ông chỉ có một khao khát duy nhất là sẽ chẳng bao giờ phải nhìn thấy toà lâu đài ấy nữa. Vì thế, Walter de la Power, vị nam tước thứ mười ba của dòng họ ở Exhem đã biến sang vùng Virginia.

    Lâu đài Exhem Prairie bị bỏ hoang không ai cư ngụ. Mãi về sau mới được sáp nhập vào đất đai của gia đình dòng họ Norris. Lâu đài đã thu hút sự quan tâm của các nhà bác học đến nghiên cứu vì kiến trúc phức tạp của nó: đấy là những ngọn tháp gôtích trên khung nhà Xắc-xông và La-mã với nền móng còn xưa hơn nữa, có lẽ từ thời Đạo giáo hay Kumbơ. Cái móng này vô cùng độc đáo, một bên nó gắn chặt vào bờ đá vôi cao trên sườn núi, nơi có một tu viện cổ hướng ra vùng thung lũng vắng vẻ cách làng Ankester ba dặm về phía Tây.

    Nếu kiến trúc xa xưa ấy đã cuốn hút các nhà kiến trúc và địa chất bao nhiêu thì dân địa phương càng căm ghét nó bấy nhiêu. Sự căm thù đó nảy sinh từ thời tổ tiên tôi còn sống ở đây và đến giờ nó vẫn chưa nguội lạnh. Tôi ở Ankester chưa trọn một ngày thì đã nghe người ta kháo nhau rằng tôi là người có nguồn gốc sinh ra từ lâu đài đáng nguyền rủa ấy. Vào tuần này, công nhân đã phá lâu đài Exhem Prairie và hiện đang san bằng đống đổ nát. Tôi luôn hình dung rõ về phả hệ của gia đình và cũng biết chính xác việc ông tổ Mỹ của tôi đã rời quê cha đất tổ trong những hoàn cảnh lạ lùng như thế nào. Song tôi không biết chi tiết vì từ lâu gia đình vẫn giữ truyền thống im lặng về quá khứ. Toàn bộ giấy tờ liên quan đến lịch sử gia đình đều được cất giữ trong một phong bì niêm kín, nó được người cha chuyển cho con trai trưởng từ trước thời nội chiến với lời dặn chỉ được bóc sau khi ông qua đời. Mọi niềm tự hào đều có ngay tại đất Mỹ và dòng họ De la Power ở Virginia luôn được xã hội tôn trọng, dù người ta biết rằng họ nhà tôi kín đáo và ít cởi mở.

    Dòng họ tôi bị chao đảo từ thời chiến tranh, khi trang ấp của dòng họ tôi là Carfax trên bờ sông James bị đốt cháy. Vào cái thời loạn lạc kinh hoàng ấy, người ông của tôi bị chết cho nên chiếc phong bì chứa mọi quá khứ dòng họ cũng biến mất cùng với cụ.

    Chiến tranh chấm dứt, tất cả chúng tôi chuyển lên quê mẹ tôi ở miền Bắc. Tôi đã sống ở đó đến khi đứng tuổi và trở thành một người Mỹ điển hình. Cả cha tôi và tôi, không ai biết gì về nội dung đựng trong chiếc phong bì của dòng họ gia đình. Khi ấy tôi mải lo kinh doanh ở Massachusetts và chẳng còn chút hứng thú nào về bí mật lịch sử của gia đình mình. Nếu tôi nghi ngờ dòng họ đã dính dáng đến điều gì xấu xa thì có lẽ tôi cảm thấy sung sướng để từ bỏ lâu đài Exhem Prairie, mặc cho khu này làm tổ của bầy dơi và phong rêu phủ kiùn.

    Năm 1904 Cha tôi qua đời và chẳng để lại chúc thư cho tôi lẫn con trai duy nhất của tôi là Alfred. Chính thằng bé đã làm thay đổi cung cách lưu truyền của truyền thống gia đình. Tôi cho nó biết về những phỏng đoán chưa nghiêm chỉnh hay đúng đắn về lịch sử dòng họ nhà tôi. Nhưng trong thời chiến nótrở thành sĩ quan không quân và đóng quân ở Anh quốc. Nó đã viết thư kể tôi nghe một số truyền thuyết thú vị có liên quan đến gia đình tôi. Thế là cậu con trai tôi đã biết được dòng họ De la Power có một quá khứ huy hoàng và khá tàn bạo từ những chuyện của người bạn Eduard Norris, vốn là đại uý trung đoàn không quân hoàng gia. Cậu là sống gần ngay cạnh toà lâu đài dòng họ nhà tôi ở làng Ankexter. Những huyền thoại và mê tín của nông dân vùng này thật thiên hình vạn trạng và kỳ lạ đến mức có thể theo đó mà viết thành tiểu thuyết. Dĩ nhiên Norris không coi những chuyện lạ thường đó là nghiêm túc, nhưng con trai tôi lại rất quan tâm đến chúng và rồi nó kể lại cho tôi nghe. Chính những chuyện huyền hoặc này đã tạo ra sự quan tâm của tôi đối với nguồn gốc dòng họ. Cuối cùng tôi quyết định phục hồi và phục chế toà lâu đài cổ kính mà đại uý Norris đã chỉ cho Alfred xem, tôi đã đề nghị bác của cậu Norris - người sở hữu toà lâu đài lúc bấy giờ - cho chuộc lại với một số tiền tương đối.

    Năm 1918 tôi mua khu Exhem Prairie nhưng mọi kế hoạch phục chế bảo tồn phải gác lại vì con trai tôi từ mặt trận trở về với thương tật. Suốt hai năm sau tôi luôn chăm nom sức khoẻ cho nó đến mức thậm chí còn giao việc quản lý công việc cho những người khác trong nhà.

    Năm 1921 tôi còn lại một mình sau cái chết của con trai tôi, không mục đích, không công việc khi tuổi già ập đến. Thế là tôi quyết định giành những năm cuối đời để phục chế khu nhà tôi vừa mua. Vào tháng chạp, tôi đi Ankexter và làm quen với đại uý Norris, một chàng trai tính tình dễ thương, tràn trề sinh lực. Cậu ta đánh giá rất cao về con trai tôi. Cậu giúp tôi thu thập truyền thuyết và lập kế hoạch phục chế. Thật ra khu Exhem Prairie chẳng gây ấn tượng gì đặc biệt với tôi - nó chỉ còn là một đống đổ nát phủ đầy rêu, đầy những tổ quạ, là những ngọn tháp với các bức tường trơ trụi gạch, không có sàn nhà tử tế với vật dụng cần thiết bên trong. Tất cả chúng như đứng trên mép bờ vực của tàn lụi.

    Nhưng dần dần trước mắt tôi hiện lên hình hài một toà nhà tráng lệ của tổ tiên tôi cách đây ba trăm năm. Tôi bắt đầu hối thúc công nhân phục chế và chạm trán ngay với nỗi kinh hoàng xa xưa cùng mối căm ghét của nông dân vùng Ankexter. Sự kinh sợ và hiềm thù ấy dành cho cả toà lâu đài lẫn gia đình dòng họ tôi thời xưa và chúng mạnh đến mức lây sang những công nhân được thuê từ nơi khác tới và họ bỏ đi.

    Con trai kể rằng khi nó tới Ankexter người ta xa lánh, tránh né nó chỉ vì nó mang họ De la Power. Giờ thì tôi cảm nhận rõ điều đó ngay với bản thân mình, do đó tôi đã đi thuyết phục đám nông dân rằng tôi hầu như chẳng còn liên quan gì đến tổ tiên của tôi cả. Nhưng sau đó họ vẫn tiếp tục không mấy thiện cảm gì với tôi, và tôi phải thu thập mọi truyền thuyết của họ bằng cách thông qua Norris mà thôi. Hình như người ta không muốn tôi phục chế toà lâu đài mà họ vốn coi như hang ổ của quỷ dữ và phù thuỷ.

    Sau khi phân tích những truyền thuyết do Norris cung cấp và báo cáo của các nhà khoa học, tôi kết luận: Exhem Prairie hiện ở trên một khu vực đền đài rất cổ xưa của thời kỳ đạo giáo (Druidiswe) hay tiền đạo giáo. Nơi mà người ta nghi rằng đã hoàn tất những lễ nghi rùng rợn nhất, và có lẽ sau đó đã nhập vào nghi lễ sùng kính thần bà mẹ vĩ đại Kibela do người La Mã đưa tới. Trên lớp gạch xây ngầm dưới đất những dòng chữ còn được giữ lại: "Mẹ... thiêng... liêng vĩ đại... sáng ta...", điều này chứng tỏ về tục sùng bái Bà mẹ vĩ đại mà người ta đã không thể cấm các công dân La Mã tuân theo. Các cuộc khai quật minh chứng rằng Ankexter là trại quân của đội binh thứ ba của hoàng đế Augustin. Tại đây đền thờ Đức Mẹ vĩ đại rất được sùng chuộng và luôn có đông khách hành hương với vô số nghi lễ qua sự chỉ đạo của quan tư tế người xứ Frigi. Truyền thuyết kể rằng sự suy yếu của tôn giáo cũ không hề làm ngưng những cuộc tế lễ Tửu thần trong lâu đài, còn các quan tư tế đã chuyển sang một đức tin mới mà không hề thay đổi nếp sống của mình. Những cuộc hành lễ bí mật vẫn tiến hành và sau khi nền thống trị của La Mã cáo chung, một số người Xắc-xông đã dựng lại ngôi đền bị phá. Họ lập nên ở đây một trung tâm thờ phụng. Khoảng gần năm 1000 trước công nguyên, Exhem Prairie được nêu lên trong biên niên sử như là một lâu đài được một khu vườn lớn bao bọc không cần rào chắn. Toà lâu đài này thuộc về một dòng tu bí ẩn và đầy quyền năng. Nó không bị người Viking phá huỷ, nhưng sau cuộc chinh phục của người Noocmăng thì có lẽ nó lâm vào tình trạng hoang tàn. Dù thế nào đi nữa thì năm 1261, Henrik đệ Tam đã ban tặng toà lâu đài cho tổ tiên tôi là đức ông Hilbert de la Power, vị nam tước Exhem đầu tiên.

    Trước năm đó, thanh danh dòng họ gia đình tôi rất trong sáng, nhưng về sau có chuyện gì đó xảy ra. Trong sử biên niên năm 1307 có nêu tên một ngài De la Power "bị Thượng đế nguyền rủa", còn trong các truyền thuyết dân gian thì toà lâu đài xây cất tại nơi có ngôi đền ngẫu tượng giáo khét tiếng là khủng khiếp và ghê gớm. Những truyền thuyết này đã tạo nên mối kinh hoàng đầy mê tín và càng được thổi phồng dưới áp lực của bao chuyện đầy âm mưu đen tối. Chúng cho thấy tổ tiên dòng họ tôi là con đẻ của quỷ sứ mà trong số đó, hầu tước de Sad và Gile de Retx chỉ là những đứa trẻ vô tội, và tổ tiên tôi được gán cho cái tội dính dáng đến sự biến mất của nhiều người suốt vài thế hệ.

    Ô danh nhất chính là các ngài nam tước cùng những người kế vị trực tiếp của họ. Nếu một chủ nhân nào đó của toà lâu đài có đức tính thẳng thắn thì chắc chắn họ phải chầu trời bằng cái chết mau chóng không giải thích được, để rồi một kẻ độc ác thế chỗ họ. Dường như các ngài nam tước Exhem này có một tục thờ phụng bí ẩn của riêng dòng họ, thậm chí không cho tất cả mọi thành viên trong gia đình biết và chỉ do người trưởng tộc điều khiển. Một chuyện nữa khiến tôi đau lòng là những điều xì xào về những tiếng kêu gào than khóc ngoài thung lũng vắng vẻ lạnh lẽo dưới ghềnh đá vôi, về mùi thối rữa bốc lên từ đó sau những cơn mưa, về khúc xương trắng lọt dưới chân ngựa của ngài John Clive và về gã gia nhân hoá điên sau một lần nhìn xuống tầng hầm toà lâu đài cổ. Đúng là những chuyện cổ tích kinh sợ song tầm thường vì khi đó tôi là kẻ hoài nghi. Thật khó bác bỏ câu chuyện về những người nông dân mất tích, mặc dầu vào thời trung cổ chuyện này không phải hiếm thấy.

    Một số truyền thuyết kỳ lạ đến nỗi tôi lấy làm tiếc vì thời trẻ mình lại chưa học môn thần thoại đối chiếu so sánh. Chẳng hạn, một truyền thuyết giải thích những vụ thu hoạch rau quả bội thu trong các khu vườn trong lâu đài là do chúng là đồ ăn cho lũ dơi phù thuỷ mà cứ thứ bảy lại kéo lũ về đây tụ hội. Nhưng kỳ lạ hơn hết là chuyện kể về lũ chuột cống. Một lần, cả một bầy bẩn thỉu những con vật gớm ghiếc ấy chạy ào ra khỏi lâu đài và trên đường chúng nghiến ngấu chén sạch cả gà, mèo, chó, lợn sữa, cừu. Sự điên cuồng của chúng chỉ dịu đi sau khi chúng cắn chết hai nông dân. Việc đó xảy ra và chỉ ba tháng sau những người cuối cùng cư ngụ tại lâu đài ra đi.

    Ngày 16 tháng sáu năm 1923 tôi chuyển nhà, cùng định cư với tôi trong lâu đài là bảy gia nhân và con mèo già tuổi nhất tên là Niggerman mà tôi mang theo từ Massachusetts, còn những con khác tôi mua được lúc sống ở nhà đại uý Norris khi công việc phục chế đang tiến hành.

    Chúng tôi sống yên ổn, thoải mái trong năm ngày đầu. Sau đó con mèo già có tính phớt lạnh của tôi tỏ ra lo lắng, bồn chồn một cách lạ lùng. Nó luôn hốt hoảng nhảy từ phòng này sang phòng khác và thường xuyên đánh hơi cái gì đó. Hôm nay tại phòng làm việc trên tầng hai có vòm cung cùng các bản tường bằng gỗ sồi màu thẫm và chiếc cửa sổ kiểu gôtích ba cánh trổ ra phía thung lũng vắng lặng dưới ghềnh đá, tôi tiếp một gia nhân vừa tới than phiền rằng tất cả lũ mèo trong nhà có hành vi bất thường lo lắng. Tôi lập tức nhớ tới việc con Niggerman già đã rón rén bò dọc bức tường phía tây và lấy vuốt cào những bản gỗ mới lát phủ bức tường đá cũ.

    Tôi đáp lời gia nhân rằng có thể lớp đá xây dưới các bản gỗ lát toả một thứ mùi mà người không thấy được nhưng lại tác động đến khứu giác thính nhạy của mèo. Thực tế tôi đã nghĩ như vậy và khi gã gia nhân nói có thể có chuột nhắt hay chuột cống thì tôi bảo suốt ba trăm năm nay ở đây không có chuột, thậm chí đến chuột đồng cũng không thể lọt vào đấy được. Vào hôm ấy tôi ghé qua nhà đại uý Norris nói chuyện và chàng khẳng định với tôi rằng quả sẽ là chuyện kỳ lạ một khi chuột đồng lại lọt được vào toà lâu đài bằng đá xây này.

    Buổi tối sau khi nói chuyện với gia nhân như thường lệ, tôi bước vào phòng ngủ ở ngọn tháp phía tây mà tôi đã tự chọn cho mình. Một chiếc cầu thang bằng đá có từ xa xưa và một hành lang ngắn được trần thiết lại chạy từ phòng làm việc dẫn vào phòng ngủ. Phòng ngủ này hình tròn, có trần cao, bốn bức tường có lát gỗ và được trang trí bằng các tấm thảm treo tường tự tay tôi chọn mua ở Luân Đôn.

    Sau khi cho con mèo Niggerman vào phòng, tôi khép chiếc cửa ra vào và nặng nề đóng theo kiểu gôtích lại, cởi quần áo dưới ánh sáng ngọn đèn điện bé xíu làm giả ngọn nến, đoạn tắt đèn và nằm xuống chiếc giường có mùng, chú mèo Niggerman thì cuộn tròn dưới chân. Tôi không buông mùng mà cứ nằm, mắt nhìn qua khe cửa sổ nhỏ hẹp: ánh hoàng hôn trên trời tắt dần, những nét trang trí hoa văn cửa sổ qua lớp rèm nom thật xinh xắn.

    Có thể tôi đã thiếp đi bởi vì tôi nhớ tiếng động bất thình lình do cú nhẩy của con mèo gây ra đã khiến tôi choàng tỉnh. Trong thứ ánh sáng mờ nhạt tôi thấy hình bóng con mèo: đầu vươn về phía trước, hơi chân trước hơi khom lại, hai chân sau duỗi thẳng nom căng thẳng lắm. Nó nhìn chằm chằm vào đâu đó trên tường ở mé tây cửa sổ đó, nhưng dần dà sự chú ý của tôi đã tập trung vào cái điểm đó.

    Nhìn chăm chú một lúc tôi hiểu rằng chẳng phải vô cớ mà con mèo đã tỏ ra lo lắng đến thế. Tôi có cảm giác những tấm thảm trên tường lay động, nhưng tôi không thể khẳng định chắc chắn về điều này. Điều tôi dám chắc là việc sau các tấm thảm tôi nghe thấy tiếng ồn ào khe khẽ giống như chuột nhắt hay chuột đồng vừa chạy vừa kêu. Một giây sau đó, con mèo nhảy lên một tấm tranh thảm và giật nó rơi xuống sàn làm lộ mảng tường cũ mà trên lớp vữa mới trát không hề có dấu vết con chuột nào hết.

    Con Niggerman cứ dùng móng vuốt cào tấm thảm, thỉnh thoảng cố thò chân vào giữa ngách tường và sàn lát gỗ sồi, vừa đưa chân vừa chạy dọc bức tường. Nó chẳng tìm thấy gì mà miễn cưỡng trở lại giường với tôi. Suốt thời gian đó tôi không rời khỏi chỗ, nhưng rồi sau đó tôi chẳng hề ngủ được.

    Sáng ra tôi hỏi tất cả mọi gia nhân, nhưng chẳng ai thấy điều gì lạ cả, chỉ có chị bếp nhớ rằng một con mèo cái ngủ trong buồng chị ta trên bậu cửa sổ bỗng nhiên rú lên đánh thức chị dậy rồi sau đó nó nhảy vọt ra cửa ra vào không khép và lao xuống cầu thang. Tôi ngủ gật cho đến bữa trưa, rồi sau đó lại nhà đại uý Norris. Chàng ta rất quan tâm đến chuyện tôi kể. Những điều xảy ra tuy nhỏ nhặt, nhưng thật lạ lùng đã thức tỉnh trí tưởng tượng của chàng, và lập tức Norris nhớ lại số điều mê tín huyền bí ở vùng này. Dựa vào chúng, Norris đưa tôi thuốc bả chuột và cái bẫy chuột và khi về đến nhà tôi liền đưa các gia nhân đặt thuốc chuột và các bẫy chuột ở trong lâu đài.

    Tôi đi ngủ và mau chóng thiếp đi, nhưng chẳng bao lâu tôi tỉnh dậy vì một cơn ác mộng. Từ trên rất cao tôi nom xuống một cái hang nửa sáng nửa tối, nơi đây bùn ngập đến đầu gối, một gã quỷ chăn lợn có chòm râu trắng đang lùa những con vật gì đó nhún nhùn bị thối rữa mà bộ dạng của chúng làm cho tôi ghê tởm không sao tả xiết. Sau đó gã dừng lại gật đầu với ai đó. Thế là một đàn rất đông chuột cống lăn từ mép vực xuống để ăn thịt nghiến ngấu cả gã râu trắng lẫn những con thú kia.

    Những chuyển động của con Niggerman đã thức tôi dậy. Tôi lập tức thấy vì sao nó uốn cong lưng ư ử, dùng vuốt cào chân tôi. Khắp nơi đều nghe thấy tiếng những con chuột cống to, đói chạy khắp lâu đài. Trời tối như mực, vì thế trong bóng tối tôi không thể nhìn rõ các bức tranh thảm có lay động không, vì vậy tôi bật đèn lên.

    Khi bóng đèn sáng thì tôi thấy các tấm thảm đung đưa khiến cho những tua viền độc đáo rung rinh tựa hồ vũ điệu của thần chết. Nhưng rồi cả sự rung rinh lẫn mọi tiếng động chấm dứt ngay. Nhảy từ trên giường xuống, tôi với lấy tay nắm túi chườm nóng dùng than và dùng nó để chọc sâu vào đằng sau các tấm tranh thảm và nhấc một cái lên. Ở đấy chẳng có gì cả chỉ một bức tường trát vữa, và thậm chí con mèo cũng thôi cái vẻ căng thẳng. Tôi xem xét cái bẫy chuột được đặt trong phòng. Nắp bẫy sập xuống nhưng bẫy rỗng không: thậm chí một chút xíu lông cũng không thấy.

    Giờ thì chẳng còn nói gì tới việc ngủ nghê nữa, vì vậy tôi cầm cây nến đi cùng con mèo theo hành lang tới chỗ cầu thang dẫn xuống phòng làm việc của tôi. Nhưng khi chúng tôi vừa bước đến các bậc thang đá thì con Niggerman vọt lên trước và biến mất. Khi tôi bước vào phòng làm việc thì lập tức nghe thấy những âm thanh mà không thể lẫn lộn với bất cứ cái gì.

    Những tấm ván lát gỗ sồi vọng lên tiếng đàn chuột kêu, còn con Niggerman lao tới lao lui với vẻ cuồng nhiệt của gã thợ săn bị mất con mồi. Tôi bật đèn, nhưng lần này tiếng động không chấm dứt. Bọn chuột tiếp tục trò nghịch của chúng và ầm ầm với sức mạnh đến mức tôi có thể xác định được hướng chung trong cuộc di chuyển của chúng. Quả là đang diễn ra cuộc chuyển dịch khổng lồ của đám sinh vật này từ đâu đó bên trên xuống tầng hầm hoặc còn sâu hơn nữa.

    Tôi nghe thấy tiếng chân bước ở hành lang, cửa mở ra và hai gia nhân xuất hiện. Hoá ra là tất cả những con mèo còn lại bỗng nhiên đều gầm gừ và cong lưng lên rồi sau đó chúng lao xuống cầu thang và bây giờ đang meo meo và cào cào vào các cửa ra vào dẫn xuống tầng hầm. Tôi hỏi xem hai gia nhân kia có nghe thấy chuột không thì họ lắc đầu. Tôi bảo họ để ý đến tiếng sột soạt nhưng lập tức nhận ra là đã im ắng.

    Hai gia nhân đi kèm tôi xuống cửa tầng ngầm nhưng lũ mèo đã tản mát đi hết cả. Tôi bèn quyết định xem xét tầng hầm sau, hiện thời chỉ xem các bẫy chuột thôi. Tất cả các bẫy đều sập nhưng không có con chuột nào mắc bẫy cả. Tôi cứ ngồi vậy đến sáng trong phòng làm việc rồi thiếp đi một lúc đến trưa trong chiếc ghế bành ở thư viện, chính việc đặt cái ghế bành này đã làm hỏng đi nội thất Trung cổ. Sau đó tôi điện thoại cho đại uý Norris để chàng đến và giúp xem xét việc tầng hầm.

    Chúng tôi chẳng thấy có gì lạ cả ngoài việc cảm thấy xao xuyến với cảnh khu hầm mộ có lẽ được xây lên bởi cánh tay người La Mã. Những cái vòm thấp và những chiếc cột dày đúng kiểu La Mã chứ không giống những công trình thô mộc của người Xắc-xông. Trên các bức tường là rất nhiều những dòng chữ đã được các nhà khảo cổ mô tả, chẳng hạn: "Nhà vua... thời... chống... Pontific... xứ Atis..." Khi thấy dòng chữ về Atis tôi bất giác giật mình nhớ lại rằng tôi đã đọc tác giả Katulla về những lễ nghi khủng khiếp dâng lên vị thần phương Đông này. Sự cúng tế vị thần ấy đã hoà trộn với sự sùng kính Đức mẹ vĩ đại Kibela. Dưới ánh sáng đèn pin, tôi và Norris chẳng có gì thành công đặc biệt khi cố gắng lý giải những bức vẽ đã bị mờ phần nửa trên những khối đá vuông từng được dựng làm bàn thờ. Chúng tôi bỗng nhớ lại là có một hình vẽ Mặt trời với các tia sáng đã được các nhà khoa học xác định niên đại vào thời kỳ trước La Mã. Thế có nghĩa là các bàn thờ đã được các quan tư tế La Mã lấy từ khu đền thờ cổ xưa hơn của dân địa phương ở chỗ này. Những vết màu nâu trên một bàn thờ đã thu hút sự chú ý của tôi. Trạng thái bề mặt của bàn thờ lớn nhất trong số đó đã cho thấy người ta đã đốt lửa trên đó: Có lẽ vật hiến tế, nạn nhân đã bị đốt cháy ở đấy.

    Tôi với Norris quyết định qua đêm ở trong hầm mộ này nơi lũ mèo đã cào cửa. Gia nhân đã khiêng mấy cái đi văng xuống và họ được ra lệnh không được chú ý đến cuộc di chuyển của đàn chuột lúc ban đêm. Con Niggerman được chúng tôi mang theo vì tin tưởng vào sự thính nhạy của nó. Chúng tôi khép cánh cửa gỗ sồi nặng nề lại, châm đèn và chờ đợi.

    Tầng ngầm rất sâu vì móng của nó có lẽ ăn sâu thậm chí vào cả núi đá vôi với ghềnh đá lơ lửng tr6n khu thung lũng hoang vắng. Tôi không hồ nghi việc lũ chuột không biết từ đâu tới đã lùng sục lao tới chính nơi đó. Trong khi nằm đợi thỉnh thoảng tôi lại chìm vào một giấc ngủ chập chờn rồi lại choàng tỉnh vì những cử động đầy căng thẳng của con mèo.

    Tôi lại mơ thấy chuyện kinh hãi, nhưng lần này mọi chi tiết của cơn ác mộng dường như gần lại hơn, nhìn thấy rõ ràng hơn. Tôi chăm chú nhìn những đường nét nhoè của một con vật rồi bỗng thức dậy với tiếng hét to đến nỗi con Niggerman nhảy bật sang bên, còn đại uý Norris thì cất tiếng cười.

    Khi mọi sự bắt đầu, Norris liền đánh thức tôi và bảo tôi lắng nghe các con mèo. Từ phía ngoài cửa vọng lại tiếng mèo kêu xé ruột và tiếng vuốt cào, còn con Niggerman chẳng hề chú ý đến các đồng loại bên ngoài mà cứ chạy đi chạy lại dọc các bức tường trần trụi.

    Vì một điều gì đó dị thường không thể giải thích nổi nên tôi thấy kinh sợ. Nếu như tôi và lũ mèo không có ảo giác thì đúng là đàn chuột đang sột soạt kia chui từ trên xuống dưới bên trong những bức tường La Mã mà tôi cho rằng được xây bằng những khối đá đặc. Nhưng thậm chí nếu điều đó có là như vạây, nếu trong đó có những sinh vật sống thì vì sao Norris không nghe thấy chúng? Vì sao Norris rất chú ý đến Niggerman và lũ mèo ở bên ngoài song lại không hề đoán định xem hành vi của chúng do cái gì gây ra.

    Nghĩ vậy tôi liền cố gắng kể một cách bình tĩnh và lôgíc cho Norris nghe về những gì tôi đã nghe thấy, song ngay lúc đó tiếng động tắt hẳn. Tiếng động đã tới xa hơn xuống dưới, vào sâu hơn, thấp hơn tất cả mọi tầng hầm có thể và dường như tất cả ghềnh đá dưới chân chúng tôi đều chen chúc những con chuột đang chạy ầm ầm. Norris không hề bộc lộ chút nghi ngờ nào mà ngược lại, chàng nghe tôi một cách chăm chú. Bằng cái khoát tay chàng chỉ cho tôi hay bọn mèo ngoài cửa đã im lặng, dường như mọi dấu vết của bầy chuột đã mất, song con Niggerman lại gầm gừ và bây giờ rối rít như điên dại cào xuống nền bàn thờ ở giữa khu hầm mộ.

    Có một cái gì lạ thường đang xảy ra. Tôi thấy đại uý Norris, giờ cũng có vẻ lo lắng thật sự. Chúng tôi lo lắng nhìn con mèo bây giờ đang dần dần bình tĩnh trở lại, tuy nhiên vẫn cứ chạy quanh bàn thờ.

    Norris đưa chiếc đèn lại gần bàn thờ hơn, chàng quỳ xuống và dùng tay bới lớp rêu xưa cũ để nhìn cho rõ hơn cái nơi tấm đá nặng đè xuống sàn. Norris chẳng tìm thấy gì và đã muốn đứng dậy thì bỗng nhiên tôi nhận ra một tình huống giản đơn nhưng đã khiến tôi phải run rẩy mặc dầu điều đó chỉ khẳng định cho những mối hoài nghi đã hình thành trong tôi.

    Tôi nói ngay điều đó cho Norris hay và chúng tôi hồi hộp quan sát cái hiện tượng thông thường không gì bác bỏ được: ngọn lửa của cây đèn đặt gần bàn thờ đã bị xiên lệch đi sang một bên như có cơn gió lùa. Không nghi ngờ gì nữa, luồng khí bốc ra từ khe hở giữa sàn và bàn thờ.

    Phần đêm còn lại trôi qua trong phòng làm việc tràn ngập ánh sáng, chúng tôi ngồi thảo luận những hành động tiếp theo. Người ta sẽ rất kinh ngạc khi chỉ cần biết một phát hiện rằng dưới khối đá xây La Mã cổ xưa này còn tồn tại một hầm mộ sâu hơn nữa mà hiện thời chưa có ai trong số các nhà khảo cổ đã làm việc ở đây suốt ba trăm năm qua. Mà nơi đây còn có biết bao truyền thuyết ghê rợn xung quanh lâu đài nữa chứ, ý thức bị kích động của chúng tôi nhắc nhở đến hai lối thoát: hãy rời bỏ lâu đài này mãi mãi, hoặc lấy hết can đảm để quyết định thực hiện những cuộc mạo hiểm và tiến hành việc khai quật sàn nhà lên để tiến vào lòng đất.

    Đến sáng chúng tôi đồng ý thoả hiệp: tới Luân Đôn thuê một nhóm các nhà khảo cổ chuyên nghiệp và vén tấm màn bí ẩn lên với sự giúp đỡ của họ. Tuy nhiên, trước khi rời khu hầm, chúng tôi đã chẳng thành công khi toan tính nhấc bàn thờ ra chỗ khác, mà chắc chắn chính cái bàn thờ là cửa dẫn tới một nơi bí hiểm đáng sợ, vì vậy giờ đây chúng tôi rất muốn giành cho những nhà chuyên môn tìm hiểu mọi sự.

    Chúng tôi ghé lại Luân Đôn một thời gian lâu để đàm phán với năm nhà khoa học. Sau khi xem xét những sự kiện, phỏng đoán truyền thuyết do chúng tôi trình bày, họ không những không cười chế nhạo chúng tôi mà ngược lai, họ biểu lộ mối quan tâm cùng sự đồng cảm chân thành. Không cần phải nhắc tên tất cả bọn họ, nhưng tôi có thể nêu tên chẳng hạn ngài William Brinton nổi danh với những cuộc khai quật khu thành Tơroa. Cuối cùng khi đoàn tàu chuyển bánh, cái đoàn tầu chở cả nhóm chúng tôi về Ankester, bỗng tôi cảm thấy mình đang đứng trên ngưỡng cửa những phát hiện khủng khiếp. Có thể cái chết của vị tổng thống của chúng tôi ở bên bờ đại dương trùng hợp với sự mở đầu cuộc hành trình và bầu không khí tang tóc chung giữa những người Mỹ sống ở Anh quốc đã tác động đến như vậy.

    Buổi chiều tối, ngày mồng bảy tháng 8, chúng tôi về đến Exhem Prairie và được biết khi chúng tôi vắng mặt thì chẳng có gì bất thường xảy ra cả. Lũ mèo hoàn toàn ăn ngon ngủ yên, chẳng có cái bẫy chuột nào bị sập hết. Chúng tôi dự định bắt đầu nghiên cứu vào hôm sau, còn hiện thời tôi bố trí khách đến nghỉ ở các phòng.

    Còn tôi ở lại phòng ngủ của tôi chỗ ngọn tháp cùn chú mèo Niggerman. Tôi thiếp đi rất nhanh nhưng lập tức những cơn ác mộng lại vồ lấy tôi. Tôi mơ thấy một ngày hội tiệc La Mã tại đó, trung tâm chú ý là một món ăn đậy kín tàng chứa một cái gì đó thật khủng khiếp. Sau đó gã mục đồng ghê gớm đáng nguyền rủa cùng bầy gia súc bẩn thỉu trở lại trong cái hang tranh tối tranh sáng. Song tôi dậy muộn khi trời đã sáng bạch. Niggerman vẫn còn ngủ say. Khi xuống gác tôi thấy trong nhà đang ngự trị sự yên tĩnh. Một trong số các nhà nghiên cứu là ông Toruton đã toan giải thích khá ngây ngô về sự tĩnh mịch, ông cho rằng những sức mạnh nào đó đã chỉ cho tôi thấy những gì mà tôi đã cần phải thấy rồi và đó là nguyên do sự yên tĩnh.

    Đến 11 giờ thì tất cả mọi chuyện đã được chuẩn bị. Sau khi được trang bị bằng những ngọn đèn công suất mạnh và dụng cụ chuyên dụng, chúng tôi xuống tầng hầm và đóng cửa ra vào lại. Do tin tưởng vào độ thính nhạy của Niggerman nên các nhà khoa hôc quyết định mang theo chú mèo đề phòng chạm trán với lũ chuột.

    Chúng tôi liếc qua những dòng chữ La Mã cùng những hoa văn trang trí nơi bàn thờ, bởi vì ba trong số các nhà khoa học đã thấy từ trước, và cả năm người đều đã đọc phần mô tả những điều đó rồi. Giờ thì tất cả mọi chú ý tập trung vào bàn thờ trung tâm và một giờ sau ngài William Brinton đã đưa chiếc xà beng là đòn bẫy vào kẽ và cả tấm lát đáy đã được lật nghiêng về phía sau.

    Nếu chúng tôi chưa được chuẩn bị về tâm lý từ trước thì chắc chắn cái cảnh tưởng kinh khủng vừa được mở ra đã làm cho tất cả chúng tôi hoảng hốt và bàng hoàng rồi. Qua một tấm lỗ cửa vuông trên bàn đá chúng tôi thấy chiếc cầu thang với các bậc đã mòn trên đó rải đầy xương người. Bộ dạng của những bộ xương còn nguyên vẹn, nhiều khúc xương đã bị chuột gặm, nhiều cái đầu lâu chứng tỏ về sự điên dại rõ ràng hoặc những hành vi kì quặc nơi những chủ nhân của chúng.

    Xuôi xuống cuối cái thang kinh khủng này là một đường hầm hình như được đục vào vách đá và dẫn dòng không khí xuyên qua, đó không phải là sự dao động của không khí thì khoảng khắc như lúc đóng chặt nắp cửa hầm mà là sự thông khí mát mẻ thường xuyên. Hơi chậm lại một chút, chúng tôi run rẩy, rùng mình bắt ty dọn dẹp lối đi. Chính lúc đó thì ngài William sau khi xem xét các bức tường đá bàn nói rằng căn cứ vào hướng của những lớp đá thì đường hầm này được đục xuyên xuống dưới. Bây giờ là lúc tôi phải trấn tĩnh và lựa chọn từng từ, từng chữ một cách đặc biệt cẩn thận để nói.

    Sau khi bước xuống vài bậc nhỏ, chúng tôi thấy có ánh sáng ở phía trước, đó không phải là thứ ánh sáng lân tinh huyền hoặc ma quái mà là ánh sáng ban ngày bình thường, thứ ánh sáng không thể nào lọt qua từ một nơi nào đó được, ngoại trừ nó được xuyên qua những lỗ thủng bí mật trong tầng đá mà cả toà lâu đài được xây trên đó. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên với việc những lỗ thủng này không được tìm thấy trước đây. Thung lũng hoàn toàn không có ai ở, còn gềnh đá lơ lững trên khu thung lũng lại quá cao. Sau vài bước nữa, tất cả chúng tôi thấy sởn gai ốc vì một cảnh ghê gớm mới và đứng tim với đúng nghĩa của từ này bởi ngài Toruton ngã ngất ngay lên tay của chàng Norris hàng xóm nay lặng người đi không động đậy, khuôn mặt chàng bỗng nhợt đi và mất hết thần sắc, còn tôi giọng trở nên khò khè và hai mắt nhắm nghiền.

    Ai đó đứng sau tôi rên rỉ bằng một giọng phều phào chẳng còn chút sức sống "Ối trời ơi!". Trong cả bảy người đàn ông nơi đây chỉ có ngài William Brinton còn tự chủ bình tĩnh mặc dầu ngài đi đầu nhóm và phải là người đầu tiên chạm mặt với cái địa ngục này.

    Ấy là một cái hang kích thước rất rộng tranh tối tranh sáng trong đó nhìn rõ những nấm mộ, những tảng đá được xếp thành một đường tròn, một công trình cấu trúc kiểu La Mã với vòm trần thấp, một bệ thờ của người Xắc-xông đã bị huỷ hoại, một toà nhà gỗ kiểu thời kỳ mông muội của người Anh. Nhưng tất cả những cái đó đều mờ nhạt đi trên cái nền phông là một biển xương người. Phần lớn các bộ xương ấy được chất thành những đống lộn xộn chẳng ra hình thù gì, nhưng một số còn xếp giữ dạng bộ xương nguyên mà tư thế của chúng thể hiện rõ sự giận dữ man dại hoặc là họ cố trốn chạy mối hiểm hoạ hay là đang tóm giữ người khác với kẻ khát máu.

    Nhà khảo cổ, tiến sĩ Trusk bắt đầu nghiên cứu những chiếc đầu lâu và lắc đầu thừa nhận đây là kiểu đầu lâu biến dạng ông ta chưa hề biết đến. Phần lớn đầu lâu xếp theo bậc tiến hoá thì đứng thấp hơn người Piltdon, nhưng xét về mọi đặc điểm thì là loài người. Các nét của một số đầu lâu chứng minh về giai đoạn phát triển cao hơn, còn một số thì là loại người hiện đại phát triển. Xương cốt đã bị chuột gặm, nhưng nhiều cái xương cũng mang dấu vết cắn của răng người. Đây đó lẫn với xương người cũng lăn lóc những cái xương nhỏ của chuột - nạn nhân cuối cùng của tấn bi kịch cổ xưa.

    Thật lạ lùng nhưng sau tất cả những phát hiện đó chúng tôi vẫn còn sống và thậm chí còn đủ trí năng suy nghĩ. Có lẽ ngay cả trong cuốn tiểu thuyết khủng khiếp nhất theo phong cách lôgíc thì cả Hoffman lẫn Hainsmans cũng khó lòng viết nổi những cảnh tượng kì lạ ghê rợn đến thế như cái hang tranh tối tranh sáng này. Trong khi cứ qua mỗi bước chân lại chạm trán với một phát hiện kinh khủng mới, chúng tôi cố không nghĩ tới những gì đã xảy ra nơi địa ngục này cách đây ba trăm năm hay một ngàn năm, hay một vạn năm. Ngài Toruton lại ngất đi khi ngài Trusk cho biết nếu căn cứ theo các bộ xương thì có nhiều người tại đây đã bò bằng hai tay, hai chân suốt cả hai chục thế hệ liên tục.

    Những nỗi kinh hoàng mới đã theo đuổi khi chúng tôi toan tính tìm hiểu, nghiên cứu các công trình xây dựng đó. Người ta đã giam hãm những con người bốn chân (trong số họ chúng tôi cũng gặp một số bộ xương của người đứng thẳng hiện đại) ở trong những gian ngăn có rào chắn mà sau đó họ đã phá tan để thoát ra ngoài, những con người bị hành hạ bởi cái đói và mối kinh sợ trước những con chuột gớm ghiếc. Rõ là nơi đây đã có hàng đàn tù nhân và họ được nuôi bằng thứ rau dành cho gia súc mà những phần còn sót lại đã rữa nát vốn được xếp chặt trong những vựa lúa xây bằng đá theo lối kiến trúc thời tiền La Mã. Giờ thì đã rõ việc tại sao tổ tiên tôi đã có những khu vườn lớn đến thế - Lạy Chúa, hãy rủ lòng cho tôi quên hết sự này đi. Còn những tù nhân được dùng để làm gì cũng khỏi cần phải hỏi nữa.

    Tay xách chiếc đèn bình trong khu xây dựng kiểu La Mã, ngài William bình tĩnh kể chuyện về những lễ nghi kì lạ không tài nào tin nổi và về chế độ ăn uống đặc biệt của các quan tư tế thuộc một phong tục thờ cúng thời tiền sử mà sau đó đã nhập thành lễ thờ phụng Đức mẹ Kibela. Chàng Norris, người từng nếm trải những năm chinh chiến trong bao ngóc ngách chiến hào cũng không thể không run rẩy trong toà nhà Anh quốc đã có thời là lò sát sinh và nhà bếp ghê tởm như chàng đã xác định. Vả lại, suy nghĩ của tôi thấy quá hãi hùng khi thấy những vật dụng Anh quốc bình thường ở nơi này, khi đọc những dòng chữ tiếng Anh ở đây, dòng chữ gần đây nhất được viết năm 1610. Tôi không tài nào bước vào được toà nhà ngầm này, các nơi đã xảy ra bao điều ác gây nên bởi lưỡi dao của ông tổ dòng họ tôi, ngài Walter de la Power.

    Tôi mạnh bạo bước vào căn phòng kiểu Xắc-xông với những chiếc cửa gỗ sồi đã long bản lề và nhìn thấy mười cái xà lim được xây xếp thành hàng với những chiếc song sắt đã hoen gỉ. Trong ba xà lim ấy có những tù nhân - những bộ xương của người ở bậc cao trong sự tiến hoá, và tôi còn phát hiện thấy chiếc nhẫn với dấu khắc hình gia huy nhà tôi trên ngón tay của một người trong số họ. Ngài William còn tìm thấy một khu ngục tối cổ xưa hơn thế trong toà nhà kiểu La Mã nhưng ở đấy các xà lim đều trống rỗng. Dưới các xà lim đó có một hầm hẹp cất giữ một bộ sưu tập được sắp xếp cẩn thận những khúc xương người mà trên một vài cái có khắc những dòng chữ song song bằng tiếng La tinh, tiếng Hy Lạp và tiếng Phri-gi.

    Đồng thời, tiến sĩ Trusk mở được nắp một trong những ngôi mộ thời tiền sử và lấy lên những chiếc sọ của loài người đã ở thang bậc phát triển cao hơn loài vượn gorilla. Ông cũng phát hiện một số dấu tích có những dòng chữ thuộc thứ ngôn ngữ ghi ý. Chỉ có con mèo của tôi là bình tĩnh trong suốt thời gian xảy ra những điều như cơn ác mộng ấy. Khi thấy con mèo nằm yên bình trên đống xương người ấy tôi bèn nghĩ rằng nơi đôi mắt vàng long lanh của nó có thể cất giữ bao nhiêu điều bí mật nữa.

    Sau khi tìm hiểu phần nào những điều đã xảy ra trong cái hang sâu bí mật này - những điều mà giấc mộng tiên tri của tôi đã cảnh báo, - chúng tôi liền bước tiếp vào sâu trong khu hang tối, nơi ánh sáng không lọt tới. Chỉ vài bước chân thôi là chúng tôi đã phát hiện ra những dãy hố nơi đàn chuột trước đây được nuôi ở đó, nhưng sau một thời gian chúng gia tăng thêm hơn nữa. Đạo quân chuột đã chuyển sang tấn công những tù nhân sống kia, rồi sau đó chúng thoát ra khỏi khu lâu đài để rồi tàn phá những khu vực xugn quanh, một điều đã được phản ánh trong những truyền thuyết đáng ghi nhớ!

    Ôi, lạy Chúa! Thật ghê khiếp những cái hố đen ngòm chứa đầy những khúc xương bị gặm, bị cưa xẻ và những cái đầu lâu trơn trụi! Rồi những cái rãnh hầm kinh khủng chồng chất xương cốt của giống người Pitêcantrôp, người Xentíc, người La Mã và người Anh sau bao thế kỷ tội lỗi! Một số rãnh hố đầy xương đến mặt đất nên chẳng thể nào xác định được độ sâu của chúng. Còn một số hố, hào khác thì sâu không đáy, thậm chí ánh đèn pin rọi cũng không thấy đáy đâu cả. Chúng còn cất giấu những mối khủng khiếp nào nữa đây?

    Một lần tôi bị trượt chân gần một cái hố sâu thẳm như thế và khi ấy tôi đã nếm trải một thời khắc kinh hoàng quá đỗi. Tôi đã đứng mãi lâu sau cái phút ghê hồn ấy bởi vì bên cạnh chẳng có ai ngoài đại uý Norris. Sau đó từ mãi trong bóng tối đằng xa vọng lại một thứ tiếng động mà tôi đã biết rõ. Con mèo đen của tôi lao ngay về chỗ ấy, tới khoảng sâu thẳm khôn cùng đó nhanh như một vị thần Hi Lạp có cánh vậy. Nhưng tôi cũng không đứng im mãi được vì một giây sau đó tôi đã nghe thấy tiếng chạy dồn dập ghê khiếp của đàn chuột quỷ sứ đó. Chúng đã lôi kéo chạy về phía trung tâm trái đất nơi vị thần điên khùng, Nyarlatoev không có mặt đang rên rỉ trong bóng tối trong tiếng sáo đệm của hai gã nhạc công ngây ngô vô hình vô dạng.

    Đèn pin của tôi tắt nhưng tôi tiếp tục chạy. Tôi nghe thấy những giọng nói, tiếng gào rú và tiếng vang, nhưng tiếng chạy dồn dập khốn nạn và phản trắc kia đã át đi hết thảy. Tiếng chạy dồn dập của đàn chuột ấy cứ vọng mãi lên, vồng cao lên như cái xác cứng quèo, trương phình đang nổi cao lên trên bề mặt bóng nhẫy của dòng sông và nó trôi lềnh bềnh dưới gầm các cây cầu tới biển khơi đen sì thối rữa.

    Có cái gì đó va vào tôi, nó mềm và đầy đặn. Chắc có thể đây là những con chuột, đàn chuột đông đúc và tham lam chuyên ăn thịt ngươi sống... Vì sao lũ chuột lại không ăn thịt ngài de la Power nếu như những người trong dòng họ de la Power đã ăn món đồ ăn bị cấm ấy? Chiến tranh đã ngốn ngấu cậu con trai của tôi... còn đám Yankee đã ăn thịt Carfax, ông tôi cùng chiếc phong bì bí mật đã biến mất trong khói lửa trận mạc... Không, không, tôi không phải là tên mục đồng quỷ sứ trong cái hang ghê tởm này đâu! Còn một trong những con thú vô hình vô dạng có cái khuôn mặt đâu phải của Eduard Norris! Người nào đã bảo tôi là de la Power hả? Norris còn sống, còn con trai tôi thì không... Vì sao đất đai của dòng họ de la Power lại thuộc về nó cơ chứ?... Đó là một trò phù thuỷ, tôi xin nói với quý vị... đó là con rắn cạp nong... Còn gã Toruton đáng nguyền rủa kia, ta sẽ khiến ngươi chừa cái thói giả chết vì những gì dòng họ chúng ta đây đang gây ra. Ấy là máu, còn ngươi, đồ nhỏ nhen ti tiện kia, ta sẽ chỉ cho ngươi thấy thế nào là khinh bỉ. Xin hãy cho phép tôi... Hỡi Đức Mẹ vĩ đại, Đức Mẹ vĩ đại... Hỡi Atis!... Dia ad, ao daun, bagus dunach ort! Donas!... u-u-u... r-r-r-r... s-s-s-s...

    Người ta bảo rằng tôi đã gào lên tất cả những cái đó khi họ tìm thấy tôi ba giờ sau đó trong bóng tối, họ đã phát hiện ra tôi ở bên cạnh cái xác đã bị gặm hết một nửa của đại uý Norris, cạnh con mèo của tôi khi ấy đã toan tính cắn gặm tôi. Họ đã cho nổ tung khu nhà Exhem Prairie, họ đã tước đoạt con Niggerman của tôi và mang nó đi rồi khoá kín nhốt tôi trong căn phòng với những chấn song chắc chắn này, bây giờ tất cả mọi người đều nhỏ to thì thầm về tính di truyền trong tôi và những hành vi quái đản của tôi nữa. Còn Toruton thì ở trong căn phòng bên cạnh, nhưng tôi không được phép nói chuyện. Người ta cũng cố sức che giấu tất cả mọi dữ liệu về toà lâu đài. Khi tôi nói về chàng Norris đáng thương thì họ buộc tôi vào tội ác không hề làm việc đó. Họ phải biết ấy là lũ chuột cống, lũ chuột chạy rầm rập đang đi tới lui kia, tiếng chân chạy của chúng khiến tôi không tài nào thiếp đi được. Họ phải biết chính là những con chuột đang chạy trong lớp phủ tường căn phòng này và khêu gợi tôi tới những cơn ác mộng mới, ấy là đàn chuột mà họ đâu có nghe thấy chúng, chúng là những con chuột, những con chuột trong bức tường đá.

     

    Tác Giả: H.P. Lovecraft

    Kết Thúc (END)


  3. Sau chuyến công tác dài ngày về, người mẹ hỏi đứa con: "Mẹ đi công tác, ở nhà con có thấy người phụ nữ lạ mặt nào đến không?"

     

    Đứa con trai trả lời:

     

    - Có mẹ ạ! Cô ấy đến rất nhiều lần!

     

    Không đợi được đến lúc chồng đi làm về, vợ gọi điện giục chồng về nhà có chuyện gấp. Chồng vừa đến cổng bị vợ giữ lại hỏi:

     

    - Em đi công tác, anh mang người phụ nữ nào về nhà?

     

    Chồng không hiểu gì cứ đứng nghệt ra một lúc mới bảo:

     

    - Có phải em nghe con trai mách không, em hiểu lầm rồi! Có một cô gái hay đến đây thật nhưng họ muốn gặp em.

     

    Nói rồi, chồng mở cặp đưa ra một tệp phong bì thư đưa cho vợ:

     

    - Cô ấy nhờ anh đưa cho em những phong thư này.

     

    Vợ mở phong thư ra nội dung bức thư nào cũng giống nhau: “Tôi biết cô đang đi du lịch với chồng tôi, cô cứ chơi vui vẻ để tôi có thời gian tiếp cận chồng cô nhé!”.


  4. Trên chuyến tàu hoả có ba người ngồi chung một hàng ghế mà nhẽ ra dành cho hai người.

     

    Một cậu thanh niên để tóc "đầu đinh", trông khá bụi phủi; một cô gái mũm mĩm và một ông dáng bệ vệ. Cậu thanh niên cứ thỉnh thoảng lại liếc mắt nhìn cặp đào của cô gái. Tàu chạy vào đường hầm thì đèn điện tắt phụt. Chợt cô gái kêu thất thanh:

    - Ui chao, cái tay nào thộp tôi đây này.

    Lập tức, giọng đàn ông sang sảng quát lên:

    - Giữ chặt cả hai tay, không cho nó thoát. Để tôi soi lửa coi đứa nào hỗn vậy!

    Ai cũng nghĩ thầm, cậu thanh niên phen này chắc chết. Nhưng luýnh quýnh mãi, người đàn ông vẫn chưa bật được lửa. May sao toa tàu lại có điện. Mọi người xôn xao. Lạ quá, cậu thanh niên vẫn ngồi yên, mặt tỉnh bơ như không có gì xảy ra. Cái ông bệ vệ thì đứng lom khom, tay trái vẫn cầm quẹt ga, tay phải bị hai tay cô gái túm chặt.

    Báo hại là cái bàn tay phải ấy lại đang trên ngực cô gái. Mặt ông bệ vệ bỗng đỏ rần. Ông lí nhí lẩm bẩm:

    - Thì ra cái tay này là của tui hả?!!

    Mọi người: - ??


  5. Ba cô gái bị tai nạn, lên tới của thiên đường thì gặp thánh Pie. Ông này dẫn các cô vào vườn Thiên Đường cực đẹp nhưng vịt con đi lại kín cả vườn. Ông bảo:

    - Ai mà dẫm phải vịt thì sẽ bị trừng phạt rất nặng.

    Nói xong ông bỏ đi. Được một lúc thì cô thứ nhất dẫm bép một cái, chết một con vịt. Thánh Pie hiện ra tức thì, dắt theo một người đàn ông cực xấu và nói:

    - Đây là hình phạt dành cho con, con phải sống với hắn.

    Hai cô còn lại sợ vãi... nên cẩn thận lắm. Nhưng không ăn thua, một lúc sau cô thứ 2 làm bép một cái nữa, thế là Pie hiện và với một người còn xấu hơn lúc nãy.

    Cô thứ ba run như cầy sấy, đi dò dẫm từng bước một. Mãi chả dẫm chết con vịt nào. Cô dừng chân nghỉ, thở phào nhẹ nhõm. Thánh Pie hiện ra cùng với một chàng trai tuyệt đẹp và đưa chàng cho cô. Cô hạnh phúc lắm. Còn chàng trai mặt cau có bực bội:

    - Tức quá đi, đã cẩn thận thế rồi mà vẫn dẫm chết vịt.


  6. Chuyện tôi sắp kể với bạn là chuyện tên Đức, kẻ chuyên sống bằng nghề cho vay nặng lãị

    Hắn có khoảng vài trăm con nợ. Vài người trong số đó vì quá tuyệt vọng, vì không chịu nổi lãi suất kinh hồn của hắn, đã đi đến chỗ tự tử để tự giải thoát khỏi bàn tay đẫm máu của hắn. Số người bị lãi mẹ đẻ lãi con làm tán gia bại sản cũng không ít.

    Các nạn nhân của hắn nguyền rủa hắn một trăm ngàn lần, hắn vẫn tỉnh bơ và vui cười ngoác cả miệng với họ miền là đừng có bớt số "phân" của hắn. Lạ thay, lời nguyền rủa thứ một trăm ngàn lẻ một đã kết thúc đời hắn một cách hết sức kỳ lạ.

    Tôi nợ hắn hai triệu đồng, hắn tính tôi một số lời tóe máu, nhưng ác hại hơn cả là hắn lại coi tôi như một bạn thân... Điều này làm tôi bực mình, vì là bạn thân, tôi phải về hùa với hắn để dửng dưng trước những giọt lệ khóc than, những lời van xin của các nạn nhân của hắn.

     

    - o O o -

    Sáng hôm đó tôi thấy hắn ngồi ở bàn giấy, trước mặt hắn là một người trẻ tuổi, nước da tái mét, nhưng rất đẹp traị

    Người tuổi trẻ đang năn nỉ: "Bác Đức ơi, tôi thật không thể trả nợ bác ngay được, nhưng tôi van bác, xin đừng vội siết nợ. Mẹ tôi đang đau, nếu bà biết bị đuổi khỏi nhà, chắc bà chết mất. Bác làm phước cho tôi gán bức tranh nàỵ Đây là tác phẩm quí giá nhất của tôi và tôi mong sẽ để đời; tôi đã vẽ đi vẽ lại cả trăm lần mà vẫn chưa thật vừa ý, và cũng chưa hoàn tất hẳn. Tôi cảm thấy như vẫn còn thiếu một cái gì đó. Chưa biết rõ là cái gì, nhưng rồi tôi sẽ tìm thấy và sẽ hoàn tất tác phẩm tuyệt vời nàỵ Xin bác tạm nhận tranh này để trừ vào món nợ của tôi".

    Đức cười gằn. Thấy tôi, hắn gọi tôi vào và chỉ cho xem bức tranh khổ trung bình đang đặt dựa vào tủ sách. Xem tranh tôi phục quá; ít khi tôi gặp một bức tranh đẹp như vậỵ Tuy đề tài rất tầm thường: một người tráng sĩ, tay vung một lưỡi gươm, đằng sau là khói lửa từ một kinh thành đang cháỵ

    Thấy tôi thích, nhà họa sĩ nghèo cho biết anh đã nằm mơ thấy mình là người tráng sĩ trong khói lửa đó từ lâu lắm, bây giờ coi như vẽ gần xong mà anh vẫn chưa quyết định đặt tên cho bức họa...

    "Ông thiếu tôi "hai cây rưỡi" vàng, ông Trọng Cư", Đức bổng lên tiếng. "Nhưng bức tranh của tôi giá trị có thể gấp đôi!". "Có lẽ, nhưng phải trong cả trăm năm nữa, tôi đâu có sống tới lúc đó!".

    Tôi chợt nhận thấy ánh mắt hơi có vẻ chịu của Đức. Hắn phán: "Thôi được, tôi thương cậu lắm nên mới tạm nhận và gia hạn cho cậu ba tháng nữa phải trả đủ cho tôi số vốn, số lãi coi như đổi tranh".

    Trọng Cư nói như muốn khóc: "Bức tranh để đời của tôi mà chỉ được số tiền lãi thôi saỏ Nhưng thôi, cũng được vì bây giờ tôi không lựa chọn gì được."

    Người họa sĩ buồn bã bước ra cửa, Đức còn nói với theo: "Khi trở lại thanh toán, nhớ đặt tên cho bức tranh nhé!"

    Bức tranh sau đó được treo lên tường ngay sau bàn giấy của Đức.

     

    - o O o -

    Ba tháng qua mau như gió thoảng. Trọng Cư không kiếm được tiền trả.

    Chàng cầu khẩn, van xin, hứa hẹn đủ điều nhưng không lay chuyển nổi lòng Đức, tên vua cho vay nặng lãị Ngày thừa phát lại mang "giấy tống xuất" lại căn nhà của họa sĩ nghèo, viên chức này thấy hai mẹ con nhà họa sĩ nằm chết cong queo trên chiếc võng duy nhất, bên cạnh một nồi chào gà.

    Trên bàn có một lá thư gởi cho tên Đức: "Tôi đã hứa đặt tên cho tranh, vậy tên nó là TUỐT GƯƠM TRẢ HẬN".

    Đức không hài lòng, hắn bảo: "Tên bức tranh này không hay, hơn nữa bây giờ thằng họa sĩ ngỏm rồi, trả hận bằng cách nàỏ"

    Hắn không biết rằng hắn vừa thốt lời thách thức quỷ thần!

    - o O o -

    Một buổi sáng lại chơi, tôi thấy Đức có vẻ bồn chồn nóng nảỵ

    - Này, cậu nhìn bức tranh xem có thấy gì lạ không?

    Thấy tôi trả lời "Không" hắn có vẻ hài lòng và giơ tay vuốt trán, tôi chợt thấy trán hắn ướt đẫm mồ hôị

    - Tôi thật là hay tưởng tượng, cậu có biết không, tôi hôm qua tôi khó ngủ quá nên thức dậy đi ra văn phòng. Đêm qua sáng trăng, căn phòng được chiếu sáng, cậu biết tôi thấy cái gì không? Tôi bổng thấy như tay tráng sĩ trong tranh động đậy, động đậy... rồi khiếp quá, tôi có cảm tưởng như hắn thò tay ra muốn nắm lấy cổ tôi...

    Tôi bảo: "Anh khùng quá, làm gì có chuyện kỳ quái đó! Nếu thấy không thích thì lấy dao rạch quách bức tranh là xong!"

    - Xong sao được, ai đền tôi "hai cây rưỡi" vàng đây, rồi còn bao nhiêu là phần trăm lời nữa!

     

    - o O o -

    Ba ngày sau, tên Đức mà tôi gặp không còn là tên Đức quen thuộc với nụ cười ngoác tận mang taị Hắn già đi ít ra vài chục tuổị Hắn run rẩy nhìn tôi bằng đôi mắt lạc thần: "Trời ơi, quỷ quá ông ạ. Đêm qua thằng tráng sĩ bước ra hẳn khỏi tranh để chực chém tôi, nhìn xem kìa, nhìn xem kìa thanh gươm bây giờ NẰM NGANG trong khi lúc trước nó được giơ lên! Nhìn xem! Ghê rợn quá!"

    Tôi thấy lạnh xương sống. Mình cũng điên như hắn chăng? Thật phi lý, nhưng sao thanh gươm bây giờ đây lại NẰM NGANG trong tay người tráng sĩ thật!

    - o O o -

    Tôi thúc Đức đem rạch nát ngay bức tranh, nhưng óc biển lận của hắn đã thắng cả sự sợ hãị Hắn không tin tranh có thể hại hắn thật.

    - o O o -

    ... Đức đã chết.

    Người ta tìm thấy thi thể hắn ngồi chết ở trên ghết, cổ bị đứt gần lìa khỏi người; lưỡi gươm chém vạt cả vào thành ghế.

    Tôi sợ hãi liếc mắt nhìn lên tấm tranh: lưỡi kiếm vấy máu tới gần cán.

    Sưu tầm.


  7. Anh Wesley Warren Jr, đến từ Mỹ, buồn bã chia sẻ, anh cần một triệu USD để thực hiện ca phẫu thuật cắt bỏ “của quý” nặng tới gần 45 kg của mình.

     

    Anh Wesley tin rằng, anh cảm thấy điều gì đó bất thường ở chỗ nhạy cảm của mình từ năm 2008. Tinh hoàn của anh bắt đầu “trưởng thành” ngoài sức tưởng tượng chỉ sau một đêm, chúng to bằng trái bóng đá vậy. “Tôi không cảm thấy đau đớn. Nó chỉ như một viết bắn nhẹ sượt qua người tôi vậy.

     

    Người đàn ông 47 tuổi này đã sống nửa cuộc đời trong im lặng và khó khăn vì tinh hoàn của anh phát triển khác thường, nhưng giờ đây anh đã dám đứng lên kêu gọi giúp đỡ để phẫu thuật thay đổi cuộc đời.

     

    1319071235-chuyen-la--1-.jpg

     

    1319071235-chuyen-la--2-.jpg

     

    “Cái ấy” của anh Wesley ngày càng phát triển lớn hơn, đến mức mà anh không thể mặc quần jean thông thường và phải gắn bó với các loại thuốc kháng sinh.

     

    Đến từ Las Vegas, Mỹ, anh Wesley chỉ có thể mặc những loại quần tự chế, có thêm một ống quần ở giữa để có chỗ cho “của quý”. “Việc đi lại không hề dễ dàng, cái đó luôn khiến tôi khó chịu và phải ngồi lỳ một chỗ”, anh Wesley nói.

     

    1319071235-chuyen-la--3-.jpg

     

    1319071235-chuyen-la--5-.jpg

     

    Thế nhưng, những khó khăn này chưa thể quật ngã được người đàn ông “thép”. Anh nói thêm: “Tôi muốn tìm những người bạn chân thật, đặc biệt là bạn nữ. Tôi không hề tự ti. Tôi vẫn kiên cường lắm”.

     

    1319071235-chuyen-la--4-.jpg

     

    Bác sỹ chuẩn đoán anh Wesley đang mắc phải chứng bệnh phù tinh hoàn khiến cho tinh hoàn lớn hơn bất thường, bên trong chủ yếu là dịch lỏng. Cao 1,82 m, nặng 133 kg, anh Wesley sẽ cần trải qua ít nhất bảy lần phẫu thuật để khắc phục sự cố với “của quý” của mình, nhưng chắc chắn sẽ không thể phục hồi như ban đầu.


  8. Gió đã lặng. Những áng mây nặng nề giăng mắc bầu trời. Sương mù dày đặc. Có lẽ đang buổi chiều hoặc hoàng hôn, cũng giống như những buổi chiều đông, và lớp tuyết dưới chân anh ta vỡ vụn. Anh đang đi trên con đường mòn dẫn lên núi. Thật khó thấy những gì ở quá tầm mười bước chân.

     

    Những con đường này chẳng có gì nguy hiểm. Tâm hồn anh nặng trĩu, anh đi và thầm nghĩ. Núi non trông rõ hơn, bầu trời xanh xanh như vừa mới được lọc xong. “Thời tiết sao mà tồi tệ thế, còn tâm hồn ta sao quá nặng nề thế!” và anh tiếp tục leo cao hơn. Anh ta 33 tuổi, bàn tay trái thiếu mất hai ngón và tên anh là Karl Klotz.:)

     

    Qua một khúc ngoặt, anh bỗng nghe thấy một tiếng kêu rên, nghe rờn rợn như tiếng của một con ó hay một con kên kên đang hấp hối ở gần đâu đây.:choler: Anh kinh hãi đứng lại và nghe ngóng. Xung quanh im vắng như cõi tha ma, một sự tĩnh mịch nặng nề bao trùm không gian. Đột nhiên, tiếng rên rỉ ma quái ấy lại vang lên, rất gần, hình như trước mặt anh ta vậy.

     

    Anh lao về phía trước chừng vài mét bọc quanh một chỗ ngoặt của con dốc dựng đứng để qua bên trái. Sương mù làm cảnh vật sáng lờ mờ. Anh ta nghe tiếng rên, ngay phía trước mặt. Một người đang ở dưới chân anh hai mét, bị mắc vào lùm cây, hai tay hắn bấu chặt vào nhánh cây cho khỏi bị rớt xuống vực sâu thăm thẳm phía dưới. Khuôn mặt hắn bị khuất, anh chỉ trông thấy cái gáy của hắn mà thôi. Sương mù che kín cái miệng vực đen ngòm và khủng khiếp bên dưới. Hắn lại ngoác miệng rên rỉ, những tiếng rên rợn người.

     

    Klotz cúi mình xuống miệng vực. Một người đang trong tình trạng cực kỳ nguy hiểm. Phải cứu hắn thôi! Mỗi người phải có bổn phận cứu giúp người khác. Klotz cúi mình xuống miệng vực, bối rối và thất vọng vì không biết phải làm thế nào cứu được người bị ngã ấy khỏi rơi vào cái khoảng không khủng khiếp bên dưới. Anh hét vọng xuống: “Ông ơi, ông! Làm thế nào bây giờ?”.

     

    Hắn im lặng ngước mặt lên nhìn Klotz. Họ nhìn nhau chằm chằm. Một tia chớp dường như lóe lên trong đầu Klotz, anh chợt nhớ đến một kẻ tội lỗi. Anh gào to: “Anh tên gì?”.

     

    Gã bên dưới nghĩ, chắc cái gã ở trên miệng vực điên rồi. Tên mình là gì thì có quan hệ quái gì trong lúc này. Tên hắn là Panter, nhưng biết tên để làm quái gì? Hắn gào to vọng lên trên, giọng nói vang lên như giọng của thần linh đang nổi giận: “Anh ơi! Cứu tôi! Kéo tôi lên bên trên đi! Lấy một cành cây hay cái thắt lưng của anh thòng xuống cho tôi nắm! Cứu tôi với!”.

     

    Klotz gào lên: “Anh tên gì? Trước tiên tôi phải biết tên anh là gì đã”.

     

    Gã bên dưới thầm nghĩ: “Quả là một thằng điên, một con quỷ.” Gã hét lên: “Panter, tên tôi là Theodor Panter! Cứu tôi với! Tôi giàu mà. Tôi có tiền, người ta phải cứu tôi. Tôi là người thượng lưu!”.

     

    Klotz cười phá lên và hét vọng xuống: “Đúng vậy! Mày là kẻ thượng lưu, còn tao là kẻ hạ lưu. Mày không còn nhớ gì sao? Chắc mày không biết tên tao đâu. Nhưng tao biết tên mày. Mày giàu lắm, người ta luôn biết tên những người giàu có. Chắc mày còn nhớ cách đây ba năm, khi chuyến tàu bị đắm ở biển Atlantic, mày đi tàu và ở cabin hạng nhất, còn tao thì cabin hạng ba. Khi con tàu chìm dần, hành khách nhốn nháo gào thét, gió cũng gào thét, biển xanh và trắng trong dông bão. Thuyền trưởng ra lệnh, trước tiên là đàn bà và trẻ con xuống xuồng cấp cứu. Sau đó là hành khách ở cabin hạng nhất, rồi hành khách ở cabin hạng nhì. Thế rồi các xuồng cấp cứu đều chật ních! Còn bọn đi vé hạng ba như chúng tao thì sao? Đành phải mang phao và bơi giữa biển. Tao cũng lãnh một cái phao. Tao nhảy xuống biển và bơi, suýt bị chìm, tao bấu lấy mạn xuồng cấp cứu của chúng mày. Xuồng đã chật ních người, giữa biển cả mênh mông, giữa thần chết của biển. Chính mày hét lên: “Ê, lại một thằng nữa!”. Tao bấu bàn tay trái vào mạn xuồng, mồm nuốt đầy nước biển. Một thủy thủ bảo: “Để cho hắn leo lên đi”. Còn mày thì gào lên: “Xuồng đã đầy rồi”. Đồng thời mày lấy toàn bộ sức lực phang mái chèo vào bàn tay trái của tao. Thế là tao buông tay, đau đớn và tuyệt vọng, coi như đã đi đứt trăm phần trăm. Nhưng một chiếc tàu cứu hộ chạy đến, và tao sống, sống ngoài ý muốn của mày.”

     

    Panter van vỉ: “Ông ơi, cứu tôi! Tôi mất hết sức lực rồi, cứu tôi với!”.

     

    Bấy giờ Klotz thòng hai chân xuống vực, tay bấu víu lấy gốc cây bên miệng vực. Anh ta đạp gót giày đinh lên bàn tay của cái gã Panter bên dưới, đôi bàn tay gã đang níu kéo cành cây như níu kéo sự sống. Cành cây gãy, rơi vào khoảng không hun hút bên dưới, kèm với tiếng kêu thét kinh hoàng chấn động cả vùng núi tĩnh mịch. Và Karl Klotz bừng tỉnh dậy.

     

    Klotz đang nằm trên trường kỷ trong căn phòng tươm tất của hắn tại Berlin. Chẳng phải đồi núi gì sất. Căn phòng hắn nhạt nhòa trong ánh hoàng hôn của chiều đông lạnh. Karl Klotz bừng tỉnh dậy mà tim vẫn còn đập thình thịch. Anh bước đến gần cửa sổ, miễn cưỡng nhìn lên bàn tay trái: hai ngón tay bị mất.

     

    Anh ta nghĩ: Mình là thằng vất đi rồi. Không thể nào mà quên được chuyện này. Thật kinh khủng, sao cái gã trong giấc mơ lại ác độc đến vậy! Còn cái gã đi vé hạng nhất ấy – cái lão Theodor Panter – đâu phải là thằng ma cà bông mà là chủ nhà băng hoặc nhà sản xuất. Giá mà hắn đừng có đập nát tay mình, nhưng mà hắn đã cố ý đập. Thật là quá đáng. Báo thù chăng? Liệu báo thù có làm mình tiêu tan những đau đớn phải gánh chịu trong thời gian qua? Tuy nhiên, nay mai mà mình thấy hắn ở đâu, trên đường phố hay trong nhà băng, quán cà phê, xe lửa, hay văn phòng chẳng hạn, mình sẽ không giết hắn đâu. Mình chỉ tóm áo hắn, phun nước bọt vào mặt hắn, rồi nện một lượt hai tay vào mặt hắn để hắn phải mang vết bầm dập trong ba ngày.

     

    Karl Klotz, 33 tuổi, hai ngón tay trái bị cụt, hiện là một nhân viên kế toán thất nghiệp. Anh ta vào một quán cà phê. Ngồi trầm ngâm hai tiếng đồng hồ bên tách cà phê, nghe tiếng nhạc thánh thót mà lòng sao vẫn nặng nề.

     

    Anh biết rằng anh không còn tiền nữa, không còn quan hệ với ai, không còn cơ hội tìm một chỗ làm mới. Cuộc đời anh thực ảm đạm không lối thoát. Anh đứng dậy và rời khỏi quán cà phê, bỗng có tiếng gọi sau lưng. Đấy là Meier, một bạn học cũ. Hầu như trong danh sách học sinh của bất kỳ lớp nào cũng có tên Meier, viết na ná nhau như Maier, Mayer hoặc Meyer. Anh ta là người trầm lặng, không có gì nổi bật, sau này ra đời làm nghề thu thuế hay kế toán thương mại gì đó.

     

    Meier là kế toán trưởng của một công ty kỹ nghệ. Được biết Klotz đang thất nghiệp, anh bảo Klotz ngày kia hãy đến gặp ông giám đốc. Công ty của anh đang cần tìm thêm một nhân viên kế toán có kinh nghiệm và năng nổ. Còn ngày mai thì đem đơn xin việc và giấy tờ đính kèm đến văn phòng của Meier. Anh ta sẽ nói giúp, chả là anh có quan hệ tốt với giám đốc mà.

     

    Klotz vâng lời. Hôm sau anh cạo râu, hớt tóc cẩn thận, ăn mặc tươm tất đến công ty. Meier đón tiếp niềm nở, và ghé tai nói nhỏ, sự việc hệ trọng đấy, ráng mà tạo ấn tượng tốt khi lần đầu gặp giám đốc Panter. Đồng thời Meier bảo cô thư ký vào gặp giám đốc và báo rằng có ông Klotz đến.

     

    Klotz nhợt nhạt, lắp bắp hỏi: “Có phải giám đốc tên là Theodor Panter?” Meier khẽ nói: “Tất nhiên rồi. Ráng mà tranh thủ cơ hội nghe. Công việc có mòi tốt đấy”.

     

    Nhưng rồi người ta cũng dẫn Klotz vào phòng của giám đốc. Một ông đang ngồi bên bàn giấy và lúi húi đọc. Ông ta ngước lên nhìn. Quả đúng là Theodor Panter rồi. Đích thị là hắn. Panter đang là giám đốc công ty cổ phần hữu hạn này! Hắn nói: “Mời ông ngồi, à không, ngồi đằng kia ạ. Ông đã làm việc trong một ngân hàng lớn nào chưa? Công việc ở đó là gì?”.

     

    Klotz trả lời lí nhí, không phải trả lời cho câu hỏi của giám đốc, cũng không trả lời cho riêng mình. Anh ta ngồi đó, trên chiếc ghế bọc da trong căn phòng lịch sự của công ty đồ sộ này, và suy nghĩ lung tung trong đầu. Cái tên sát nhân. Nó đang ngồi trước mặt mình. Mình phải nói năng với nó thế nào đây. Mình phải lắng nghe nó nói, hẳn rồi, thưa ông giám đốc, ông nghĩ sao ạ, vâng hoàn toàn đúng theo ý ông thôi ạ... Chẳng có thằng nào rơi xuống vực trong sương mù cả. Mà nó ngồi đấy, béo tốt, tròn quay, thỏa mãn, một kẻ thành công! Hắn ngồi đó, giàu có và sung sướng như ông vua vậy. Còn mình ngồi trước mặt lão, nghèo đói và thất nghiệp. Một tên sát nhân ngồi trước mặt mình, hay chỉ đơn thuần là giám đốc mà thôi?:zoo_fox_2

     

    Mình phải đứng dậy, Klotz thầm nghĩ, và nhổ nước bọt vào mặt hắn. Mình phải thộp cổ áo hắn, nhưng không giết hắn, mà nện cả hai tay vào mặt hắn để hắn mang dấu vết cú nện này suốt ba ngày.

     

    Klotz ngồi đấy và lắp bắp: “Hẳn rồi, thưa ông giám đốc! Ông cứ ra lệnh đi ạ! Vâng, lẽ đương nhiên là thế, thưa ông, hoàn toàn tùy theo ý kiến của ông thôi ạ!”. Klotz ngồi đấy, con tim đã chết.

     

    Lão giám đốc nói với Klotz lần thứ hai, giọng lão khô khan: “Thôi, được rồi, ông Klotz. Bây giờ ông có thể ra về. Chúng tôi sẽ có thư báo tin cho ông rõ”.

     

    Klotz hốt hoảng bật người đứng dậy, khúm núm như con chi chi, mồm lắp bắp, chả là hai năm nay anh thất nghiệp, không một đồng dính túi: “Vâng, xin đa tạ lòng tử tế của ông, thưa ông giám đốc! Kính chào ông ạ! Kính chào ông ạ!”. Rồi Klotz bước ra.

     

    Anh đã ra tới ngoài đường, thầm nghĩ: Thế là ta đã không báo thù! Ta đã không báo thù! Ta đã không bước lên xác hắn. Không có báo thù. Báo thù chỉ có trong giấc mộng của kẻ bị chà đạp nhằm tự an ủi mình. Trong đời không có báo thù! Bởi vì kẻ bị chà đạp sẽ bị chà đạp thêm lần nữa! Còn kẻ chết sẽ bị chết thêm lần nữa.

     

    Klotz ngồi xuống một băng đá, cây cối xung quanh anh ta xanh xanh và vô hồn vô cảm như những khách bộ hành qua lại. Anh ta nhìn lên bàn tay trái, tận gốc hai ngón tay bị mất. Anh cắn lấy bàn tay và khóc rưng rức.

     

    Vào ngày sau, anh nhận được một lá thư ngắn gọn: “Rất tiếc, chỗ làm đã có người”. Ký tên: Giám đốc Panter.

     

    Chiều đó, Klotz đến văn phòng công ty và nhận lại hồ sơ. Meier vội vàng ấn một cái gì đó vào tay Klotz và nói hơi tiêng tiếc: “Thực đáng tiếc! Mình thực sự lấy làm tiếc về vụ này”.

     

    “Nhưng tại sao?” - Klotz hỏi đầy xúc động. Anh ta đã quên tất cả: biển, báo thù, cái chết và giấc mơ. Anh chỉ biết rằng hai năm nay anh đã thất nghiệp. Anh lắp bắp: “Nhưng tại sao?”.

     

    Meier ghé mình sát vào Klotz và khẽ nói bên tai với vẻ mặt trọng đại: “Ừ, chính mình cũng không hiểu tại sao nữa, có điều ông giám đốc bảo rằng các bằng cấp của cậu đều tốt cả, nhưng ông ấy có ấn tượng là tác phong của cậu trông hèn hèn thảm hại làm sao ấy!”.

     

    Klotz đột nhiên cười phá lên: “Ồ! Chẳng phải là tớ có ác cảm với bản thân lão ta sao?”. Thế là anh ta cầm lấy hồ sơ, chỉ cảm ơn Meier một tiếng rồi bước đi.

     

    Meier đứng trông theo hồi lâu, và lắc đầu: Cái thằng Klotz này thật sự khó mà thông cảm được. Dầu sao nó cũng là bạn học của mình! Thế rồi Meier đi vào văn phòng giám đốc


  9. Một ông chồng quyết định bỏ ra 500 đô để mua tặng vợ một bộ đồ ngủ mỏng nhất, nóng bỏng nhất...

     

    Một người đàn ông tới cửa hàng thời trang nổi tiếng nhất Hollywood với ý định mua tặng vợ bộ đồ ngủ mỏng nhất có thể. Cô nhân viên tìm và đưa cho ông ta một bộ.

     

    - “Cái này giá 200 đô”, cô ta nói.

     

    - Tôi muốn một cái khác mỏng hơn thế này nữa.

     

    - Đây, cái này giá 250 đô.

     

    - Tôi cần loại mỏng nữa.

     

    - Đây là bộ mỏng nhất ở chỗ chúng tôi. Nó giá 500 đô.

     

    - Được! Tôi lấy cái này!

     

    Ông ta hăm hở về nhà đưa cho cô vợ yêu:

     

    - Đây, em lên trên nhà, mặc thử rồi xuống đây cho anh xem nhé.

     

    Cô vợ đi lên gác, mở cái hộp và nghĩ: “Bộ này mỏng thật. Lão già chắc chẳng nhận ra là mình có mặc hay không đâu”.

     

    Vì thế, cô nàng đi xuống nhà mà không... mặc gì hết, xoay một vòng trước mặt anh chồng già:

     

    - Anh thấy thế nào?

     

    - Chết tiệt thật! Với 500 đô đó, bọn ngốc ấy ít nhất cũng phải là cái áo đi chứ nhỉ?


  10. Những lời gan ruột này sẽ được thốt lên nếu những con vật đáng yêu biết nói.

     

    Động vật mà biết nói năng, Cười 24H, dong vat, dong vat ngo nghinh, dong vat hai huoc, tranh vui, tranh hai huoc, hinh anh hai huoc, truyen cuoi, video clip cuoi, tieu pham hai, bao

    1317973571-dong-vat-ma-biet-noi-nang-1.jpg

    Mèo: - Mong là nó không tưởng nhầm đây là cái... bồn cầu

     

    1317973571-dong-vat-ma-biet-noi-nang-3.jpg

    - Á, má ơi, ma! Ma mặc áo trắng...

     

    1317973571-dong-vat-ma-biet-noi-nang-5.jpg

     

    - Hic, đúng là trâu chậm uống nước đục.

     

    1317973571-dong-vat-ma-biet-noi-nang-2.jpg

     

    - Định trốn à?

     

    *

     

    1317973571-dong-vat-ma-biet-noi-nang-6.jpg

    - A, mẹ đi chợ về!

     

    1317973571-dong-vat-ma-biet-noi-nang-7.jpg

     

    - Nhấc chân lên!

    - ...

    - Thấy chưa? Ai mang bẩn về đây?

     

    *

     

    1317973571-dong-vat-ma-biet-noi-nang-8.jpg

     

    - Mọi người bảo ở dưới này có cái hay lắm mà sao mình không thấy gì hết trơn vậy?


  11. Một bữa đứng trước nhà, tôi thấy thằng Út - con ông Ba "giấy số" - nhà bên cạnh, cầm một cuốn "Truyện Võ Hiệp". Thoáng đọc thấy tên tác giả, đúng là một ông bạn rất thân, tôi đang muốn tìm thăm mà chưa biết hiện nay ổng ở đậu

    Tôi hỏi thằng Út:

    - Cháu cũng mua truyện võ hiệp để coi sảo

    Thằng nhỏ lắc đầu:

    - Đâu có, ông Nặm Nhỏ bạn cháu mới chọ Ông già cổ là tác giả đọ

    Tôi mừng rỡ:

    - Hay quá, cháu cho ông địa chỉ cổ, được khổng

    Thằng Út trố mắt nhìn tôi:

    - Ông Năm cũng muốn vô "Quán Đèn Mờ" sảo

    Thấy tôi ngơ ngác không hiểu, nó cười:

    - Chắc cháu nói tầm bậy rồi!

    Tôi nói:

    - Ông là bạn của ông già tía cô bạn chạu Ông muốn đến thăm ổng!

    Sau đó tôi được thằng nhỏ cho địa chỉ "Quán Đèn Mờ" này, nó còn dặn tôi là khi vào quán, chỉ cần ngỏ ý với người mang đèn bấm hướng dẫn chỗ ngồi, là mình muốn kêu cô Hồng phục vụ Chỉ mấy phút sau, nếu con bé chưa ngồi bàn, thế nào nó cũng tợi

    Tôi làm theo lời dặn, quả nhiện

    Khung cảnh trong quán đúng là mờ ạo Ngọn đèn nhỏ xíu có chiếc chao màu đen chụp xuống, chỉ vừa đủ ánh sáng cho khách thấy tổng quát mặt bạn

    Tôi không nhìn rõ mặt cô bé:

    - Cháu tên Hồng, phải khổng

    Một giọng nói nhỏ nhẹ cất lên:

    - Dạ! Bạc đi có một mình sảo

    Tôi gật đầu:

    - Bác đi một mình! Cháu lạ lắm sảo

    Cô bé ngập ngừng:

    - Không, nhưng sao bác lại kêu chảu

    - Vì bác cần biết tin của Ba chạu Bác là bạn của Ba chạu Ba cháu hiện đang ở đẩu

    Không nghe cô bé trả lời, tôi hỏi tiếp:

    - Nếu cháu không tiện nói cũng không sạo

    Cô bé lên tiếng ngay:

    - Dạ không phải vậy đâu, Bác! Nhưng Bác phải hứa không cho Ba cháu hay là cháu làm ở đậy

    Tôi nói ngay:

    - Đồng ý!

    Nói xong tôi trao cho cô bé tờ giấy 5 ngàn:

    - Tặng chạu

    Rất nhanh nhẹn, nó cầm tiền nhét vô túi áo ngoài rồi rút ra mẩu giấy và cây viết, ghi cho tôi địa chỉ nạy Tôi không hỏi cô bé gì thêm, vội vã trả tiền 2 ly nước ngọt, ra vệ

    Ngay sáng hôm sau, tôi vẫy xe lam lên Ngã Ba Hàng Xanh, rồi xuống đi bộ vào ngõ hẻm có cửa hàng bán vật liệu xây cất, cách rạp hát bóng Cao Đồng Hưng Gia Định không xạ

    Đến trước một chiếc cổng khép hờ, tôi đọc tấm bảng treo, số nhà 1016 như ghi trong mẩu giấy, nhưng tôi còn đang ngần ngừ, cánh cửa bên trong lại có số 1057, viết bằng phấn trắng, chợt nghe một giọng nói quen thuộc cất lên:

    - Quý phải không, vô đây!

    - Thúc, ông bạn ngày xưa của tôi vừa từ trong nhà bước ra, đang đứng trước những thùng cây cùng với vô số vỏ chai la de, trong chiếc sân không rộng lắm, trước một căn nhà có giàn bông giậy

    Đúng lạ Thúc đây rội Tên ông bạn tôi trùng với họ của Kỳ Tâm, anh chàng hảo ngọt suýt bị toi mạng trong Đoạn Trường Tân Thanh của Tiên Điền Nguyễn Tiên Sịnh Thúc có một bà vợ lúc nào cũng mang nét mặt nghiêm nghị Ngày trước, đã nhiều lần tôi tới thăm Thúc, khi gia đình anh còn ở đường Trần Quý Cáp Sài Gòn, tôi chưa thấy bà xã ạnh cười lần nạo Bả... khó quạ Thế mà Thục sinh dám dấu một "cục cưng" dưới Khánh Hội

    Có bữa, thừa lúc bà xã bồng đứa con gái mới đầy tuổi tôi, - bây giờ là cô bé Hồng - vô nhà trong, Thúc nói nhỏ với tôi:

    - Tánh bả vậy đọ Nhưng người thiệt tốt bụng, hết lòng lo cho chồng cọn Không có bả, chẳng biết cha con tôi làm sao sộng Chỉ phải cái tật ghen ẩu!

    Tôi cười:

    - Vậy mà ông còn dám cọ

    Thúc hoảng hồn, cắt ngang:

    - Đừng phá nha, cha nội!

     

    - o O o -

     

    Bẵng đi mười mấy năm không gặp, bữa nay mới có dịp tìm thăm lại cố nhận

    Thúc nắm chặt tay tôi:

    - Nghe nhà ngươi mãn tù, ta chưa biết kiếm ở đâu thị

    Tôi tiếp lời Thúc:

    - Nhà ngươi đã dẫn xác tới!

    Thúc buông tay tôi ra rồi hỏi:

    - Làm sao cậu kiếm được nhà tớ ở đây, tài vẩy

    Tôi cười:

    - Chỉ cần đôi chút công phụ

    Chúng tôi vào trong nhạ Cảnh vật lộn xộn quạ Thốt nhiên tôi thấy có điều gì bất thường:

    - Cậu Thúc này! Bà Xã đẩu

    Thúc chìa tay về phía bộ sa lông ngổn ngang sách, báo:

    - Cậu ngồi chờ mình kiếm cái gì uống đạ

    Tôi xếp mấy tờ báo qua một bên rồi ngồi xuộng Thốt nhiên tôi thoáng nhìn lên bàn thờ, có đặt khung hình của bà xã Thúc!

    Tôi đến gần, rút 3 nén nhang châm lửa thắp rồi xá 3 lận Cắm nhang vô bát, tôi hỏi Thúc khi anh chàng vừa bước ra:

    - Bà Xã cậu "đi" hồi nào vẩy

    Thúc đặt 2 ly bia lạnh trên bàn:

    - Mình đang định nói với cậu đậy Hai năm trước đây, bả vượt biên, bị hải tặc Thái Lan bắn chết rồi liệng xuống biện Một người quen thoát chết còn bên Đảo nhắn tin về cho hạy Tớ chỉ còn cách làm bài vị, đặt hình bả lên bàn thờ!

    Tôi cúi đầu:

    - Chia buồn với cậu

    Thúc nói thêm:

    - Còn thằng Thanh và con Hồng, sau khi má mất, chụng thối về Ngoại ở Tây Ninh, phụ làm rậy Tớ ở đây một mình, bán cuốn sách cũng chẳng được bao nhiêu, nên tớ nhẩnbo mối la de, thâu vỏ chại, cũng kiếm ăn lai rại

    Đến đây, Thúc hạ giọng:

    - Đó là mặt nổi, còn thực tế, tớ được bà xã phò hộ, hiện đạng khá lắm!

    Tôi trố mắt:

    - Khá lẳm

    Thúc không trả lợi Anh ta đứng dậy, bước vô nhà trong một lát rồi trở ra, trên tay cầm một bọc giậy Thúc để bọc giấy bên cạnh ly bia của tôi rồi thong thả nói:

    - Tớ nghe cậu đang cần một số tiền lo Dịch Vụ Nguyễn Trại Tớ có sẵn đây, xin giúp cậu Không cần phải cảm ợn Mà cũng không bao giờ tớ nhận lại đậu Coi bọc giấy này như một cái "Không" của cuộc đời "Vô Thường". Sau này, biết đâu tớ lại được sự giúp đỡ của một người nào khạc

    Tôi ngạc nhiên:

    - Tiền ở đâu mà cậu có nhiều thể

    Tôi hỏi vậy, tuy không biết Thúc để bao nhiêu trong bọc giẩy

    Thúc gật gù:

    - Đã bảo là tớ khá lặm

    Cặp mắt Thúc nhìn lên bàn thờ:

    - Bà Xã tớ giúp đọ Nói ra thì chẳng ai tịn Mà cũng không dám hở môi với bất cứ người nào, kể cả mấy đứa nhọ Thời buổi này, một cái tóc là một cái tội Có khi không làm gì, không nói gì, mà cũng ở tụ Huống chi tự nhiên có được một số tiền lợn

    Nhìn nét mặt ngơ ngác của tôi, Thúc đâm thương hại Anh ta không nói vòng vo nựa Bằng một giọng trầm trầm, vừa đủ nghe, Thúc đưa tôi theo anh vào giấc mộng

     

    - o O o -

     

    Đoạn sau đây, tôi ghi lại đại ý câu chuyện theo lời Thúc kể suốt buổi chiều hôm ậy Tôi nghĩ có thể phần đông độc giả coi đây là một chuyện hoang đượng Nhưng với riêng tôi, tôi tin Thúc quả đã gặp lại bà Xã trong một giấc mợ Nếu không, làm sao một người nghèo xác như Thúc, lại có thể trao cho tôi cái bọc giấy mà lúc về nhà mở ra, tôi và một đứa con đếm mãi mới hết: một triệu đồng! Số tiền này trị giá 120 mỹ kim lúc đó, tức tương đương hơn 3 chỉ vàng ỵ

    Lúc tiễn tôi ra tận đầu hẻm, Thúc cầm tay tôi:

    - Chừng nào cậu đi, nhớ cho hạy

    - Dĩ nhiện Nhưng chắc còn lậu Cảm ơn cậu, tôi về nhạ

    - Đã biểu đừng nói cảm ợn

    Tôi sực nhớ ra chuyện "có mèo" ngày xưa của Thúc:

    - Cọn cái đuôi bên Khánh Hổi

    Thúc gượng cười:

    - Cô ấy đã qua một chuyến đọ Chuyện phải xảy ra vậy thôi!

    - Cậu không định tục huyền sảo

    Thúc co người lại:

    - Bả thiêng vậy, tớ không dám đâu!

    Mấy ngày sau, tôi trở lại "Quán Đèn Mờ". Trao cho con bé Hồng 2 trăm ngàn đồng, khuyên nó nên trở về nhà, lo cho ba nọ Tôi bật mí cho nó biết, ông già nó hiện nay bỏ mối la de, lại viết sách có tiện Nó khỏi phải lên Ngoại làm rẫy nựa Để ông già ở một mình như vậy không được đâu, rủi bị đau bịnh đâu có ai hạy Con bé nghe tôi nói dường như cảm động Nó hứa ngay hôm sau sẽ về thăm ông giạ Quả nhiên, bữa tôi đến chào từ giã Thúc, cả hai đứa con anh đang xếp những két bia thành từng chồng, sẵn sàng đem giạo Con bé Hồng - tôi quen kêu nó như vậy, nhưng năm đó nó đã trên 20 tuổi - thấy tôi vô, mừng quýnh, la lớn:

    - Ba! Bác Quý đến!

     

    - o O o -

     

    .Đệm đó tớ uống hơi nhiều - Thức kệ Nghe mấy người bà con trên Tây Ninh xuống cho hay, con Hồng không chịu phụ làm rẫy như thằng anh nọ Nó thường lén bà ngoại, dọt về thành phộ Tớ đã lên trển mấy lần mà chưa gặp nọ Tớ buồn, phải má nó còn sống thì đâu đến nội Đầu óc tớ nhức rần rận Tớ đến gần bàn thờ, thắp hương, mong bả linh thiêng khiến tớ tìm được con Hộng Tớ cứ đứng trước tấm hình của vợ, nói lảm nhạm Đúng là một kẻ say sưa không ra gị Rồi hồi lâu, tớ lại nhớ những chuyện có lỗi với bạ Tớ mong được bả tha thự Sau đó, đầu choáng, mắt hoa, tớ gục xuống chân bàn thờ rồi không biết gì nuấThot nhiên, tớ thấy mình sắp đặt chân lên một chiếc cầu nhỏ, bắc ngang trên một giòng sộng Tớ còn biết thành cầu sơn màu xạm Giòng nước dưới sông không chạy Mặt sông như một bức tranh, bất động Bầu trời đen nghịt, không một cọng mậy Nhìn qua khu nhà bên kia sông, tớ thấy giống như một chúng cự Nhà cửa thấp lè tè, cũng một màu xám ngặt Cửa nhà nào cũng khép kín, thế mà chẳng hiểu sao, từ trong những căn nhà ấy, nhiều người vội vã lướt ra được Chân họ không chạm đật Thốt nhiên, một cái bóng xám lướt về phía chiếc cầu, lúc đó tớ đang bước quạ Bóng người hiện ra trước mặt tợ Tớ dừng chân lại Bà Xã mình đây chớ ai! Tớ mừng húm, quên hẳn bả mất đã lâu rồi!

    - Má con Hồng qua bển làm chi vẩy"Bà Xã tớ không trả lợi Bả cầm tay tớ kéo đị Gió rát mặt Đến một căn nhà đóng cửa, bả lôi tớ vô, đi xuyên qua cánh cửa luộn Chuyện lạ đời vậy mà sao tớ thấy cũng bình thượng Bả du tớ ngồi trên tấm ván cậy Tớ nhìn chung quanh thì không thấy đồ đạc, bàn ghế chi cạ Nhưng có một chiếc xe dream dựng vào góc tượng

    Chợt tớ nghe mình cất tiếng:

    - Sao có xe mà bà không chạy, lại lội bổ

    Lúc đó bả mới bắt đầu nói:

    - Xe chưa đổ xặng Ba con Hồng gởi xe cho tôi mà quên đổ xăng vô, làm sao chảy

    Trong lúc tớ lú lẫn, không hỏi tại sao bà Xã tớ ở chốn này, thì lại nghe bả nói:

    - Vợ chồng mình gặp nhau bữa nay là do đời trước mình có công đực Nhưng chỉ được một lần thội Tôi cầu giúp cho ba nó có món tiền lớn, vậy ráng lo cho mấy đứa nhọ Cần coi sóc con Hồng đàng hoàng cho tội

    Tớ chưa kịp hỏi thêm thì lại bị bả lại cầm tay kéo ra phía trược Lướt ra đến ngoài, bả chỉ tay vào tấm bảng ghi số nhà - lúc vô đâu thấy tấm bảng này! Con số lớn dần về phía tớ, rõ ràng tớ thấy đó là số 1057. Tiếng bả la lớn bên tai tớ:

    - Ba con Hồng nhớ kỹ số nhà nghe!

    Tiếng la làm tớ giựt mình choàng dậy Thì ra tớ nằm chèo queo ngủ suốt đêm dưới chân bàn thợ Tớ kiếm nước rửa mặt cho tỉnh ngủ, đặng còn đi giao hàng cho người tạ Những chuyện xảy ra trong giấc mơ, tớ còn nhớ từ đầu đến cuối, hầu như không bao giờ quên được Tớ lấy mẩu phấn ghi số 1057 vô cánh cựa Cũng chẳng hiểu ghi để làm gì!

    Sáng ngày thứ bảy, tiếp theo đó, tớ còn nhớ, vì là ngày xổ số của Thành Phố và tỉnh Long Ạn Lúc đi ngang qua một sạp bán giấy số, tự nhiên tớ muốn thử thời vận Bữa đó, tớ giao hàng miệt quận bạ Khu vực này, tớ quen một ông bạn, bán giấy số và ghi "đề". Ổng ngồi thường trực góc đường Kỳ Đồng - Trương Minh Giảng cụ Đã có lần tớ thử mượn cuốn sổ ghi số trúng của ông bạn, rồi lượm 1 tấm giấy số của tỉnh Đồng Nai (Biên Hoà) mà người ta đã liệng đi, đem dò suốt 50 trang ghi các số đã xổ của tất cả các địa phương trong mấy tháng trời, mà không trúng một lô nào cạ Tự nhiên, tớ tự nhủ chẳng bao giờ dại dột Mình không có "căn", không chơi!

    Nhưng lúc đó thì khác, nhớ lại con số 1057, hình như có một động lực thần bí điều khiển bàn tay của tợ Lúc chạy xe đến sạp của ông bạn, tự nhiên tớ thắng chiếc ba gác lại Tớ đem ba ngàn tư có trong bóp, đem ghi số 1057, bao mười bảy lô, mỗi lô 100 đồng, cả 2 đại Nếu trúng, chỉ cần 1 lô, 1 đài, tớ cũng lãnh 600 ngàn! Ông bạn vừa ghi cho tớ, vừa mỉm cười:

    - Bữa nay bạn ta chơi hơi lạ, lại có "chuy-ô" nào chắc ăn, mới dám "bao" lớn thế nạy Tôi phải "ăn theo" ông bạn mới được

    Ngay chiều hôm đó, tớ ôm cái "đài" nghe kết quả cuộc xổ sộ Tay cầm cây viết, tớ chăm chú nghe, nhứt là từ câu:

    - Bây giờ xổ lô mười ngàn động Lô mười ngàn đồng sẽ được quay bốn bánh xe, các hàng đơn vị, hàng trăm, hàng ngàn, hàng chục ngàn và quay 2 lận Đây là lần quay thứ nhứt của lô trúng mười ngàn động Mời các em ra quay sộ

    Sau một loạt sè sè,... kịch kịch, tiếng người xướng ngôn lại cất lên:

    - Sau đây là kết quả của lô trúng mười ngàn động Các vé có số tận cùng bằng một, không, năm, bảy; tức một ngàn không trăm năm mươi bảy, mỗi vé trúng mười ngàn động Chúng tôi xin nhắc lại

    Tớ mừng quá, hét lên:

    - Dzô rồi, cảm ơn bà Xã!

    Chiều hôm đó, tớ đạp xe tới ngã ba Ký Đồng-Trương Minh Giạng Ông bạn vừa thấy mặt tớ, vội đưa tay ngoắc:

    - Tới đây! Trúng rội

    Tớ đẩy xe qua một bên:

    - Tới liền!

    Ông bạn nắm tay tớ lắc mạnh:

    - Bạn ta trúng cả 2 đại Cộng là một triệu hai!

    Tớ mở to mắt:

    - Đã quá!

    Người bạn vừa chung tiền cho tớ, vừa khoe:

    - Tôi ăn theo bạn ta số 057, bao 19 lô, 2 đài, cũng kiếm được một trăm hai mươi ngàn!

    Tớ rút mười ngàn trong gói bạc trao cho ông bạn:

    - Lì xì cho ông!

    Ông bạn đẩy ra:

    - Khọi "boa". Tôi cũng trúng mà!

    Một triệu hai, đối với tớ đã là quá lợn Nhưng tớ còn thấy ham lặm Tuần sau, tớ lại mò tợi Số tiền tớ bao lần này là ba mươi tư ngạn Coi như của vứt đị Nếu trúng một lô, tớ lãnh 6 triệu Ông bạn tớ không dám ghi cho tợ Ổng bắt tớ ngồi chờ để trực tiếp lên "tỉnh đề" ở Chợ Lớn hỏi lại Vì nếu trúng một số tiền quá lớn - trên 2 triệu thì ngay cả "huyện đề" cũng phải thỉnh ý "trên". Huống chi ông bạn tớ chỉ là người ghị mượn Chỉ có "tỉnh đề" mới có quyền cho nhận hay không! Cả tiếng đồng hồ sau, ông bạn trở lại với 2 tiếng: "OKAY!"

    Cậu có thể tưởng tượng là tớ lại trúng không, mà vẫn trúng 2 lộ Bữa đó, một trong những lô trúng năm trăm ngàn đồng và lô độc đắc của đài Tây Ninh đều có 4 con số tận cùng là 1057! Tớ ôm 12 triệu, đem gởi bà già vợ Số một triệu hai trúng lần trước, tớ đưa cho mấy bạn hàng làm vốn, họ cho tớ 3 phân lời, một thạng Cái giá coi như cả nước hiện không đâu cọ Ít ra cũng 10 phân, một thạng Có chỗ người ta còn cho vay cắt cổ: 20% một ngày!

    Lần này, vì ông bạn tớ không tin là còn xổ con số 1057, nên không ăn theo! Uổng quá!

    Tớ biếu ông bạn một trăm ngạn Ổng nhận ngạy

    Đang ham, tớ lại ghi thêm một chuyến, nhưng số 1057 không còn linh ứng nựa Tớ hiểu vận hên của mình đến đó là hết, không thể tiếp tục được nữa, nếu không muốn trắng tay!

     

    Sưu tầm.


  12. Hắn điện thoại cho tôi sau hai mươi ba năm không gặp, với câu nói :"Ngày ấy anh đã yêu em biết bao, mà không bao giờ dám nói...". Tôi hơi sững người, nhưng với bản tính hay giễu cợt tôi trấn tĩnh ngay :"May mà ngày ấy anh đã không nói, biết đâu bây giờ anh khỏi cảm thấy hối tiếc" - "Tại sao?" "Tại vì em bây giờ tàn tạ, xấu xí, và lắm điều...".

     

    Hắn nói nhiều, rất nhiều, để bù lại hơn hai mươi năm không được nói với tôi, hắn bảo vậy.

     

    Những ngày sau đó hầu như ngày nào hắn cũng gọi điện thoại tôi. Ðiện thoại đường dài và số tiền cước hình như không ảnh hưởng gì đến hắn, có khi hắn nói, có khi hắn im lặng, mỗi ngày hai ba lần gọi, mỗi lần gọi không ít hơn 15 phút. Tôi bảo hắn :"Chắc là bưu điện phải cám ơn em nhiều lắm lắm...". Hắn phàn nàn rằng tôi hay nói đến tiền bạc. Biết nói gì với hắn bây giờ khi tôi chỉ là một người phụ nữ, rất phụ nữ với bao nhiêu năm xoay quanh bếp lửa gia đình, lo toan trong cuộc sống đầy ắp những bận bịu đời thường: đi làm, chợ búa, cơm nước, dọn dẹp nhà cửa, chăm sóc bọn trẻ...

     

    Ban đầu ý tưởng về hắn trong tôi chỉ là những câu nói đùa bông lơn nhưng rồi những cú điện thoại của hắn xáo trộn cuộc sống của tôi - xáo trộn mặt hồ yên bình, rất yên bình. Tôi bắt đầu suy nghĩ về hắn, bắt đầu nhớ lại những gì đã qua của một ngày xưa xa lắc.

     

    Tôi quen hắn khi tôi ghi tên vào đội bóng bàn của trường. Nhà trường bố trí hắn tập cho tôi. Tuổi mười sáu, hắn là một thần tượng: hắn đỡ dập, rờ-ve của tôi và kết thúc là tôi phải đi lượm banh. Tôi chẳng đoạt được một giải nào cho trường trong khi hắn ôm về bao nhiêu là giải thưởng.

     

    Hắn kể với tôi những điều mà tôi lục hoài trong trí chẳng nhớ nổi: hắn và tôi thường len lén bạn bè trao vội cho nhau một vài dòng chữ vẩn vơ, hắn bảo cho đến bây giờ hắn vẫn còn giữ (?). Hắn nói với tôi những điều mà một con người thực tế như tôi chẳng thể nào tin được: Hắn luôn mang hình bóng tôi đi suốt hơn hai mươi năm bôn ba khắp chốn, tôi là mối tình đầu tiên của hắn mà hắn không bao giờ quen được... Tất cả những điều đó dĩ nhiên dù không tin nhưng tôi vẫn cảm thấy một chút hài lòng nho nhỏ, một sự hài lòng của một người bao nhiêu năm chôn vùi ký ức để đối phó với những khó khăn của đời thường. Duy chỉ có một điều tôi hơi buồn lòng là hắn luôn nói rằng vợ hắn rất dễ thương - nó cứa vào sự ích kỷ của một người phụ nữ.

     

    Tôi bắt đầu có những đêm mất ngủ để suy nghĩ về những cú điện thoại của hắn, bắt đầu có những giờ phút chờ chuông điện thoại reo, bắt đầu tự hỏi: có chuyện gì không mà chiều này không thấy hắn gọi, mình đã nói những gì vô ý với hắn hay là có chuyện gì đã xảy ra VỚI HẮN... Ở CƠ QUAN MỌI NGƯỜI BẮT ĐẦU THAN PHIỀN LÀ tôi hay có những cuộc nói chuyện lâu trên điện thoại, chồng tôi cũng bắt đầu thắc mắc về những cú điện thoại mà mỗi khi anh bắt máy là đầu dây bên kia cúp máy. Con người hiện tại trong tôi kêu lên: Bắt đầu rắc rối đây. Con người quá khứ của tôi thì bảo: Cứ nghĩ về hắn, để tô điểm thêm cho cuộc sống, cuộc sống vốn dĩ đã chẳng quá khô khăn, đơn điệu đó sao?

     

    Hắn gửi cho tôi một món quà sinh nhật, tôi thật bàng hoàng vì hắn còn nhớ đến ngày sinh của mình. Những đĩa hát, toàn là những bài tôi thích. Tôi tự nhủ thầm: cuộc sống bình yên của tôi bắt đầu chấm dứt rồi đây. Ðầu óc tôi đầy ắp những suy nghĩ về hắn: tò mò, thắc mắc và tự nhiên trong tôi có một cảm giác như những ngày xưa khi mới biết thế nào là tình yêu.

     

    Hắn gửi cho tôi hai tấm vé máy bay chưa đăng ký ngày giờ, hắn muốn gặp tôi, rất nôn nóng gặp tôi. Công việc của hắn không cho phép hắn bỏ đi. Tôi ngần ngại, tôi chần chừ, tôi cũng muốn đến nơi hắn ở, cũng muốn thấy hắn bây giờ ra sao. Tôi lưỡng lự, tôi lo sợ, tôi lại có những đêm mất ngủ vì hai tấm vé máy bay của hắn. Cuối cùng tôi quyết định, phải gặp hắn một lần để tìm ra đáp số cho bài toán.

     

    Không thế nào nhận ra hắn giữa đám đông người hỗn độn chen chúc ở phi trường. Nhung hắn nhận ra tôi, vì theo như hắn bảo, bao nhiêu năm qua tôi vẫn không thay đổi mấy...

     

    Tôi quan sát từ đầu đến chân và không thể nào tin đây là hắn: một con người mập mạp, trắng trẻo (biểu hiện của sự thành đạt), vòng bụng căng tròn, tròn hơn tôi tưởng rất nhiều, không còn là thần tượng một thời của tôi. Nhìn hắn tôi bỗng nhiên thèm nhớ biết bao vòng bụng thon và bộ ngực chắc nịch của chồng tôi, bộ ngực mà mỗi lúc vui các con tôi hay bắt bố chúng gồng lên cho chúng đấm vào. Tôi nói với hắn :"Lúc em đi thằng cu con hơi sốt, suốt thời gian ngồi trên máy bay tự nhiên em nóng ruột quá, chắc em nhờ anh đăng ký vé cho em quay về chiều nay". Hắn mở to tròn con mắt ngạc nhiên. Tôi nhớ đến hắn ngày xưa có một đôi mắt rất đẹp với cái nhìn sâu thăm thẳm, làm mềm lòng người. Bây giờ hắn chỉ còn có đôi mắt, tôi không dám nhìn vào đôi mắt làm mềm lòng người khác của hắn. Chiều nay tôi phải bay về ngay với gia đình mình. Giá mà tôi đừng gặp hắn, cứ để cho những đêm không ngủ nhớ về những ngày thật đẹp trong quá khứ. Cuộc sống vẫn có nhiều mâu thuẫn ngay chỉ trong một con người.

     

    Tôi nhớ lại một câu nói của một người nào đó :"Nếu phải chuyển đi đến một hành tinh khác chỉ có hai người, em cũng không lấy anh..."

     

    Nguồn:Sưu tầm


  13. Khi vô tình nghe mấy nữ đồng nghiệp trong phòng kể nhau nghe về mộng mị chiêm bao, anh giật mình. Bất chợt, anh nhận ra đã rất lâu, mình không có một giấc mơ nào. Bất kể đó là một giấc ngủ ngắn ban ngày hay cả giấc ngủ dài ban đêm. Anh không thể nhớ một chút gì. Trống trải hoàn toàn trong bộ nhớ của anh. Dĩ nhiên, anh không phải là một nhân vật ra gì để được đưa vào một phòng thí nghiệm Y khoa nào đó mà ghim mà gắn vào đầu những dây nhợ lằng ngoằng, xem anh thật sự không mơ hay chỉ đơn thuần vì anh không thể nhớ ra được khi tỉnh thức.

    Anh loay hoay với sự việc kỳ lạ xảy ra cho bản thân cả tuần vất vả. Anh chẳng dám hỏi ai, kể cả mấy thằng bạn thân nhứt, mà thật ra anh thì có mơ mà có bạn thân. Vợ anh thì khỏi bàn, cô ấy thậm chí không quan tâm tới chuyện anh có ngủ hay không nữa. Giá có một thằng con - dù nhỏ xíu - anh sẽ thầm thì với nó như cái gã trong truyện đời xưa nói thầm chuyện bí mật vào đất để chôn đi.

    Loay hoay mãi, anh đâm ra khủng hoảng. Như một cơn bão đến từ từ, chậm mà chắc, lừ đừ mà mạnh dần lên trông thấy.

    Anh thử cho đông hồ reo giữa đêm - vào nhiều giờ giấc khác nhau - thầm mong việc bất chợt thức giấc sẽ không làm anh quên béng cái chiêm bao vừa xảy ra - nếu nó có trong giấc ngủ của anh. Suốt một tuần sau đó, anh trắng tay, thua cuộc hoàn toàn. Không một tăm tích, không một mảy may. Những giấc mơ đã bỏ rơi anh thiệt tình, bỏ rơi mà không thèm một thông tin báo trước nào.

    Anh đứng khổ ngồi sở. Sẵn sàng nổi cọc với bất cứ ai. Anh tin mình mắc một cơn bịnh khắc nghiệt. Vô phương cứu chữa.

    Tự dày vò mình thêm một tuần, rồi một tuần nữa, anh đi tới một quyết định.

    Nơi văn phòng anh làm việc ở lầu tư một cao ốc mười lăm từng, có một cửa sổ trông xuống sân sau một chung cư. Cái sân thường xuyên vắng ngắt bởi đa số dân cư ngụ nơi ấy là công nhân viên. Họ đi làm suốt ngày, đám con nít thì vùi đầu vào trường bán trú tới chiều. Anh ước lượng từ thành cửa sổ xuống tới cái mặt sân tráng xi-măng lúc nào cũng ướt át ấy cũng đâu mười hai mười ba mét. Một khoảng cách đủ để một người dù nhẹ cân một cách khó tin như anh phải đạt được thoả nguyện chấm dứt đời mình, khi lao ra từ thành cửa sổ.

    Chắc như bắp.

    Khỏi có vụ chấn thương sọ não hay dập ngực dập bụng sơ sơ.

    Là xong. Khỏi phiền luỵ cả Nhà lẫn Nước. Ngành Y tế đâu rảnh mà phải bỏ tiền tài sức lực mà lo cho một công dân rệp bọ như anh.

    Chẳng có gì để chuẩn bị nhiều ngoài một chúc thơ đơn giản và ngắn gọn. Chỉ để những đồng nghiệp trong phòng khỏi khi không dính vô rắc rối lãng òm.

    Đợi cho đám đồng nghiệp cả nam lẫn nữ rời phòng xuống ăn bữa trưa, anh đứng lên, bước tới cánh cửa, gài chốt. Phải tránh rủi ro cho thiên hạ, lỡ ra một kẻ nào đột ngột quay trở lại lúc anh đang leo lên thành cửa sổ. Lúc đó, rắc rối phát sinh, cái hình ảnh chẳng lấy gì làm đẹp đẽ của anh biết đâu sẽ ám ảnh không tha trong đầu óc kẻ kia. Điều đó thiệt chẳng nên.

    Trước khi leo lên thành cửa, anh quay nhìn một lần chót nơi mình làm việc đằng đẵng năm năm trời. Quen thuộc đến nhàm chán. Anh chợt nhận ra một điều. Nếu cõi bên kia là có, và anh còn đủ thông minh để có hồi ức, có lẽ đây là nơi duy nhất anh sẽ nhớ. Ký ức thời sinh viên nhạt nhoà như bóng ma thoắt ẩn thoắt hiện. Mối tình duy nhứt lạt lẽo như nước ốc để nguội. Căn nhà trọ ở với vợ trước khi ly thân vỏn vẹn hai tháng anh còn chẳng nhớ được quét vôi màu gì. Người vợ tốc hành con nít sau một cơn say xỉn đang nguyền rủa. Chỉ chưa đầy sáu mươi ngày đêm đã đùng đùng cuốn gói về nhà Mẹ chờ ngày ly dị. Chẳng có gì đáng nhớ trong cái chuỗi ngày dài vô vị của đời anh.

    Một cái gì thật ngậm ngùi buồn tủi dâng lên cổ làm anh muốn nghẹn. Anh cảm thấy khó thở. Anh vội vội vàng vàng đi như chạy tới thành cửa sổ. Leo lên, không nhìn xuống, anh cẩn thận một cách tỉ mỉ và chậm rãi, gài lại nút túi áo mà trong đó anh đã xếp làm tư lá chúc thơ viết ngắn gọn đại thể tự nhận hết trách nhiệm về hành động của mình, ngỏ lời xin lỗi cấp trên và đồng nghiệp về những công tác bị bỏ dở.

    Ngước mặt lên bầu trời đang nắng gắt, anh hít rất sâu một hơi thở. Nhắm mắt lại và bước ra.

    Trong khoảnh khắc và khoảng cách giữa cửa sổ với mặt sân xi-măng, trong anh nổ bùng một thứ gì có thể coi như chân lý.

    Bất chợt, anh nhớ ra, anh đã thật sự vuột mất, trong một thời gian dài, những giấc mơ không chỉ trong khi ngủ, mà quan trọng hơn, cả khi tỉnh thức. Anh đã sống mà không còn mang trong đầu bất cứ một giấc mơ nào. Hy vọng, mộng mơ, là một cái gì cực kỳ xa lạ với anh. Anh chợt cười rú lên, mừng đến điên loạn khi tìm thấy cái nguyên nhân làm mình trở thành một người không đáng sống.

    Những người có mặt gần nơi xảy ra vụ việc, đoan chắc với nhà chức trách rằng họ có nghe một tiếng rú thảng thốt. Tuy nhiên, căn cứ vào lá chúc thơ, và nhất là, cánh cửa khoá trái từ bên trong, người cán bộ công an phụ trách điều tra, kết luận đây là một vụ tự sát hoàn chỉnh. Người vợ - người thân độc nhất của đương sự - khai rằng đã không gặp mặt anh ta suốt ba tháng qua, cô vừa trở về sau chuyến du lịch bốn nước Âu châu kéo dài hai mươi ngày với bạn mình.

     

     

    Sưu tầm.


  14. Trong giờ thực hành môn giải phẫu cơ thể người, vị giáo sư cho sinh viên nhận dạng các bộ phận khác trên cơ thể một người nam giới.

     

    Ông cho các bộ phận tách rời nhau vào các túi đen để sinh viên dùng tay nhận dạng. Đầu tiên, vị giáo sư mời một nữ sinh. Cô ngập ngừng thò tay vào chiếc túi, mặt đỏ dần lên trong khi các bạn đang tủm tỉm cười.

     

    Ông giáo sư nghiêm nghị:

     

    - Đây là một giờ học nghiêm túc, nào hãy nói cho tôi biết đó là bộ phận gì?

     

    Cô sinh viên ngập ngừng một lát rồi bạo miệng:

     

    - Dạ thưa thầy, đây là một cái xúc xích Đức ạ.

     

    Cả lớp cười ồ lên còn ông giáo sư bực tức nói:

     

    - Không có vấn đề gì, tôi tôn trọng ý kiến của em. Giờ thì hãy bỏ nó ra ngoài xem sự suy đoán của em chính xác đến đâu.

     

    Cô sinh viên run rẩy lôi từ chiếc túi ra theo yêu cầu của ông giáo sư. Cả lớp ngạc nhiên vỗ tay rầm rầm, quả đúng là một cái xúc xích.

     

    Lúc này, khuôn mặt của vị giáo sư bỗng tái dần. Ông ta lẩm bẩm:

     

    - Chết, không biết lúc sáng mình kẹp gì vào bánh mì nhỉ?

     

    - !!!!!


  15. Lướt qua mấy dòng thông tin trên báo, chú bị ấn tượng mạnh bởi cái tên của câu lạc bộ. “Những tâm hồn đồng điệu” – nghe hay hay. À không, rất hay là đằng khác!

    Chú vội mở di động bấm dãy số điện thoại liên lạc in chễm chệ to đùng nơi trang giấy. Chốc sau đã nghe bên kia một giọng nữ đon đả:

    “Xin chào, bạn đang gọi đến câu lạc bộ “Những tâm hồn đồng điệu”. Cảm ơn bạn đã liên hệ với chúng tôi…”

    “Tôi muốn… đăng ký tham gia…”

    Chú sẵn sàng bỏ tiền để trở thành thành viên V.I.P.

    Trong đầu chú mường tượng đến những con người cùng chung sở thích, tâm đầu ý hợp, hiểu nhau đến từng chân tơ kẽ tóc cùng ngồi lại hộp họp, gặp gỡ, giao lưu, sẻ chia bao nỗi buồn vui trên đời. Ôi, chỉ vừa mới nghĩ đến thôi mà làm chú thấy hết sức phấn chấn rồi.

    Cô giao dịch viên nhanh chóng cho chú lịch hẹn. Chủ nhật này. Chú thấy hồi hộp lắm, chắc là suốt đêm nay trằn trọc mất thôi.

    Quả thật vậy, khuya, sau khi tắt đèn, vừa nhắm mắt lại chú đã thấy mình ở một nơi xa lạ. Mọi thứ đều sáng choang.

    “Chào anh, anh đến rồi à!”

    Ai gọi mình thế nhỉ? Chú quay lưng lại. Ồ, một cô gái xinh đẹp. Nụ cười của nàng tươi như hoa.

    “Vâng, chào cô. Cô ơi, đây là đâu?”

    “Còn ở đâu nữa, anh!”

    Chú nhìn quanh quất một hồi mới đập vào mắt tấm biển to đùng trên cao đề mấy chữ: “Câu lạc bộ Những tâm hồn đồng điệu”.

    A ha! Chú reo lên. Đúng như mình nghĩ. Nhưng chú cứ vờ vĩnh:

    “Hôm nay chưa phải là chủ nhật mà…”

    “Đã gọi là đồng điệu thì không cần “đến hẹn lại lên”, anh ạ!”

    Ôi tuyệt vời! Trúng y boong ý chú! Cơ mặt chú dãn duỗi hẳn ra, thoải mái như ở nhà.

    “Đúng đúng! Thế những người khác đâu rồi cô nhỉ?”

    Nàng lại nở nụ cười, ánh mắt hướng vào bên trong. Khung cảnh sáng đến lóa mắt dần dịu đi, nhường chỗ cho nào bàn nào ghế. Và vô số con người có mặt ở đây tự lúc nào.

    Chú bước chậm rãi qua cánh cửa lớn, ôi chao bầu không khí gì thế này? Ập vào chú là cảm giác hết sức vui vẻ gần gũi. Bên tai phảng phất điệu nhạc du dương cùng những tiếng trò chuyện nói cười hoan hỉ khoan thai.

    “Chào người anh em!”

    Một anh chàng vừa trông thấy chú đã vội chạy ra tay bắt mặt mừng.

    “Xin chào! Ở đây đông vui quá. Thế mà tôi không biết.”

    “Tất nhiên rồi. Chắc chắn anh sẽ rất vui khi tham gia câu lạc bộ này.”

    Anh ta kéo chú vào một bàn có ba bốn người đang bàn luận sôi nổi vấn đề gì đấy. Mấy người kia trông thấy chú liền reo lên:

    “Ôi lâu quá không gặp, ngồi xuống đi bạn hiền của tôi!”

    Bạn hiền của tôi? Lâu quá không gặp? Quái, chú đã gặp họ bao giờ đâu mà bảo lâu với chẳng nhanh. Đang nghĩ nghĩ ngợi ngợi thì anh chàng kia đã lên tiếng:

    “Anh không phải băn khoăn. Ở đây chúng tôi đón tiếp người mới đều như thế cả.”

    Thích thật, chú cười toe toét, ngồi vào bàn cùng với họ.

    “Anh có thích hát không?”

    “Không!” – Chú lắc đầu quầy quậy.

    “Vậy anh thích nhảy không?”

    “Cũng không!” – Chú nhún vai.

    Mấy người trong bàn hết nhìn chú lại quay sang nhìn nhau. Nhưng rất nhanh để một người nữa nêu thêm câu hỏi:

    “Thế ắt hẳn anh rất mê đọc sách, và tất nhiên là văn chương?”

    “Không!”

    “A thôi tôi biết rồi! Anh rất đam mê hội họa!” – Tiếng nói khác vang lên.

    “Thưa, không đâu…”

    Mất chú ít thời giờ nữa trước khi họ đồng thanh reo to:

    “Lần này đảm bảo chính xác! Anh tôn thờ sắc đẹp, anh thích phụ nữ, trúng phóc rồi chứ gì!”

    Ý họ nói chú mê gái. Chú cũng chẳng rõ nữa. Có thể có hoặc có thể không. Chỉ biết từ lâu lắm rồi chú ở mãi một mình. Không hẹn hò, không cặp bồ cặp bịch, không yêu ai, quen ai, gặp ai…

    Sắc mặt chú xụ xuống trông thấy, mấy người kia hoảng quá vội vã trấn an.

    “Ôi ông anh ơi, đã đến đây là phải vui vẻ chứ. Vui lên đi nào, đời có là bao nhiêu. Tôi dắt anh sang chỗ đám các cô trẻ đẹp nhé!”

    Lặng lẽ bước theo người dẫn đường, đầu óc chú mông lung, mắt chắm chúi theo từng bước chân mình.

    Chú chẳng nghĩ được lâu hơn khi giọng nói ngọt ngào thân quen từ đâu rót tuột vào tai, vội vã ngẩng đầu lên.

    “Anh không thoải mái à?”

    Chính là cô gái ban nãy ở ngoài cửa. Lạ thật, hẳn là chú đã từng gặp nàng đâu đó rồi, đoan chắc nhưng vắt óc mãi không nhớ ra.

    “Không! Tôi thích lắm…” - Chú lúng túng.

    “Vậy anh ngồi xuống đây, thư giãn nào…”

    Nàng kéo chú ngồi xuống ghế, nháy mắt với anh chàng kia. Anh ta vẫy tay rồi nhanh chóng mất hút vào đám đông chộn rộn.

    “Thế nhé. Tôi giao ma mới này cho cô đấy.”

    Còn lại chú và nàng. Không gian bây giờ cảm tưởng như chỉ có hai người. Thật lạ lùng, đám đông dường như đang dạt đi, ra xa, xa mãi, xa tít.

    Nàng tiếp tục nở nụ cười tươi như hoa:

    “Sao anh lại muốn tham gia câu lạc bộ này?”

    Câu hỏi đến với chú bất ngờ. Tại sao? Ừ nhỉ, tại sao thế? Tại sao chú không mảy may chút xíu đắn đo tức tốc gọi điện đăng ký tham gia vào chốn đây. Chú còn nhớ tâm trạng mình đã hết sức mừng rỡ như vớ được vàng khi biết được trên đời tồn tại một nơi tuyệt vời thế này.

    “Bởi vì… từ lâu tôi cứ ngỡ… chẳng bao giờ có cái gọi là câu lạc bộ Những tâm hồn đồng điệu…” – Giọng chú chùng hẳn xuống, cổ họng thấy nghèn nghẹn.

    Nàng đột nhiên nắm lấy đôi tay đen xạm xù xì đặt trên bàn của chú, vuốt ve dịu dàng. Cảm giác như có một luồng điện mạnh chạy dọc sống lưng. Và trong khoảnh khắc, khi soi mình vào đôi mắt nâu thăm thẳm tuyệt đẹp kia, chú bị lôi tuột đi.

    “Đây là đâu…?”

    Vẫn là thứ ánh sáng chói chang đến lóa mắt. Mất một lúc để chú kịp nhận ra mình đang nằm trên một đồng cỏ xanh ngát ngút ngàn. Bên trên là những tia nắng rọi thẳng vào mặt, cùng nền trời trong vắt cao vời vợi.

    “Hít thở thật sâu nào, anh.”

    Nàng nằm ngay kế bên, thì thầm vào tai chú. Chú nghe theo, nhắm tịt mắt lại, hít một hơi đến thắt lồng ngực. Cảm giác dễ chịu quá, chưa bao giờ chú thấy thoải mái hơn. Trộn lẫn vào nhau nghe miên man nào những mùi cỏ, mùi côn trùng, mùi hoa dại, mùi nắng, mùi mưa, mùi mây, mùi gió… mùi cả một miền thăm thẳm nào đó chú thèm lắm muốn lắm. Tiếc là chẳng khi nào có cơ hội viếng thăm.

    Trừ bây giờ.

    Chú giật mình thảng thốt.

    “Cô…”

    Và chú đã lần nữa chết lặng khi trông thấy chúng. Ôi, đôi mắt nâu tuyệt đẹp. Là đôi mắt nâu tuyệt đẹp. Chú nhớ đã luôn thầm ao ước duy một đôi mắt dõi theo mình những bước đi đi về về. Ánh nhìn trìu mến làm tim chú tan chảy, sững sờ. Nàng khẽ đặt tay lên gò má chú, đôi mắt buồn hoen gần ngấn lệ.

    Không nhất thiết phải nói ra đâu anh.

    Tiếng nói ấy tiếp tục văng vẳng trong tâm trí. Đúng rồi, không nhất thiết cứ phải nói ra. Nhưng không nói ra thì làm sao nàng biết được - tất tần tật những suy nghĩ từ tận đáy lòng?

    Chẳng cần đâu anh. Bên nhau, lắng nghe bằng tất cả cảm giác. Mình sẽ không cần đến ngôn từ nữa.

    Bàn tay nàng mềm mại quá, chú cảm nhận rõ rệt mọi dạt dào yêu thương đang truyền qua làn da đen sạm gồ ghề in hằn trên mặt những vết dấu vĩnh viễn của thời gian.

    Ánh sáng đó lại tới.

    Kèm theo sau là bóng tối bao trùm. Đèn đột nhiên chớp lên rồi lại tắt ngay. Tối thế, tối như hũ nút. Chú quờ quạng trong màu đen kìn kịt.

    Em đâu? Em đâu rồi?

    Không có tiếng trả lời nào vang lên. Chú thu người lại, co ro. Chỗ này lạnh lẽo quá. Lạnh quá. Dường như mỗi lúc một lạnh hơn. Cả người chú run lên lẩy bẩy. Chú ôm lấy cổ, cảm giác đang bị cái gì đó bóp đến nghẹt họng. Chú muốn hét lên thật to: cứu tôi với! Không được. Nó chặn đứng chú. Nó cấm cửa chú thốt ra. Cái thứ khủng khiếp này…

    Chú chen lấn trong đám đông bu kín một khoảng sân trường. Mồ hôi túa ra, cảm giác nặng trĩu ghì chặt hai vai. Mắt chú đăm đăm lên tấm bảng, không sao tin vào mắt mình. Trời đất chung quanh quay cuồng.

    Cái khoảng cách giữa nơi chú đứng và cánh cổng trường đại học bổng dưng bị kéo ra xa, vời vợi. Xa vời vợi. Xa vời vợi…

    Chú ôm mặt, rồi vò đầu, rồi bứt tai. Nhưng cố gắng đến mấy cũng không sao thét lên được. Không ai nghe. Không ai hiểu. Chỉ còn lại toàn ánh mắt khinh rẻ và thương hại.

    Choáng váng, chú ngã vật xuống nền đất lạnh.

    Nàng buông tay chú ra. Đôi mắt nâu nhìn chú ái ngại.

    “Mình chia tay được không anh?”

    Đó là mối tình đầu của chú. Như người ta luôn bảo nhau, tình yêu học trò vừa đẹp vừa mong manh dễ vỡ.

    Cái ngày phải đạp xe một mình về nhà dưới cơn mưa tầm tã, chú hiểu rằng không còn mong chờ một cơ hội nào nữa.

    Nàng đã yêu người khác. Chú nghe rõ rệt bên tai mình:

    “Đồ thất bại!”

    Đám đông náo nhiệt ồn ào hơn trước. Đôi tay chú còn ở nguyên trên bàn. Cô gái có đôi mắt nâu vẫn không thôi vuốt ve chúng. Tất cả đều trở lại vị trí kể từ lúc chú ngồi xuống ghế. Kiên quyết rút khỏi những mơn trớn ma mị trên những đầu ngón tay kia, chú bỏ tay xuống bàn.

    “Tôi hỏi cô một câu được không?”

    Nàng mỉm cười rất tươi. Đôi mắt nâu y như trong ký ức nhạt nhòa.

    “Thật sự có câu lạc bộ này chứ? Nó… tồn tại chứ! Có hay không có?”

    Làn môi nàng tiếp tục cong lên. Bỗng dưng, chú rùng mình.

    “Trả lời tôi đi? Làm ơn!”

    Chìa bàn tay ra, nàng chờ đợi.

    “Không. Đừng kéo tôi đi đâu nữa! Nói cho tôi biết đi!”

    Tim chú đập thình thịch. Thình thịch. Thình thịch. Thình thịch.

    Vỡ tung ra mất.

    “Thôi được rồi.”

    Nắm lấy bàn tay kia, câu trả lời đến nhanh hơn điện giật.

    Anh phải tự tìm ra thôi.

    ° ° °

     

     

    Tiếng vọng từ ti-vi làm chú bừng tỉnh. Đang nằm co ro trên bộ ghế xô-pha, chú với tay quơ lấy cái điều khiển bấm cho nó tắt ngúm. Trời đã sáng tự lúc nào. Căn hộ vẫn mang dáng vẻ lẻ loi quạnh quẽ như chính bản thân chủ nhân lâu nay của nó.

    Chú không còn là “đồ thất bại”. Bây giờ, chú đã là một doanh nhân thành đạt, cửa rộng nhà cao. Dù ngôi nhà quạnh quẽ như chính con người chú.

    Tờ báo rơi phịch xuống sàn.

    Chú chộp ngay lấy nó, mở ra trang rao vặt quảng cáo. “Câu lạc bộ Những tâm hồn đồng điệu”. Ở trang này. Đúng là trang này…

    Soi mãi, tìm mãi, từng dòng từng chữ. Chẳng thấy mẩu rao vặt đâu cả.

    Quái lạ, biến đi đâu mất rồi!

    Chú hốt hoảng chộp điện thoại, bấm dãy số đã như in vào đầu.

    “Số điện thoại này không có thực. Xin quý khách kiểm tra hoặc vui lòng quay số khác…”

    Quay cuồng với cơn nhức đầu khủng khiếp, chú ngã vật trở lại nệm xô-pha.

    Có hay không có? Có hay không có? Có hay không có?

    Đâu đó trong tâm trí vang lên rõ rệt tiếng thì thầm của cô gái mắt nâu.

    Anh phải tự tìm ra thôi.

     

    Sưu tầm.


  16. Bước từ đồn công an ra, trời đất như quay cuồng điên đảo, mọi thứ trở nên xa lạ, tôi run rẩy leo lên chiếc xe máy đang chờ sẵn. Đó sẽ mãi là hình ảnh tôi không bao giờ quên được của một cậu sinh viên mười tám đôi mươi gặp phải ngay khi bước chân lên thủ đô học hành.

     

    Sinh ra trong một gia đình thuần nông vùng đồng chiêm trũng, cuộc sống của tôi ngay từ nhỏ đã gắn liền với những thửa ruộng. Là con lớn trong nhà, tôi luôn phải làm nhiều việc để đỡ đần cha mẹ. Trái lại, mấy đứa hàng xóm nhà tôi thì khác, bố mẹ chúng nó làm công ăn lương, cuộc sống khá giả hơn.

     

    Đã rất nhiều lần tôi nhìn chúng được bố mẹ mua cho cái này cái kia mà trong lòng không khỏi tủi hờn. Có lẽ ngày nhỏ tôi còn chưa hiểu gì nên hay trách mẹ sao không mua cho con đồ chơi, quần áo, mà không biết hoàn cảnh của mình ra sao. Cũng chính vì thế, lòng ghen tị hình thành trong tôi từ khi nào không hay.

     

    Tôi không có đồ chơi đẹp, quần áo mới như chúng nó, tôi cũng chả làm gì được vì ngày đó còn nhỏ, làm sao kiếm được tiền, tôi ghen tỵ lắm. Và cái thói “tắt mắt” đồ của bọn trẻ trong xóm đã hiện hữu trong con người tôi.

     

    Tôi không có những thứ như chúng nó, tôi lại không có tiền để mua nên ăn trộm và chỉ dám bày ra chơi một mình. Những lúc lấy được cái gì đó ngồi chơi một mình, tôi sung sướng biết nhường nào. Có lẽ đó là góc sáng nhất trong tuổi thơ nghèo của tôi.

     

    Nhớ ngày đó, tôi còn bị mẹ bắt được vì lấy cái xe ôtô của thằng hàng xóm. Mẹ nhẹ nhàng bảo tôi như thế là không tốt, phải đem trả lại cho người ta. Nhưng mẹ chỉ nhắc nhở tôi được như thế, thậm chí những trận đòn roi của bố cũng không làm tôi bỏ được cái tính ăn cắp vặt đấy. Làm sao mà bỏ được khi trong tôi luôn có sự ghen tỵ, tủi hờn như thế.

     

    Thời gian qua đi, tôi lớn lên và vẫn mang trong mình tính tắt mắt ấy. Nếu ngày xưa, bố đánh, mẹ đánh thì bây giờ chỉ nhắc nhở vì thấy tôi đã lớn, đã biết suy nghĩ. Chứ bố mẹ đâu hiểu rằng tôi không thể bỏ được, tôi vẫn thường trộm những thứ vặt vãnh mà tôi thích.

    dien-thoai-1.jpg

    Giờ đây dù món đồ có đẹp và giá trị như thế nào đi chăng nữa, tôi cũng không tắt mắt. Ảnh: ST

     

    Cho đến một ngày, cầm tờ giấy báo đỗ đại học trong tay, mà đỗ hẳn trường ở thủ đô, tôi vô cùng mừng rỡ. Bao nhiêu dự định cho cuộc sống sinh viên sau này của tôi hiện ra. Tôi sẽ đi làm, kiếm thêm thu nhập để trang trải cho bản thân. Ra Hà Nội sinh sống và học hành, tôi mới biết thế nào là cuộc sống ồn ào, náo nhiệt của thành phố, nó khác hẳn với cái yên lặng, tĩnh mịch của chốn quê.

     

    Và tôi lao đầu vào đi làm thêm. Chân ướt chân ráo lên thành phố, chắc chắn không thể tránh khỏi bị lừa. Tôi cũng vậy, tôi tìm đến trung tâm môi giới việc làm, phải đóng đến mấy trăm nghìn lệ phí, những tưởng sẽ được làm công việc đó. Nhưng khi đóng xong mới biết bị lừa thì không thể làm gì hơn ngậm ngùi đi về.

     

    Cuối cùng tôi cũng kiếm được một chân phục vụ cho quán karaoke gần nhà trọ. Thời gian làm việc từ 2h chiều đến 12h đêm, lương được 1,6 triệu đồng một tháng. Tôi sung sướng nghĩ tới viễn cảnh cầm số tiền đó về nghỉ hè, chi tiêu cho bản thân. Niềm vui chẳng tày gang, lúc tôi vui nhất cũng là lúc tôi thấy thất vọng nhất.

     

    Đó là một tối thứ bảy giữa hè, quán đông khách vì là cuối tuần, mọi người hay tụ tập đi hát hò, tôi vẫn cặm cụi làm việc như mọi khi. Phòng hát số 3 có bốn người trung tuổi đi ra, tôi và anh Quân vào dọn phòng. Trong lúc sắp xếp lại đồ đạc tôi đã nhìn thấy chiếc điện thoại nắp trượt mà khách bỏ quên. Nhìn thấy một chiếc điện thoại xịn như thế, lòng tham của tôi lại trỗi dậy vì tôi không có chiếc nào.

     

    Như bản năng, tôi nhanh chóng quay lại chỗ anh Quân bảo anh đi lấy giẻ để lau bàn. Ngay tức thì, tôi nhét chiếc điện thoại vào túi quần chạy thẳng xuống nhà vệ sinh dưới tầng 1. Ở đây, tôi nhanh chóng lôi chiếc điện thoại ra và cố gắng tắt nguồn nhưng không biết tắt ở đâu. Giữa lúc đó, chiếc điện thoại rung lên, tôi giật bắn người, may quá nó đang ở chế độ rung nên không phát ra âm thanh. Không làm gì được, tôi lại nhét chiếc điện thoại vào túi quần và phi một mạch về khu nhà trọ để giấu.

     

    Trở lại quán, mồ hôi tôi nhễ nhại, các anh làm cùng quán hỏi đi đâu mà toát hết mồ hôi thế này, tôi ậm ừ rồi lại tiếp tục trở lại với công việc. Một lát sau, khách phòng đó quay lại bảo có quên điện thoại, ai có nhặt được thì cho xin lại., tôi và anh Quân đều bảo không thấy.

     

    Khi công việc tìm kiếm không đạt kết quả gì, chủ quán karaoke đã kéo tôi ra nhẹ nhàng nói: “Cháu có nhặt được thì cho chú ấy xin, chứ điện thoại này không lấy được, chú là cảnh sát ở đây”. Tôi tái mặt đi, nhưng đâm lao thì phải theo lao liền quả quyết: “Cháu không thấy thật mà”.

     

    Mọi ánh mắt đều hướng đến chỗ tôi như biết chắc rằng tôi chính là kẻ trộm. Lúc đó tôi còn nói một câu rất thách thức: “Cảnh sát cũng chả tìm được”. Mọi người lại ai về vị trí của người đó, tôi lại bình thản làm việc mà trong đầu vẫn mơ màng đến cảnh cầm chiếc điện thoại xịn này đi chơi, khoe với bạn bè.

     

    Khi giờ nghỉ làm còn chừng 15 phút nữa, bỗng nhiên tôi bị gọi xuống nhà, tôi và anh Quân được một chiếc xe của cảnh sát phường Dịch Vọng đưa đi. Tới đồn công an, tôi và anh mỗi người một phòng riêng và có anh cảnh sát mặc đồng phục đang ngồi chờ sẵn, tôi biết là tôi đang sắp bị hỏi cung. Từ bé đến giờ, tôi đã bao giờ phải ngồi trong đồn công an đâu cơ chứ, tất cả chỉ thấy được qua phim ảnh, người tôi run lên.

     

    Tôi phải kê khai một bản lý lịch, nhưng chưa kịp viết hết thì anh cảnh sát đã hỏi: “Có phải mày lấy điện thoại không? Mày có biết ông đấy là ai không?”. Tôi lạnh người, cố lấy hết can đảm: “Em không biết điện thoại đấy ở đâu”. Ngay lúc đó, một cái tát trời giáng vào mặt tôi. Tôi tối sầm mặt mũi vào, choáng váng, người như bật khóc đến nơi. Tôi sốc thật sự và biết là không thể che giấu được nữa.

     

    Chủ quán đã đến bảo lãnh cho tôi, ông im lặng không nói gì. Về đến quán, ông nói sẽ gửi giấy về nhà trường, nước mắt tôi bỗng dưng trào ra, tôi khóc như một đứa trẻ. Nếu mà gửi giấy về trường thì tôi chắc chắn sẽ bị đuổi học. Tôi liền nghĩ tới bố mẹ đang ở quê, những tưởng tôi lên đây sẽ học hành tử tế nhưng không ngờ rằng...

     

    Nước mắt lại càng trào mạnh hơn, tôi nài xin ông chủ nhưng dường như vô vọng. Tất cả mọi người trong quán từ khi biết tôi đến giờ đều nghĩ tôi hiền lành, nào ngờ lại ra thế này. Họ động viên, bảo tôi cứ tiếp tục làm ở đây rồi ông chủ sẽ bỏ qua cho. Nhưng tôi còn mặt mũi nào mà đối diện với mọi người đây.

     

    Trước khi tôi trở về nhà trọ, anh Hồng, người mà tôi quý nhất ở quán có nói với tôi: “Em à! Đừng buồn nữa, trong đời, ai cũng phải vấp ngã ít nhất một lần. Quan trọng là sau lần vấp ngã ấy có đứng dậy được không. Ông trời luôn công bằng với tất cả mọi người. Hãy hưởng thành quả từ chính đôi bàn tay lao động của mình”.

     

    Đã 3 năm kể từ cái ngày đấy, giờ đây tôi cũng đã sắp ra trường, lại đang có trong tay một công việc part-time cũng khá ổn định, tôi càng thấm thía hơn câu nói của anh. Tôi thầm cảm ơn anh một lần nữa, và quan trọng hơn cả, tính trộm vặt của tôi đã được bỏ hoàn toàn.

    Sưu tầm.


  17. Phái đoàn chị em hậu phương đi thăm các thương bệnh binh ở bệnh viện. Đến bên giường bệnh một chiến sĩ, một cô hỏi:

    - Nhiệm vụ của anh là gì?

    - Giao liên.

    - Vậy thì em hôn lên "đôi hài vạn dặm" của anh.

    Nói xong, cô hôn lên bàn chân của anh lính. Tiếp đó, cô tiến đến giường bên cạnh:

    - Còn anh?

    - Sĩ quan tham mưu.

    - Ôi, cho em hôn "bộ tổng tham mưu" của anh!

    Hôn lên trán chàng sĩ quan xong, bước sang giường kế tiếp cô nhẹ nhàng hỏi:

    - Còn anh, hãy nói cho em biết anh thuộc binh chủng nào?

    Cậu lính trẻ hoảng hốt, co đầu gối lên bụng, lắp bắp:

    - Em... em xin chị... em ở bên... pháo binh.


  18. Ông bố vừa đi làm về đã nghe cậu con trai nũng nịu: "Bố ơi, hôm nay có bác Cao bạn của bố đến chơi. Con ghét bác ấy lắm!"

    - Sao con lại ghét bác ấy?

    - Vì con bĩnh ra quần, bác ấy không thay cho con mà mẹ không bĩnh ra quần thì bác ấy lại thay quần cho mẹ.

     

    - ????


  19. Chúng tôi quen nhau khi còn học chung ở một trường đại học tại tiểu bang Massachusetts! Sau khi ra trường tuy làm việc ở khác thành phố nhưng chúng tôi vẫn liên lạc và đi lại với nhau! Ba năm sau chúng tôi làm lễ cưới, rồi tính đến chuyện mua một căn nhà để ở! Sau một tháng tìm kiếm, chúng tôi đã tìm được một căn nhà vừa ý, giá lại rẻ ! Đó là một căn nhà Cape, có rào chung quanh, ba phòng ngủ, hai phòng tắm, finished basement, và đặc biệt là có một hồ tắm chìm (underground swimming pool) rất rộng! Tôi thích cái hồ tắm lắm vì đã chán ngấy cái cảnh chen chúc ở các bờ hồ, bờ biển vào mỗi mùa Hè! Nay vợ chồng tôi có thể thoải mái ngâm mình trong nước mát lạnh mà không phải đi đâu xa nữa!

    Chúng tôi mua nhà vào mùa Đông nên cái hồ vẫn được che phủ bằng tấm bạt! Tôi ước mong cho mùa Hè chóng tới để tha hồ bơi lội trong đó! Rồi thì mùa Hè cũng tới, chồng tôi gở tấm bạt phủ và cọ rửa đáy hồ trước khi xả nước vào! Anh ấy làm theo lời chỉ dẫn của một người bạn Mỹ để chúng tôi không còn phải lo lắng gì khi tắm! Số là tôi sinh trưởng ở một tỉnh miền Tây tại VN nên bơi lội là nghề của tôi từ hồi còn bé! Chồng tôi sinh quán tại Nha Trang nên bơi lội với anh chỉ là trò đùa!

    Trưa thứ Bảy đầu tiên sau khi hoàn tất việc sửa soạn cho hồ, tôi thích thú nhảy ngay xuống và bơi thoải mái qua lại từ đầu hồ tới cuối hồ! Bơi được chừng 15 phút, tôi nhoài lại gần cái thang và giữ lấy nó cho đỡ mệt! Bổng tôi có cái cảm giác là có một bàn nào đó nắm lấy cổ chân tôi! Nhìn qua làn nước trong suốt tận đáy hồ, tôi không thấy ai cả! Nhưng chân tôi vẫn như bị ai nắm lấy! Tuy chồng tôi nằm đọc báo trên ghế ở cái deck ngay bờ hồ, tôi không gọi anh ấy vì sợ cho là nhát nhúa! Nhưng tôi cũng không giám ngâm mình lâu hơn! Tay đang nắm cái thang nhôm lên xuống hồ, tôi leo vội lên ngồi cạnh chồng! Một lúc sau anh ấy nhảy xuống bơi, tôi đợi xem có sự gì lạ xảy ra cho anh ấy không! Chẳng có gì cả ! Chồng tôi ngoắc tôi xuống, tôi ngần ngừ một lúc rồi nhảy xuống cạnh chồng! Tôi cẩn thận chỉ bơi theo chồng mà chẳng giám rời xa vì cái cảm giác lúc nãy vẫn còn ám ảnh tôi! Mọi việc tốt đẹp, tôi không thấy có cảm giác bị nắm chân nữa! Chắc là do tôi tưởng tượng ra thôi!

    Hôm sau chúng tôi lại xuống tắm, vừa nhảy xuống bơi được một vòng thì cái cảm giác bị nắm chân lại đến với tôi! Lạ một điều là cái bàn tay vô hình đó chỉ nắm lấy chân tôi chứ không kéo ghị gì cả nên tôi vẫn bơi lội thoải mái! Chỉ thấy như chân mình bị nắm thôi! Tôi cố đập chân thật mạnh để xem cái cảm giác đó có biến đi không! Không, nó như bám chặt lấy chân tôi! Đâm sợ tôi bơi vào bờ và leo lên ngồi cạnh chồng trên deck! Một lúc sau tôi làm như vô tình hỏi:

    _ Anh có cảm thấy bị vướng víu gì trong khi bơi không hả?

    _ Đâu có gì đâu em! Rất thoải mái, nước trong mát anh rất thích! Mình cùng bơi nghe em!

    Rồi anh ấy nhảy xuống bơi mấy vòng và ra hiệu cho tôi nhảy xuống hồ! Bất đắc dĩ tôi phải làm theo! Lạ thay tôi không có cái cảm giác bị nắm như khi tôi bơi một mình trong hồ! Tôi suy ra có lẽ do tôi sợ vẫn vơ vì hồi bé hay nghe kể chuyện "ma da" mà ra thôi! Mà ma da thì ở sông, ở hồ chứ đâu có khi nào tôi nghe nói là có nó trong hồ tắm đâu! Đúng là tôi sợ vẩn vơ rồi! Tuy tự nhủ như vậy, nhưng sau này mỗi khi ra tắm là tôi đợi chồng tôi nhảy xuống rồi mới nhảy theo! Mọi việc êm đẹp và tôi cứ theo đó mà theo để khỏi bị cái cảm giác kia làm sợ hãi và khó chịu!

    Gần cuối mùa Hè năm đó là sinh nhật thứ 26 của tôi! Vợ chồng tôi tổ chức tiệc sinh nhật tại nhà và mời anh em, họ hàng, cùng bạn bè đến dự! Chồng tôi không uống rượu, chỉ khi nào đi dự tiệc tùng thì anh ấy mới uống một lon bia cho vui thôi! Còn tôi thì chỉ cần một ngụm rượu cũng đủ làm cho say rồi! Nhưng vì là tiệc sinh nhật của tôi, nên họ bắt tôi uống mấy ly rượu nhỏ, và để tiệc được vui tôi không thể từ chối được! Xong tiệc, mọi người xúm nhau nói chuyện một lúc rồi từ giả ra về! Vợ chồng tôi dọn dẹp và bỏ chén dĩa vào máy rửa! Thấy mặt tôi đỏ bừng vì rượu chồng tôi bảo là hãy nằm trên sofa nghĩ cho tỉnh rượu đi! Anh ấy xuống basement dọn dẹp dưới đó một chút vì mấy đứa nhỏ con của bạn bè, họ hàng xuống chơi bày bừa bộn dưới đó!

    Đang nằm thiu thiu bổng có một ma lực nào đó bảo tôi đứng dậy và đi ra hồ tắm! Tôi nghe theo như một kẻ mất hồn! Chân tôi bước ra hồ rồi tự nhảy xuống đó! Cái cảm giác bị ai nắm chân lại đến với tôi! Lần này cả hai chân tôi bị nắm và tệ hại hơn là chúng kéo tôi xuống đáy hồ! Tôi vùng vẫy mà không sao thoát được hai bàn tay đó! Mở miệng ra thì bị nước vào, tôi uống mất mấy ngụm vào bụng! Nhưng khi tới đáy hồ thì bản tính tự mhiên tìm cái sống thúc đẩy làm tôi trở lên mạnh mẻ! Tôi đạp thật mạnh để trồi lên mặt nước, vừa cố ngáp thở được hai hơi, đôi tay đó đã kéo ngược tôi xuống đáy trở lại! Không, tôi không thể chết như thế này được! Tôi mới có 26 cái xuân xanh, tôi còn quá trẻ để mà chết! Bản năng sinh tồn cho tôi sức mạnh và tôi vùng lên mặt nước một lần nữa! Đôi bàn tay đó chẳng để cho tôi thở lâu lấy sức, chúng kéo mạnh tôi trở xuống đáy hồ! Tôi cố mở miệng kêu cứu nhưng nước tràn vào miệng làm tôi sặc sụa! Bụng tôi đã chứa khá nhiều nước rồi! Tôi cảm nhận được điều đó! Trong cơn nguy ngập, tôi nghĩ đến chồng, đến cha mẹ, đến anh chị em tôi! Không! Không, tôi chưa muốn chết! Chúng tôi mới cưới nhau được một năm thôi! Tôi mới chỉ hưởng được cái hạnh phúc vợ chồng này chưa đầy một năm, tôi chưa sinh cho chồng tôi một đứa con trai và một cô con gái như chúng tôi đã ước mong mà! Tôi chưa trả được tí gì cho công ơn dưỡng dục của cha mẹ tôi! Tôi không thể chết được! Nhưng ai cứu được tôi bây giờ! Trong cái giờ phút cuối cùng này, tôi cố nhoài người lên một lần cuối! Tôi vẫn cảm nhận là đôi bàn tay kia đang kéo tôi trở xuống, trước lúc ngất đi tôi cảm thấy có đôi tay quàng qua người mình! Tôi chỉ còn một thoáng nghĩ trước lúc hôn mê là đôi tay kia tới mang tôi về cỏi chết!

    Khi tôi tỉnh dậy thấy mình trong bệnh viện, bên giường là gương mặt lo lắng của chồng và bố mẹ tôi! Tôi mừng rở mặt dàn dụa nước mắt! Tôi không biết tại sao mình còn sống và ở trong đây! Ai đã cứu tôi khỏi đôi bàn tay quái quỷ đó! Đợi tôi định tỉnh một hồi, chồng tôi mới nhỏ nhẹ nói:

    _ Anh vừa ở basement lên, không thấy em đâu cả! Anh gọi nhưng không ai trả lời, vào phòng ngủ cũng không thấy em! Anh chạy ra sau thì thấy tay em thò vẫy vùng trên mặt nước và đang chìm dần! Anh hoảng quá nhảy xuống vớt em lên rồi kêu 911 ! Họ đến làm hô hấp nhân tạo và chở em vào đây! Cũng may em chưa chìm lâu nên không nguy đến tính mạng!

    Tôi còn mệt nên chẳng nói gì hết! Hôm sau, họ cho tôi xuất viện! Về nhà tôi mới kể cho chồng nghe về việc tôi đã trải qua! Tôi giám chắc là trong hồ tắm có "ma da" vì nó đã cầm chân tôi từ ngày đầu tiên rồi! Việc này không phải do tôi tưởng tượng ra đâu! Chồng tôi bán tín bán nghi vì anh ấy là người sùng đạo lắm và không tin có ma quỷ hiện hình trên thế gian này! Nhưng thấy tôi quá khẳng định nên anh ấy chiều lòng và cùng tôi ghé qua nhà hàng xóm hỏi thăm! Ông bà hàng xóm là một cặp vợ chồng Mỹ già, họ không có con cái! Thấy chồng tôi hỏi thăm về cái hồ tắm phía sau nhà, bà già tái mặt không giám hở lời! Ông già mời vợ chồng tôi vào nhà chơi rồi thủng thẳng nói:

    _ Thấy cô còn sống chúng tôi mừng cho cô lắm!! Ba người đàn bà trước kia ở căn nhà đó không được may như cô đâu!! Mà tôi nghe nói phụ nữ Á Đông các cô ít ai uống rượu lắm, phải không? Sao mà cô lại bị chìm trong hồ kìa! Tôi thấy hơi lạ đó!

    _ Đúng đó bác ạ! Chúng tôi không uống rượu, nhưng hôm đó là sinh nhật của cháu nên bạn bè ép uống một hai ly nhỏ, nhưng vì không quen nên cháu bị say đó!

    _ Thảo nào! Con ma trong hồ tắm đó chỉ kéo phụ nữ say rượu thôi!

    _ Sao lại có chuyện đó hả bác? Bác nói là con ma trong hồ tắm! Vậy ra hồ nhà cháu có ma thật sao?

    _ Vâng cô ạ! Nhiều người không tin, nhưng tôi ở đây đã 15 năm rồi, và đã chứng kiến cái chết của ba phụ nữ tại hồ nhà cô rồi đó! Bộ các cháu không hay biết gì về lịch sử của cái nhà đó sao?!?!

    _ Tụi cháu lần đầu mua nhà nên có biết gì đâu ! Ông realtor có nói gì về điều này đâu ! Thấy nhà rẻ lại ở địa điểm tốt nên tụi cháu mua ngay thôi!

    _ Thôi để tôi kể cho cô chú nghe về chuyện này: "Nạn nhân đầu tiên là vợ của người chủ đầu của căn nhà đó, một hôm chồng đi vắng bà ta uống rượu quá độ rồi lạng quạng sao đó mà té xuống hồ chết! Chiều tối khi chồng về khám phá ra vợ mình chìm dưới hồ, liền kêu cảnh sát, nhưng bà ta đã chết lâu rồi! Bác sĩ giảo nghiệm và quy cái chết của bà ta là do tai nạn _ Say rượu rồi té xuống hồ chết đuối_ Ông ta buồn lắm và bán nhà đi nơi khác để quên đi nỗi đau mất vợ! Gia đình thứ hai mua căn nhà này được chừng 1 năm, một ngày kia khi người chồng đi làm về không thấy vợ đâu, chạy ra sau tìm, và thấy vợ bị chết chìm trong hồ! Ông ta kêu 911 và họ cũng không cứu được bà ta! Bác sĩ giảo nghiệm đưa đến cùng một kết quả như cái chết của người đầu tiên! Do tai nạn vì say rượu!! Ông chồng ở thêm một thời gian rồi cũng bán căn nhà cho người khác! Vợ chồng chủ mới này đã trung niên, và có 2 người gái con tuổi choai choai đang học trung học! Họ sống yên ổn được chừng hai năm thì sự việc lại xảy ra! Đứa con gái lớn bị bồ ruồng rẩy, một bữa kia cô ta một mình ở nhà lấy rượu uống giải sầu! Khi cha mẹ cô ta về nhà đã thấy cô ấy chết dưới đáy hồ rồi! Bác sĩ và cảnh sát đưa ra kết luận như những lần trước ! Họ làm việc theo khoa học và không tin vào thế giới vô hình nên các giả thuyết khác về sự trùng hợp của ba cái chết này đều bị họ gạt đi! Nhưng vợ chồng tôi thì tin là có cái gì đó đằng sau ba cái chết này! Chúng tôi đoán là cái hồ tắm đó có quỷ, và nó chỉ lựa phụ nữ say rượu để kéo xuống đáy hồ thôi! Hôm thấy xe cứu thương tới nhà anh chị, vợ chồng tôi đã bảo nhau là lại thêm một nạn nhân nữa của cái hồ quái quỷ kia! May mắn là cô không chết! Cô có thấy điều gì khác lạ không?

    _ Dạ, mỗi lần cháu xuống hồ tắm một mình, cháu đều cảm thấy một bàn tay vô hình nắm lấy chân cháu! Nhưng nó chỉ nắm thôi chứ không làm gì khác! Đến hôm cháu bị say rượu thì như có ai xúi bẩy cháu nhảy xuống hồ, và lần này nó kéo cháu bằng cả hai tay xuống đáy hồ! May mà chồng cháu thấy kịp, không thì cháu đã cùng chung số mạng với ba người kia rồi!

    _ Chúng tôi chúc mừng cô đã thoát nạn, từ giờ về sau phải cẩn thận nhé!

    Chúng tôi từ giả họ ra về! Câu chuyện này làm tôi sợ lắm nên tôi thuyết phục chồng tôi bán nhà đi nơi khác ở ! Anh ấy ngần ngừ nhưng sau vài lần cố gắng tôi cũng làm anh ấy xiêu lòng! Chúng tôi gọi realtor để họ bán giùm nhà! Trong khi chờ đợi bán nhà, chúng tôi không giám bén mảng ra hồ tắm nữa! Vì còn là mùa Hè nên chúng tôi thường mở cửa sổ vào ban đêm cho mát! Chồng tôi lên giường một lúc là ngủ say như chết! Còn tôi từ hôm nghe chuyện về cái hồ thường trằn trọc, khó ngủ, và bị ám ảnh bởi con ma dưới đó! Cứ gần nửa đêm là tôi lại nghe tiếng đập nước ầm ầm như có người vẫy vùng trong hồ! Tôi nghe nhưng vì sợ nên cố nằm yên không giám động đậy! Có đêm tôi liều đánh thức chồng dậy để anh ấy nghe tiếng động, nhưng ngay lúc đó tiếng vùng vẫy bổng im bặt làm tôi bị chồng rầy vì tội phá giấc ngủ !! Để kiểm xem điều mình nghe có đúng không, một sáng tôi mở cái slide door nhìn ra deck, điều tôi nghe không phải do tưởng tượng! Nước còn đọng vũng trên deck dù trời không mưa cả tuần rồi, và không ai trong chúng tôi tắm ở đó cả ! Tôi kéo chồng ra xem mấy vũng nước để minh chứng là những tiếng động tôi nghe là đúng! Chồng tôi không nói gì nhưng anh ấy hành động ngay, bằng cách xả hết nước trong hồ ra rồi phủ nó lại bằng tấm bạt dùng để phủ trong mùa Đông! Tôi yên tâm là sẽ không còn nghe tiếng vẫy vùng trong đêm nữa!

    Nhưng tôi đã lầm! Khuya đó thay vì nghe tiếng đập nước thì tôi lại nghe tiếng đàn bà rên rỉ, khóc tỉ tê từ sau hồ vọng về! Tiếng khóc, tiếng rên nghe rợn cả người! Tôi cố bịt tai lại nhưng tiếng vọng ai oán này vẫn lọt vào tai! Tôi chịu không nổi nhưng không giám tự mình ra đóng mấy cái cửa sổ lại!! Tôi đành phải đánh thức chồng và nhờ anh ấy ra đóng giùm mấy cửa sổ ! Tiếng rên không vọng vào nữa! Tư đó hằng đêm tôi luôn nhớ đóng tất cả các cửa sổ trước khi đi ngủ !

    Rồi nhà tôi cũng bán được, tuy là bị lỗ hết cả 10%! Không sao! Miễn bán được là tốt rồi! Tạm thời chúng tôi thuê tạm một town house để ở! Cả hai chúng tôi đều có việc làm tốt nên việc mua nhà mới sẽ không có gì khó cả, nhưng lần này chúng tôi phải điều tra kỹ về cái mà mình sẽ mua, và dù rất thích bơi lội tôi nói với chồng là không mua nhà có hồ tắm nữa! Một lần cũng đủ làm tôi tởn tới già rồi! Một hôm khoảng ba tháng sau, khi đi sắm đồ trong Mall, chúng tôi tình cờ gặp vợ chồng người mới mua căn nhà đó! Sau khi bắt tay chào hỏi xả giao, chồng tôi vẻ mặt băn khoăn lên tiếng:

    _ Ông bà sống bình yên trong căn nhà mới chứ?

    _ Cám ơn anh chị, chúng tôi vẫn bình an cả !

    _ Chúc mừng ông bà! Nhưng tôi có điều băn khoăn trong lòng mà nếu không nói ra tôi sợ nó sẽ cắn rứt chúng tôi sau này! Số là cái hồ tắm sau nhà không phải là một cái hồ bình thường! Đã có ba người chết ở dưới đó rồi đó! Xin ông bà hãy cẩn thận!

    Ông ta cười to ra vẻ tự tin lắm:

    _ Cám ơn anh chị đã nhắc cho điều này! Trước khi mua nhà chúng tôi đã điều tra kỹ về nó rồi! Tuy không tin ma quỷ nhưng tôi cũng đề phòng hết rồi! Vả lại nhà quá rẻ tội gì không mua, phải không anh chị?! Ha ha hạ. , Xin lỗi, tôi chỉ nói đùa một chút cho vui thôi, anh chị đừng giận nhé! Thật ra sau khi mua nhà, chúng tôi đã mời Cha đến làm phép trừ quỷ, và còn hơn thế nữa chúng tôi đã thuê người phá bỏ cái hồ, đổ đầy đất và trồng cỏ lên rồi! Không còn gì phải lo lắng nữa!

    _ Chúc mừng ông bà! Chúng tôi phải đi đây, xin chào ông bà nhé!

    Trong lúc lái xe về, chồng tôi như hơi tiếc nói:

    _ Tại sao lúc đó mình không biết đường làm như ông ta nhỉ !!!

    _ Thôi đi anh! Bây giờ có cho ở không em cũng nói "No, thanks" thôi anh ạ !

    Ông chủ nhà mới đã đúng, chúng tôi ở vùng này đã cả chục năm rồi mà không nghe có gì lạ xảy ra trong căn nhà đó nữa! Có lẽ con ma dưới hồ tắm đã bị Cha xứ làm phép đuổi mất, hoặc nó đã không còn chổ ở mà phải dọn đi nơi khác chăng!

    Kết Thúc (END)


  20. Giọt nước mắt cuối cùng của anh trai tôi, đó là giọt lệ trả nợ nhân gian, trả nợ cuộc đời, là sự hối lỗi với bố mẹ, anh em. Anh khóc để rồi nhắm mắt đi một chuyến thật xa mà không hẹn ngày trở lại.

    >Thi viết 'Cú sốc đầu đời' trên VnExpress và iOne

     

    Tôi đã chực quên đi năm tháng của tuổi thơ cơ cực, mặn đắng những giọt nước mắt của mẹ và những tiếng kêu xé lòng của cha. Đã chực quên đi cái mà người ta vẫn gọi là “nỗi đau”, nhưng càng quên nó càng dày vò trong tâm khảm, đôi lúc lại đau đến xé lòng. Nhắm mắt lại cũng nghĩ tới khuôn mặt hốc hác ấy, vẫn hình dung ra đôi mắt trũng sâu và giọt nước mắt trả nợ nhân gian của anh. Giọt nước mắt cuối cùng mà anh tôi đã trả nợ cho cuộc đời.

     

    Ngày ấy, bố mẹ tôi cùng đinh phải bán đất nuôi con ăn học. Bốn anh em tôi lớn lên bằng những gánh rau hành của mẹ và những hạt thóc đẫm mồ hôi của cha. Những ngày mưa bố mẹ chạy đi tìm thau hứng nước mưa dột từ mái nhà, anh em tôi chạy quanh cũng không tìm được chỗ trú. Ấy vậy mà bố mẹ tôi vẫn kiên trì nuôi bốn anh em tôi ăn học.

     

    Anh tôi vào CĐ Giao thông và đi học xa nhà. Bố mẹ thương con chắt chiu dành dụm mua cho anh chiếc xe đạp cũ. Cái nghèo đã giúp anh tôi tiến thủ học hành, nhưng cũng chính cái nghèo đã khiến anh tôi quay lưng lại với mọi sự hy vọng của bố mẹ và gia đình. Anh sa ngã.

     

    Anh tôi ăn chơi bài bạc, cầm cố đồ rồi bỏ bê học hành. Dạo ấy, cứ độ khoảng một tuần có người lạ tìm đến gia đình tôi là ngay sau đó bố mẹ tôi có thêm một món nợ mới do anh tôi gây ra. Bố mẹ tôi héo hon, ba anh em tôi sợ hãi. Đến bao giờ tôi quên được những đêm mẹ tôi khóc thầm, những trận đòn bố dành cho anh, để rồi thương con lại nhìn con khóc? Đến bao giờ tôi quên được tấm lưng gầy của bố tôi khi còng lưng xin người ta khất nợ để rồi 30 Tết năm nào cũng lặng lẽ nhìn mẹ tôi đội mưa đi vay gạo. Mẹ đi đến đâu cũng bị người ta từ chối, còn bố tôi bị anh em họ hàng thả chó ra cắn vì đến vay tiền, rồi đành ngậm nước mắt quay về và thương con.

     

    Anh tôi ra trường. Bố tôi chạy vạy cho anh làm ở một cơ quan ở Quảng Ninh. Hè năm tôi hết lớp chín, tôi theo bố đi làm công trình ở Hà Nội. Hôm ấy, anh từ Quảng Ninh xuống Hà Nội xin bố tiền. Đêm hôm ấy, trong một căn nhà thuê cũ kỹ ở Triều Khúc, tôi đã thấy hai người đàn ông ngồi khóc với nhau. Hôm sau, bố đưa anh ra bến xe về Cẩm Phả, bố đưa cho anh ít tiền. Trên đường phố Hà Nội đông đúc, bố nắm chặt tay anh khẩn khoản “Bố xin con, đừng làm bố mẹ khổ nữa con ơi”.

     

    Hai tháng sau ngày hôm ấy, anh tôi bị bệnh. Tin ấy đã đánh gục gia đình tôi. Bố mẹ tôi như ngọn đèn leo lét trước gió, chỉ chực ngã bất cứ lúc nào. Viện K trả anh tôi về với bệnh án ung thư tuyến mật giai đoạn cuối. Anh tôi không khóc, chỉ lẳng lặng nhìn bố mẹ tôi. Tôi hiểu, trong trái tim người trai trẻ ấy, có một nỗi giày vò ăn năn tê tái dâng lên.

     

    Anh tôi ốm một năm mười ba ngày. Hôm ấy rằm tháng bảy, bỗng nhiên anh không thể dậy ăn cơm với gia đình. Đêm hôm đó anh tôi yếu. Mẹ tôi khóc lóc vật vã. Ba anh em tôi ở bên xoa bóp cho anh. Đến sáng, anh bắt đầu nôn ra máu. Cơ thể anh rệu rã, hốc hác sau những cơn đau của bệnh tật hoành hành. Bố tôi ôm anh vào lòng mà hai con mắt dại đi. Tôi biết, ông đang đứt đi từng khúc ruột khi nhìn đứa con bị cướp đi sự sống từng giờ mà đành bất lực.

     

    Anh tôi vật vã ba ngày. Buổi sáng hôm ấy, như có linh tính, tôi không muốn đi học, cứ chần chừ mãi bên giường anh mới chịu rời đi. Trống vừa vào lớp thì cậu tôi lên gọi về. Chân tay tôi run lập cập, người tôi như tê dại, tim đau đến không thở được. Tôi chạy một mạch về nhà, nhìn thấy anh tôi đang nằm thoi thóp.Tôi đau, đau đến lạnh toát khắp người, chỉ mong có một thế lực nào đó giữ anh lại cho tôi.

     

    Bốn anh em tôi nắm chặt tay nhau. Anh đưa mắt nhìn mọi người, nhìn căn nhà thân yêu của chúng tôi, nhìn ra ngoài sân, nơi có giàn hoa giấy đã gắn bó cả tuổi thơ của anh em tôi. Tôi biết, đó là lúc anh tiếc nuối nhất cuộc đời. Rồi anh tôi khóc. Giọt nước mắt cuối cùng của anh trai tôi, giọt nước mắt anh trả nợ nhân gian, trả nợ cho đời, giọt nước mắt anh tôi khóc vì thương bố mẹ, thương gia đình, để rồi nhắm mắt đi một chuyến thật xa mà không hẹn ngày trở lại.

     

    Đã năm năm gia đình tôi thiếu đi một người. Mùa Vu lan, Hà Nội tấp nập người đi sắm sửa lễ cúng cô hồn. Tôi đứng ở hành lang ký túc xá, nhớ anh tôi, nhớ gia đình. Năm năm đã đi qua cho tôi bao trưởng thành. Nỗi đau đã cho tôi hiểu về việc cần yêu thương và trân trọng những người thân của mình. Cảm ơn cuộc đời đã cho tôi đi qua bao biến động dữ dội, để tôi lớn và trưởng thành hơn.


  21. Yến Hương chầm chậm bước trên con đường vắng, con đường về nhà chiều nay như bỗng dài thêm. Bước chân cô vô tình dẫm lên đám lá vàng khô, từng xác lá oàn mình kêu than dưới đôi chân người con gái. Một cơn gió thoáng qua, đám lá vàng thoát nạn mừng rỡ cuốn nhanh về phía cuối đường...!

     

    Không biết từ bao giờ Yến Hương trở thành kẻ độc hành! Một buổi chiều tan tầm từ cơ quan trở về phòng trọ, Yến Hương cứ thế lặng lẽ một mình thả bộ dọc theo con đường rợp lá vàng bay để gậm nhấm nỗi buồn... nhge con tim mình se thắt từng cơn trước sự đổi thay của nhân tình thế thái. Đôi mắt lơ đãng nhìn từng xác lá cô đơn chuyển mình theo cơn gió, bỗng nhiên Yến Hương thấy lòng trào dâng một niềm thương cảm đến vô vàn! Chúng cứ bay... bay mãi theo cơn gió không biết dừng lại nơi đâu, giống như có một thân một mình bơ vơ đơn độc trên đường đời, không biết đâu là bến bờ hạnh phúc...!

     

    Yến Hương bước chân ra đường sau nhiều đêm thao thức, lệ đọng bờ mi với những nỗi đau thắt ruột gan... giấc ngủ đến muộn... chập chờn!... Sáng nay đến cơ quan làm việc mà cô cảm thấy mệt mỏi lạ thường, có cảm giác dường như mình bị đuối sức nhưng phải cố gắng để không bỏ dở công việc. Buổi trưa cuống căng tin ăn cơm rồi đi nằm để lấu sức cho những giờ làm việc buổi chiều. Thế nhưng lúc đang ôm hồ sơ trình ký từ phòng Giám đốc xuống, Yến Hương bất ngờ thấy chóng mặt rồi bước hụt xuống cầu thang, và ... Á... Á... Á... ! Cô thét lên kinh hoàng rồi lăn theo từng bậc thang xuống nền gạch!...

     

    Tỉnh lại trong bệnh viện, Yến Hương mới hay đứa con mới tượng hình trong bụng cô đã đặt hết niềm tin và hy vọng, cũng đã vội vàng lìa xa cô mãi mãi!... "Tin!... Tin!... Tin!..." Tiếng còi xe ai đó chợt vang lên khiến Yến Hương giật mình dừng lại! Ký ức lùi xa và... một chiếc xe con đang trờ tới rồi... K e e e e t... chiếc xe dừng ngay trươc mặt Yến Hương. Tiếng bánh xe rít trên mặt đường nhựa nghe rợn người!... Yến Hương hoàn hồn, dưới chân cô không còn một xác lá vàng nào mà là đường nhựa trơn tru... thì ra đang mãi nghĩ ngợi, Yến Hương đã bước chân xuống con đường trước mặt mà không hay! Cô vội cúi đầu nói lời tạ lỗi với chủ nhân chiếc xe rồi quay trở vào... Con đường lại như chợt dài ra với những đám lá vàng khô quen thuộc đang cuốn mình bay theo chiều gió...!

    Thời thơ ấu bên nhau

     

    Vĩnh Phúc và Bích Thu là hai con người đồng cảnh ngộ "giữa đường đứt dánh". Họ gặp nhau, cảm thông niềm đau mất mát của nhau và thế là cùng đến với nhau để chia sẻ nỗi buồn niềm vui trong cuộc sống trót đã chịu nhiều bất hạnh. Từ đó Bảo Lâm mười hai tuổi, con của Vĩnh Phúc rất vui vì có được một cô em gái dễ thương là Yến Hương. Cô bé Yến Hương chín tuổi con của Bích Thu là người mà Bảo Lâm sẽ gọi làm mẹ.

     

    Nhiều năm rồi Yến Hương thiếu vắng tình thương yêu của người cha, con bé trở nên u buồn và hiếm khi chơi đùa với chúng bạn. Từ lúc có bác Vĩnh Phúc đến chơi, Yến Hương bắt đầu được quan tâm, Vĩnh Phúc khiên cho cô bé tìm lại được cảm giác ấm áp trong tình cảm yêu thương của người cha.

     

    Khi trong nhà Vĩnh Phúc có mặt hai mẹ con Bích Thu thì cuộc sống trở lên vui tươi sống động hơn. Bếp lửa không còn nguội lạnh, nhà cửa tươm tất ván khéo nhờ có bàn tay chăm sóc của người đàn bà, bữa cơm trong gia đình thơn ngon nóng sốt. Tiếng cười đùa vô tư của hai đứa trẻ vang lên mỗi chiều khiến Vĩnh Phúc và Bích Thu thấy hài lòng vì đã mang được niềm vui đến cho hai đứa con bất hạnh của mình.

     

    Bảo Lâm thương yêu chiều chuộng em gái hết mực khiến có lúc Bích Thu phải rầy con:

     

    - Yến Hương không được bắt anh chiều con những chuyện vô lý như vậy nhé. Chơi một mình đi! Anh Lâm còn phải học bài nữa.

     

    Nhưng Bích Thu la rầy con cho có chừng mực vậy thôi chứ chẳng ảnh hưởng gì đến bọn trẻ, chúng vẫn vui đùa quấn quít bên nhau dương như là lâu rồi chúng không có ai chơi cùng, bây giờ có anh có em nên chúng vui chơi thoải mái cho bõ những tháng năm phải chịu thui thủi một mình. Bích Thu và Vĩnh Phúc cũng hiểu như vậy nên học cảm thấy vui với niềm vui vủa con mà không ngờ đến những điều phức tạp có thể xảy đến sau này....

     

    còn tiếp.


  22. Tôi hoàn toàn trong bóng đêm, mờ mịt. Cảm nhận đôi môi anh thơm nồng đến lạ kỳ. Cảm nhận như lần đầu tiên chất ngất mê đắm. Im lặng, không có âm thanh nào khác ngoài tiếng thở nhẹ nhàng nhưng nhanh gấp đầy mê đắm của anh.

    Sáng, L gõ cửa, ngắn gọn: 2 giờ trưa đi cắm trại. Nắng bắt đầu chan chát trên những ngọn cây. Chúng tôi, 20 người mang đầy giỏ thức ăn và trái cây. Cuộc thảo luận bắt đầu, ai làm gì, ai mang gì, chơi gì.... 20 người, cuộc thảo luận được đẩy đưa qua lại. Thống nhất hẳn khoảng một giờ sau đó.

    Trên triền núi nhìn xuống là những dãy nhà nằm dọc hai bên sông, được bao bọc và xen kẽ bởi những cánh đồng xanh um. Phía xa khuất những dãy núi trắng xóa đứng im lìm, tuyết và sương mù còn lẩn khuất, mờ ảo, dù trời đang mùa hè. L nói mơ màng bằng phát âm vùng địa phương, rằng dãy núi nằm khuất cuối xa kia có một cái tên rất lạ, một cái tên mà dù cố gắng anh cũng không nhớ nổi, có ai đó kết luận, thằng nầy vốn là người đãng trí.

    Một vài người đã nằm nhoài trên cỏ, hít hít cái không khí trong lành và mùi thơm của cỏ sau cơn mưa. Nhắm mắt, hoài niệm hay nhớ nhung, mà nhiều khi cũng không rõ mình nhớ nhung cái gì. Đám đàn ông bắt đầu trò chơi đá banh quen thuộc, đám khán giả phụ nữ la hét, cổ vũ cho chồng hoặc bạn trai của mình mỏi hơi. 20 người, chỉ có ba người là độc thân. Hai người độc thân trong số đó ngồi rủ rỉ dưới một gốc cây, đôi khi thở dài, thấy mệt mỏi. Thấy cái trò mà mình đang làm không ra trẻ con cũng không ra người lớn. Tụ tập trên triền núi này để làm gì, để nhìn nhau, để nhớ nhung khắc khoải về cái thời xa xưa, mà cũng xưa lắm rồi, hoài niệm cũng chẳng để làm gì nữa.

    Vậy mà tôi không quên được, tôi nằm dài, ôm cuốn sách và đọc, nhưng mắt nhìn L. Nhìn mà muốn khóc, muốn chạy lại ôm anh, giựt giựt cái mái tóc bồng bềnh kia để trách cứ, để hờn mát, rồi nói, sao năm năm rồi mà anh cứ im lặng hoài vậy. Rồi tôi cười, mà nếu có làm được vậy thì chắc gì anh hiểu. Cái trò yêu đương rượt bắt nầy đôi khi tạo ra cảm hứng để người ta tiếp tục sống.

    Trời bắt đầu tối mờ, mọi người nhóm lửa. Không ai nói gì với ai, hết chuyện rồi, cả buổi chiều chạy lăng xăng trên khắp đồng cỏ, la hét, kể chuyện, hát hò, đã mệt rồi. Nói gì thì cũng thừa. Tôi ngồi chịu đựng, chịu đựng cảm giác gần một người mà cứ tưởng xa lắm vậy, chịu đựng cảm giác của cơn buồn ngủ lây lất đến, mà vẫn gượng ngồi ngay ngắn, cười cười. Tình yêu là thế này sao, dù chán đến oặt người ở nơi này mà vẫn cố ở lại, cho đến tận đêm, chỉ để im lặng, hay chỉ để hy vọng rằng, cái người ấy sẽ đến gần với mình hơn.

    Trời đã chuyển dần sang nửa đêm, sương xuống lạnh cả người, ai đó rùng mình rồi la lên, kiếm dùm cái mền coi, lạnh quá nè. Có ai đó rục rịch đứng dậy, hỏi, cái mền em để đâu. Rồi mọi người bắt đầu lào xào theo, ừ, lạnh quá trời, hồi trưa này còn nóng hầm hập. Tôi cũng lạnh, cũng muốn kêu lên một tiếng, rồi tưởng tượng ra cảnh L sẽ đứng dậy, cũng hỏi một câu tương tự, nhưng ở một ngữ cảnh khác. Nghĩ tới đây lại chán oặt người, nếu thế thì hết vui rồi. Cái trò đọc suy nghĩ của nhau vui hơn, nhìn nhau xuyên qua ánh lửa bập bùng vui hơn là cái trò kiếm một mưu mẹo nào đó để chứng minh, à, người đó có quan tâm đến mình. Cái trò đó xưa rồi, nhiều cặp tình nhân áp dụng rồi. Tôi không muốn lập lại và L cũng thế. Cho nên ngồi yên lặng, khắc khoải nhìn nhau và giá như vòng tay của người kia đừng khoanh tròn bó gối như thế. Và giá như, giá như cái buổi chiều hôm đó đừng đến...

    Có nhiều cái giá như trên cuộc đời này, đôi khi mâu thuẫn chồng chéo nhau. Vậy mà người ta vẫn muốn nói giá như. Lần nào nói câu đó, thì sự việc đã muộn màng lắm rồi. Không ai hối hận gì cả, chỉ thấy tiếc, tiếc một cái gì mơ hồ, không rõ ràng, vô định. Có lẽ, tiếc vì, cái trò cút bắt giờ đã bị phơi bày. Lúc L ngập ngừng báo, tối nay có party, đi không? Tôi gật đầu, như sợ L rút lời nói lại hay suy nghĩ lại mà nói, thôi, đừng đi. Buổi chiều hôm đó, thay vì về nhà thì tôi đứng trước cửa nhà L, không hồi hộp, không tưởng tượng gì cả. Cả hai trèo lên xe buýt. Ngồi chật vật giữa một đống người, L trò chuyện với anh bạn đi theo, anh bạn quay qua hỏi, có thật không, thật như những gì L nói không, rằng em là kẻ hay làm người khác nhớ nhung. Tôi cười cho câu nói lả lơi và chào mời của anh bạn khá đẹp trai đi cùng....

    Nhạc bắt đầu lớn dần lên, khi cuộc trò chuyện đến hồi sôi nổi quanh đề tài âm nhạc, là lúc cả ba bắt đầu rơi vào cơn say. Một cơn say không vì chất cồn mà vì cuộc vui bắt đầu. Ấy là lúc, tôi kể một chuyện gì đó về tình yêu, một câu chuyện xưa lắm rồi, L nghe nhiều lần rồi, lần nào anh cũng nói, phức tạp. Lần này thì tới phiên anh bạn của L nói, phức tạp thiệt. Cả ba chìm đắm trong những câu chuyện đầy mộng mị, yêu đương. Đôi lần khổ đau và đôi lần hạnh phúc. Ấy là lúc, tôi vòng tay ôm L mà không biết mình đang bắt đầu một trò chơi đầy khổ đau, mất mát. Ấy là lúc L nhẹ nhàng kéo tôi về phía anh, chỉ để nhìn vào mắt nhau, và buông...

    Phải lần đó buông luôn thì tôi không buồn bã, mệt mỏi và chịu đựng sương đêm lạnh thế này, không hy vọng hay mơ hồ hy vọng rằng cái buổi chiều hôm đó sẽ lại quay về, để một lần nữa được ngửi mùi thơm dịu nhẹ, để một lần nữa được ghì chặt nhau giữa phố phường vắng tanh người ấy, để một lần nữa nhẹ nhàng gắn chặt vào môi anh, một cái gì đó diệu kỳ, run lên bần bật, cái gì đó không bao giờ tôi có thể giải thích nổi. Cái gì đó đến nhẹ nhàng, rón rén khi trời bắt đầu mưa rỉ rả. Cả ba đi về khi trời chuyển sang đêm. Chia tay anh bạn đi cùng xong, anh đưa tay, kéo tôi về hẳn phía anh, và nụ hôn gần như điên cuồng nhưng êm ái và nhẹ nhàng ấy đã bắt đầu những khổ đau, mộng mị triền miên cho những ngày sau đó.

    Khi nước mắt tôi bắt đầu rơi, là lúc anh nói, hay bọn mình về nhà và chia tay nhau tại đây. Tôi cố níu kéo phần đam mê hoang dại ấy, nhưng tôi biết, mình thất bại và anh biết, cuộc chơi nào cũng đến hồi kết thúc. Vậy thì kết thúc sớm như có thể, để đừng phải nói "giá như" sau này...

    Cái nụ hôn ấy đã lâu rồi, cách đây năm năm rồi. Năm năm rồi, hai người độc thân ấy chạy đi chạy lại từ nhà đến sở làm, chạy đi chạy lại từ đất nước này đến đất nước khác, chạy đi chạy lại vì cái gọi là công danh sự nghiệp, chạy đi chạy lại từ những cuộc tình ngắn ngủi đến những cuộc tình thoảng qua, và cuối cùng quay về nơi này, trên triền núi này, để vẫn là những kẻ độc thân như thuở ban đầu. Rồi tự hỏi nhau, tình yêu là gì?

    Anh im lặng, không biết rõ nữa. Năm năm trôi qua rồi, không ai quên được cái nụ hôn buổi chiều hôm ấy, không ai quên được cái vòng tay siết chặt hôm ấy, nhưng cũng không ai đủ can đảm để nói cho người kia biết, mình đã sống khắc khoải nhớ nhung đến mức nào. Hay trò cút bắt thế này sẽ vui hơn, vui hơn là trò lôi tuột nhau vào phòng và kết thúc một chặng đường hồi hộp, say mê, thần tượng hóa. Lúc ấy mọi thứ sẽ kết thúc, sẽ không ai thần tượng ai nữa, không ai nhớ nụ hôn ban đầu nữa vì trao nhau quá nhiều lần rồi, không ai lâng lâng cảm xúc nữa, vì da thịt này, mắt môi này đã chạm vào nhau rồi. Nên giờ ai cũng đắn đo, và thích thú với cái trò ú tím dễ chết người này.

    Nhưng dù nói thế nào đi nữa, thì bản chất con người vốn là sự "thỏa mãn khát khao". Cái gì mình muốn, mình nên có và phải có. Cái trò này thế nào rồi cũng kết thúc, lúc nào đó rồi cũng mệt mỏi thôi, người ta sẽ khao khát đến cái khác, bình yên hơn, êm đềm hơn. Vì thế, nguyên nhân chính của cuộc rượt đuổi dài dằng dặc này là cái người ngồi ở gốc cây đằng kia kìa. Cái người ngồi hiền lành nhìn đâu đâu xa xăm ấy, người lúc nào cũng lạc quan, người lúc nào cũng đáng tin cậy ấy, nhưng chưa một lần dám nhìn vào mắt tôi, dù yêu đến cháy lòng, đến điên cuồng. Và tôi, vì bản năng đàn bà, vì sự khát khao yêu thương và được yêu thương đã đôi lần nằm trong vòng tay anh mà không bao giờ nói tiếng yêu. Tôi chạy đi chạy lại trong mớ cảm xúc hỗn độn của riêng mình, lần nào cũng vậy, hoang dại điên cuồng với anh xong, và kết thúc bằng gương mặt lạnh lẽo.

    Người đàn bà hư đốn là tôi ấy không biết mình muốn gì, cần gì, yêu ai, ghét ai. Sau mỗi lần thỏa mãn những điên cuồng thì tôi lại nhớ về cái người kia. Cái người ngồi mờ mịt đối diện qua ánh lửa rực đỏ ấy. Đôi lần tôi tự hỏi, phải chăng, người ta thường khao khát cái mà người ta không thể có được?!

    Trời lạnh lắm rồi, mọi người bắt đầu ngồi co ro, lửa đã sắp tàn rồi, một ai đó la lên, ai đi lượm củi đi, cầm cái đèn pin theo. L xăng xái đứng lên, than vãn, để tao đi cho, ngồi một chỗ hoài lạnh quá, có ai muốn đi cùng không. Một vài người muốn đi cùng, nhưng họ im lặng, nhìn tôi. Cái khoảnh khắc đầy ngượng ngập, ngắn ngủi ấy đã kéo tôi xuống vực sâu. Một cách mệt mỏi, tôi đứng dậy, em đi với anh. Cái lần mắt chạm nhau này cứ như một nỗi đau vô hình, khi cả hai ý thức rằng, cái người lặng lẽ ngồi dưới gốc cây kia dù đang đếm sao, ngắm trăng nhưng thần hồn thì lại để bên này. Và giờ phải đau đớn chịu đựng với cảm giác của một kẻ mất trắng tay. Tự nhiên tôi chán đến mức không muốn cử động nữa, năm năm rồi, dù cảm xúc cồn cào ấy vẫn nằm khuất đâu đó trong một góc còn tim, nhưng nó lại chưa bao giờ chán ngắt như lúc này, vì cái trò nầy hết vui, hết vui khi biết một người khác đang đau khổ vì mình, và buộc phải chứng kiến, chứng kiến cái cảnh cao trào nhất của một cuộc rượt đuổi ngoạn mục. Không ai dám chắc mình là kẻ thắng cuộc, vì thắng hay thua thì cũng đều mất mát, đớn đau như nhau.

    Tôi lò dò đi theo L trong ánh sáng chập chờn của cây đèn pin, nghe dưới chân mình những mảnh gỗ răng rắc. Lúc này đây, cảm giác hồi hộp lại quay về, tôi quên hẳn cái người ngồi chịu đựng dưới gốc cây kia, tôi quen hẳn đám bạn ồn ào sau lưng. Tôi biết chắc, cái gì đó sẽ xảy đến, chắc chắn sẽ xảy đến, cái gì thì không nói ai cũng mường tượng ra được. L đi một cách cẩn thận, dò tìm những khúc gỗ to, im lặng. Im lặng kéo dài đúng 5 phút, L hỏi một câu vu vơ, em khỏe không, lâu rồi không gặp. Tôi trả lời vu vơ, gặp để làm gì. Im lặng. Khoảnh khắc này tôi đã chờ đợi suốt năm năm, suốt năm năm chờ đợi được một lần đi trong bóng tối chập choạng thế này, được ngửi lại cái mùi hương nhẹ nhàng thoát ra từ mái tóc bồng bềnh của anh. Tôi đã tưởng tượng và chờ đợi. Nhung lúc này đây tôi thấy mệt mỏi đến ngã quỵ. Muốn nằm lại mảnh rừng này mà không muốn quay về, để lìa xa thế giới con người ồn ào kia, đầy lo toan, mệt mỏi kia.

    Im lặng. Tôi không nghe gì hết, không nghe cả tiếng bước chân L. Hình như anh dừng lại, cây đèn pin đã tắt từ lúc nào. Tôi hoàn toàn trong bóng đêm, mờ mịt. Cảm nhận đôi môi anh thơm nồng đến lạ kỳ. Cảm nhận như lần đầu tiên chất ngất mê đắm. Im lặng, không có âm thanh nào khác ngoài tiếng thở nhẹ nhàng nhưng nhanh gấp đầy mê đắm của anh. Bàn tay anh nóng bừng lên, luồn vào tóc tôi. Khoảnh khắc ấy đến nhanh không ngờ. Tôi nói lạc giọng trong bóng tối, 5 năm rồi sao anh im lặng? Không có tiếng trả lời, một cuộc mây mưa trong bóng tối, không âm thanh, chỉ có tiếng thở thì thào, tiếng gió rủ rỉ....

    Khi chúng tôi trở về thì đám bạn đã nằm ngoặt nghẹo ngủ, đám tro tàn chỉ còn lóe một vài ánh lửa loe loét. Người hiền lành không còn ngồi dưới gốc cây, biến mất. Hình như đã trở về một mình giữa đêm, khi cuộc vui bắt đầu tàn lụi. Đêm, không âm thanh, tôi chỉ thấy nụ cười của L dưới ánh lửa mờ nhạt. Tự nhiên, tôi nhớ về người hiền kia, nhớ oặt người, nhớ điên cuồng và thấy cái trò mà mình diễn đêm nay đã không còn hứng thú gì nữa rồi...

     

    Sưu tầm.


  23. Giọt nước mắt cuối cùng của anh trai tôi, đó là giọt lệ trả nợ nhân gian, trả nợ cuộc đời, là sự hối lỗi với bố mẹ, anh em. Anh khóc để rồi nhắm mắt đi một chuyến thật xa mà không hẹn ngày trở lại.

     

    Tôi đã chực quên đi năm tháng của tuổi thơ cơ cực, mặn đắng những giọt nước mắt của mẹ và những tiếng kêu xé lòng của cha. Đã chực quên đi cái mà người ta vẫn gọi là “nỗi đau”, nhưng càng quên nó càng dày vò trong tâm khảm, đôi lúc lại đau đến xé lòng. Nhắm mắt lại cũng nghĩ tới khuôn mặt hốc hác ấy, vẫn hình dung ra đôi mắt trũng sâu và giọt nước mắt trả nợ nhân gian của anh. Giọt nước mắt cuối cùng mà anh tôi đã trả nợ cho cuộc đời.

     

    Ngày ấy, bố mẹ tôi cùng đinh phải bán đất nuôi con ăn học. Bốn anh em tôi lớn lên bằng những gánh rau hành của mẹ và những hạt thóc đẫm mồ hôi của cha. Những ngày mưa bố mẹ chạy đi tìm thau hứng nước mưa dột từ mái nhà, anh em tôi chạy quanh cũng không tìm được chỗ trú. Ấy vậy mà bố mẹ tôi vẫn kiên trì nuôi bốn anh em tôi ăn học.

     

    Anh tôi vào CĐ Giao thông và đi học xa nhà. Bố mẹ thương con chắt chiu dành dụm mua cho anh chiếc xe đạp cũ. Cái nghèo đã giúp anh tôi tiến thủ học hành, nhưng cũng chính cái nghèo đã khiến anh tôi quay lưng lại với mọi sự hy vọng của bố mẹ và gia đình. Anh sa ngã.

     

    Anh tôi ăn chơi bài bạc, cầm cố đồ rồi bỏ bê học hành. Dạo ấy, cứ độ khoảng một tuần có người lạ tìm đến gia đình tôi là ngay sau đó bố mẹ tôi có thêm một món nợ mới do anh tôi gây ra. Bố mẹ tôi héo hon, ba anh em tôi sợ hãi. Đến bao giờ tôi quên được những đêm mẹ tôi khóc thầm, những trận đòn bố dành cho anh, để rồi thương con lại nhìn con khóc? Đến bao giờ tôi quên được tấm lưng gầy của bố tôi khi còng lưng xin người ta khất nợ để rồi 30 Tết năm nào cũng lặng lẽ nhìn mẹ tôi đội mưa đi vay gạo. Mẹ đi đến đâu cũng bị người ta từ chối, còn bố tôi bị anh em họ hàng thả chó ra cắn vì đến vay tiền, rồi đành ngậm nước mắt quay về và thương con.

     

    Anh tôi ra trường. Bố tôi chạy vạy cho anh làm ở một cơ quan ở Quảng Ninh. Hè năm tôi hết lớp chín, tôi theo bố đi làm công trình ở Hà Nội. Hôm ấy, anh từ Quảng Ninh xuống Hà Nội xin bố tiền. Đêm hôm ấy, trong một căn nhà thuê cũ kỹ ở Triều Khúc, tôi đã thấy hai người đàn ông ngồi khóc với nhau. Hôm sau, bố đưa anh ra bến xe về Cẩm Phả, bố đưa cho anh ít tiền. Trên đường phố Hà Nội đông đúc, bố nắm chặt tay anh khẩn khoản “Bố xin con, đừng làm bố mẹ khổ nữa con ơi”.

     

    Hai tháng sau ngày hôm ấy, anh tôi bị bệnh. Tin ấy đã đánh gục gia đình tôi. Bố mẹ tôi như ngọn đèn leo lét trước gió, chỉ chực ngã bất cứ lúc nào. Viện K trả anh tôi về với bệnh án ung thư tuyến mật giai đoạn cuối. Anh tôi không khóc, chỉ lẳng lặng nhìn bố mẹ tôi. Tôi hiểu, trong trái tim người trai trẻ ấy, có một nỗi giày vò ăn năn tê tái dâng lên.

     

    Anh tôi ốm một năm mười ba ngày. Hôm ấy rằm tháng bảy, bỗng nhiên anh không thể dậy ăn cơm với gia đình. Đêm hôm đó anh tôi yếu. Mẹ tôi khóc lóc vật vã. Ba anh em tôi ở bên xoa bóp cho anh. Đến sáng, anh bắt đầu nôn ra máu. Cơ thể anh rệu rã, hốc hác sau những cơn đau của bệnh tật hoành hành. Bố tôi ôm anh vào lòng mà hai con mắt dại đi. Tôi biết, ông đang đứt đi từng khúc ruột khi nhìn đứa con bị cướp đi sự sống từng giờ mà đành bất lực.

     

    Anh tôi vật vã ba ngày. Buổi sáng hôm ấy, như có linh tính, tôi không muốn đi học, cứ chần chừ mãi bên giường anh mới chịu rời đi. Trống vừa vào lớp thì cậu tôi lên gọi về. Chân tay tôi run lập cập, người tôi như tê dại, tim đau đến không thở được. Tôi chạy một mạch về nhà, nhìn thấy anh tôi đang nằm thoi thóp.Tôi đau, đau đến lạnh toát khắp người, chỉ mong có một thế lực nào đó giữ anh lại cho tôi.

     

    Bốn anh em tôi nắm chặt tay nhau. Anh đưa mắt nhìn mọi người, nhìn căn nhà thân yêu của chúng tôi, nhìn ra ngoài sân, nơi có giàn hoa giấy đã gắn bó cả tuổi thơ của anh em tôi. Tôi biết, đó là lúc anh tiếc nuối nhất cuộc đời. Rồi anh tôi khóc. Giọt nước mắt cuối cùng của anh trai tôi, giọt nước mắt anh trả nợ nhân gian, trả nợ cho đời, giọt nước mắt anh tôi khóc vì thương bố mẹ, thương gia đình, để rồi nhắm mắt đi một chuyến thật xa mà không hẹn ngày trở lại.

     

    Đã năm năm gia đình tôi thiếu đi một người. Mùa Vu lan, Hà Nội tấp nập người đi sắm sửa lễ cúng cô hồn. Tôi đứng ở hành lang ký túc xá, nhớ anh tôi, nhớ gia đình. Năm năm đã đi qua cho tôi bao trưởng thành. Nỗi đau đã cho tôi hiểu về việc cần yêu thương và trân trọng những người thân của mình. Cảm ơn cuộc đời đã cho tôi đi qua bao biến động dữ dội, để tôi lớn và trưởng thành hơn.

     

    Sưu tầm.


  24. Đối với tôi, tuổi thơ là những chuỗi ngày không muốn nhớ, vì nó chất chứa đầy nước mắt của mẹ, của tôi, của nhiều đêm mẹ con tôi vượt cánh đồng lên nhà bà ngoại ngủ, của âm thanh loảng xoảng khi mâm cơm bị ông hất tung xuống nền nhà, đó là những cơn say của ông.

     

    Tôi không biết ông uống nhiều rượu như thế từ bao giờ và vì sao ông lại thường tìm đến rượu như thế. Chỉ biết rằng những ngày say của ông nhiều hơn là những ngày tỉnh, những cơn say liên miên của ông làm tôi sợ hãi vô cùng. Nhất là những hôm tôi đi học về cùng đám bạn, cả bọn vừa đạp xe tới gần nhà tôi đã nghe thấy tiếng chửi của ông, bọn bạn lại quay sang nhìn tôi ái ngại.

     

    Tôi sợ những khi đang học bài thì nghe tiếng hàng xóm gọi đi đón ông về vì ông say, đang ngủ gục ở đâu đó trên đường làng. Tôi sợ những đêm ông say đánh đuổi mẹ, mẹ kéo tay tôi đưa lên nhà bà ngoại, tiếng ếch nhái hòa cùng tiếng nức nở của cả hai mẹ con.

     

    Có những lúc tôi thấy thật ghét ông, nhưng chưa bao giờ tôi không tôn trọng ông và không yêu thương ông, vì tôi hiểu trong một chừng mực nào đó ông vẫn xứng đáng là một người cha tốt. Ở một miền quê nghèo như quê tôi, người dân chỉ quanh năm đầu tắt mặt tối lo kiếm tiền sống qua ngày nên người ta không quan tâm nhiều tới việc cho con cái học hành.

     

    Nhưng gia đình tôi, và nhất là ông thì khác, những lúc tỉnh táo, ông luôn bảo tôi “liệu liệu mà học hành”, những khi say, ông có thể đập phá đồ đạc trong nhà nhưng chưa bao giờ ông đụng tới bàn học của tôi. Ký ức về ông trong tôi sâu đậm nhất là khi tôi được chọn vào đội tuyển học sinh giỏi Văn của huyện, ông hứa sẽ thưởng cho tôi một món quà.

     

    Chiều hôm đó, ông đèo tôi sang thị trấn huyện trên chiếc xe đạp cũ kỹ kêu kẽo kẹt khắp đường làng, tôi cứ nghĩ ông sẽ đi mua cho tôi một cái áo hay cái hộp bút nhưng không, ông đã đưa tôi sang bưu điện huyện, và đặt cho tôi một quý báo Thiếu niên tiền phong. Tôi sung sướng tới nghẹt thở.

     

    Năm học lớp 8, tôi bắt đầu biết tới thi đại học, bắt đầu biết niềm yêu thích và sở trường của mình là văn chương và bắt đầu biết mơ ước, tôi ước trở thành một nhà báo. Từ đó, tôi nuôi lớn ước mơ của mình bằng việc chăm chỉ học hành dù những cơn say của ông nhiều khi làm tôi khóc tới ướt cả trang sách.

     

    Năm lên cấp 3, tôi không theo đuổi ước mơ ban đầu là trở thành một nhà báo mà muốn thành một luật sư, chỉ một lý do đơn giản, tôi thích sự công bằng. Tôi thích cái cảm giác đứng trước tòa bảo vệ cho thân chủ thoát khỏi vòng lao lý, trường đại học Luật là đích đến của tôi.

    Tôi muốn thành luật sư vì tôi thích sự công bằng. Ảnh: ST

     

    Tôi thể hiện quyết tâm của mình bằng việc viết lên một tờ giấy nhỏ dòng chữ “Quyết tâm đỗ đại học”, rồi dán lên chiếc ống cắm bút đã hoen gỉ trước bàn học và bắt đầu việc thực hiện ước mơ của mình với việc cần mẫn học hành, dù gần như ngày nào nhà tôi cũng vang lên tiếng chửi mắng, đập phá của ông.

     

    Những khi ông làm dữ quá, không thể học được, tôi cố gắng bịt tai nhắm mắt ngủ, khi ông đi ngủ, tôi lại rón rén dậy thắp đèn học bài. Có đêm mùa đông rét mướt, tôi vẫn cố gắng chui ra khỏi chăn để dậy học bởi tôi nghĩ: “Nếu bây giờ không dậy học, tôi sẽ không thể thi đỗ, không thể thực hiện được ước mơ của mình, sẽ thua kém bạn bè”.

     

    Sau khi thi tốt nghiệp, mẹ và các bác hàng xóm bảo tôi nên lên thành phố để ôn, vừa vào học ở lò luyện thi, vừa tránh ông, vì ông say xỉn tối ngày như thế thì làm sao yên tĩnh mà tập trung học hành được. Nhưng hơn ai hết, tôi hiểu gia đình tôi chẳng khá giả gì để dễ dàng lo cho tôi một khoản tiền lên thành phố ôn thi.

     

    Tôi cũng chẳng muốn để mẹ một mình ở nhà với những cơn say của ông, ai sẽ là người đuổi theo căn ngăn ông đuổi đánh mẹ quanh làng? Tôi quyết định ở nhà ôn thi đại học. Trong khi bạn bè đang được cha mẹ toàn tâm toàn ý lo lắng cho việc ôn thi thì cha tôi vẫn là những ngày say triền miên.

     

    Niềm an ủi của tôi chỉ là những miếng đậu phụ rán, những miếng cá kho ăn với cơm nguội mẹ để phần tôi ăn khi học đêm. Tôi vẫn không quên được những khi vừa ngồi học từng trang Sử, Địa vừa phải bịt tai đến tê buốt cả hai ngón tay trỏ, cố gắng không để những tiếng chửi của ông lọt vào.

     

    Những nỗ lực của tôi đã được đền đáp. Một buổi trưa, khi tôi đang giã cua chuẩn bị cho bữa trưa thì tiếng điện thoại reo, từ bên kia đầu dây, tôi nghe rõ tiếng thở gấp gáp của đứa bạn thân: “Mày đỗ rồi nhá, 23,5 điểm, Văn được 9 cơ nhá”.

     

    Tôi còn chưa kịp định thần là thực hay mơ thì cha tôi về, ngay khi nhìn thấy bước đi liêu xiêu của ông ngoài cổng, tôi vội vàng nói: “Bố ơi, con đỗ rồi”. Đôi mắt đục của ông sáng lên kỳ lạ, ông đưa tay bắt tay tôi: “Chúc mừng, chúc mừng con”. Lúc ấy, tôi bỗng quên mất rằng ông đang say.

     

    Tôi là người đầu tiên của làng quê nghèo khó ấy đỗ đại học, lại là trường Luật và đỗ với một số điểm rất cao, tôi trở thành cái tên được nhắc tới nhiều nhất trong những câu chuyện của dân làng trong xóm. Tôi hạnh phúc khi làm được điều khiến ông mẹ tôi tự hào, hãnh diện, nhất là khi người ta vốn đã quen nhìn gia đình tôi với ánh mắt coi thường bởi có người chồng, người cha là Chí Phèo của làng.

     

    Nhưng sau niềm vui ngắn ngủi, gia đình tôi lại phải đối mặt với nỗi lo nuôi tôi ăn học trong suốt 4 năm. Tôi biết, đó là gánh nặng với cha mẹ, những người chỉ biết sống dựa vào đồng ruộng. Trong cơn say, ông vẫn nói với giọng đầy tức tối: “Bọn nó đang bảo là ông say xỉn suốt ngày như thế thì làm sao nuôi được con đại học”.

     

    Hàng tháng, cha mẹ gửi cho tôi 800 nghìn đồng từ tiền bán lúa, bán lợn con, bán rau và cả vay mượn hàng xóm, số tiền ấy chỉ đủ tôi trả tiền nhà và tiền ăn nhưng chưa bao giờ tôi xin thêm. Để có thêm thu nhập trang trải cho hàng trăm khoản khác, tôi đi làm thêm, ban đầu là dạy gia sư, rồi phát tờ rơi, phụ ở quán cơm, viết báo và giờ là giúp việc ở công ty luật.

     

    Nhiều khi gọi điện về nhà, giọng lè nhè của ông trong điện thoại khiến tôi không khỏi ngao ngán, nhưng vẫn thấy nghẹn trong cổ họng khi ông hỏi: “Có còn tiền tiêu không?”. Năm nay tôi bước sang năm cuối của trường Luật Hà Nội, ông vẫn uống rượu và vẫn say triền miên, dù ông đã già và yếu đi nhiều, thời gian dài uống rượu đã phá hoại nhiều bộ phận trong cơ thể của ông.

     

    Hơn nữa, ông còn mắc thêm chứng bệnh loạn thần do dùng rượu. Người khổ nhất vẫn là mẹ, hơn nửa cuộc đời bà trải dài theo những trận chửi mắng, đánh đập của ông. Và giờ đây, khi ở tuổi gần 60, bà vẫn bị những cơn ghen tuông từ bệnh hoang tưởng của ông hành hạ. Những ngày về quê nghỉ hiếm hoi, ông vẫn không tỉnh táo để bữa cơm của cả nhà được ngon miệng dù mẹ vẫn nói ông mong tôi về từng ngày.

     

    Tôi xót xa chứng kiến những trận đay nghiến của ông dành cho mẹ với những câu mắng chửi thậm tệ từ một chuyện xấu xa nào đó về mẹ mà ông tưởng tượng ra. Nhiều khi nhìn mẹ ngồi trong bếp rơm rớm nước mắt nhưng vẫn an ủi tôi rằng: “Kệ ông, rượu nó chửi đấy mà”, tôi thương mẹ vô cùng. Nhiều khi thấy không thể chịu đựng nổi những câu chửi của ông, tôi vùng chạy ra ngoài, khóc nức nở, tôi thấy căm thù rượu đã biến ông trở thành con người như thế.

     

    Sau những ngày nghỉ ở quê, khi lên Hà Nội học tôi càng có nhiều quyết tâm hơn. Tôi vẫn cố gắng chăm chỉ học hành để hoàn thành năm cuối với kết quả tốt nhất, và cần mẫn làm việc không công cho nhiều văn phòng luật sư.

     

    Dù rất vất vả với khối lượng công việc luôn khiến đầu tôi nổ tung, dù nhiều khi còn chịu ấm ức khi hứng chịu những trận mắng oan của sếp, dù vẫn thường bị các anh chị nhân viên trong công ty sai vặt, nhưng chưa bao giờ tôi có ý định bỏ cuộc, bởi tôi hiểu mình đang làm điều cần thiết nhất cho tương lai của mình.

     

    Những thứ mà tôi nhận được từ công việc nhiều áp lực này không phải là lương, mà chính là kinh nghiệm thực tế, là kỹ năng nghề nghiệp, những thứ mà giáo trình và thư viện không hề có. Với sự nỗ lực của bản thân, tôi luôn mong muốn có được vị trí của một nhân viên chính thức ở công ty luật danh tiếng sau khi ra trường.

     

    Giờ đây, tôi chỉ mong năm học cuối cùng qua nhanh hơn để tôi có thể đi làm, kiếm tiền và tự nuôi sống bản thân, khiến cha mẹ không phải oằn lưng kiếm từng đồng nuôi tôi ăn học. Nhưng hơn hết, tôi muốn chữa khỏi chứng bệnh loạn thần của ông, và tìm cách cai nghiện rượu cho ông.

     

    Tôi muốn đưa ông ra khỏi những cơn say, ông đã say một nửa cuộc đời rồi. Tôi muốn ông được tỉnh táo để nhận ra mẹ con tôi chưa bao giờ ghét ông, và mẹ tôi là người đàn bà tuyệt vời nhất trong cuộc đời này.

    Sưu tầm.


  25. Từ ngày nhỏ, tôi đã sớm khắc sâu trong mình thế nào là sự nghèo khổ. Tuổi thơ tôi không có những kỷ niệm êm đềm, không có những buổi chiều nô đùa, thả diều với bạn bè, chỉ có nước mắt của tôi và mẹ.

     

    Ngày đó nhà tôi nghèo lắm, nghèo nhất làng, ngôi nhà tranh vách đất còn lại duy nhất của làng. Ngôi nhà mà bố mẹ đã mất bao nhiêu đêm mới đắp xong, vì ban ngày còn phải đi làm thuê làm mướn, một căn nhà đất ấm cúng, mái ấm cho cả gia đình. Nhưng nó cũng có nhiều kỷ niệm mà đến giờ mỗi lần nghĩ lại tôi vẫn rơi nước mắt.

     

    Ngày đó, trời mưa nhà tôi lại dột như ở ngoài trời. Mỗi đêm, bố mẹ tôi phải thay phiên nhau thức để lấy thau hứng nước trên nóc nhà cho tôi được ngủ ngon. Có đêm thức dậy tôi đã trào nước mắt vì thương bố mẹ, tôi tự nhủ sẽ phải học để không phụ công lao bố mẹ tôi.

    sinh-vien-1.jpg

    Tôi đã là sinh viên đại học sau nhiều cố gắng của bản thân. Ảnh minh họa: Hoàng Hà.

     

    Những đồng tiền làm thuê cuốc mướn của bố mẹ không đủ đong gạo cho cả nhà. Tôi nhớ mỗi bữa mẹ lại nấu riêng cho tôi một nồi cơm nhỏ, còn bố mẹ thì ăn cháo, những bữa cháo của gia đình cứ phải ăn vụng trộm, như sợ có người biết.

     

    Một lần bác hàng xóm sang chơi, thấy cả nhà ăn cháo, hỏi sao không nấu cơm mà lại ăn cháo thế kia, mẹ tôi vội nói chữa là cả nhà muốn thay đổi khẩu vị nên ăn cháo một bữa cho ngon miệng. Nhưng nào có phải vậy, nhà hết gạo rồi nên phải ăn cháo, lúc đó tôi càng thương bố mẹ hơn.

     

    Không những thế, bố mẹ tôi còn khổ nhục vì những điều tiếng trong xóm làng, người ta khinh rẻ, coi thường bố mẹ tôi. Mỗi lần đi ra ngoài, bố mẹ tôi đều cúi mặt như mình có tội lỗi gì đó với dân làng. Nhiều lần tôi thấy vậy mà ứa nước mắt, bố mẹ chỉ nghèo chứ có tội tình gì đâu. Vì thế dù lúc đó mới là một cậu bé học cấp một nhưng tôi đã sớm có ý thức thế nào là sự khổ nhục vì nghèo khó.

     

    Dù nghèo khổ nhưng bố mẹ vẫn hết lòng động viên tôi cố gắng học cho giỏi. Ngày đó người dân quê tôi chưa chuộng sự học như bây giờ nhưng bố mẹ vẫn bảo “chỉ có học con mới nên người được, con mới không khổ cực như bố mẹ bây giờ nữa. Bố mẹ vất vả thế nào cũng được, chỉ mong cuộc đời con sau này sẽ đổi khác”. Câu nói ấy đã khắc sâu vào tâm khảm tôi từ thủa nhỏ và theo tôi đến tận bây giờ.

     

    Ngày đó cả tôi và bố mẹ đều chưa biết đại học là gì, chưa nghĩ đến việc học đại học. Bố mẹ chỉ biết cứ học thì mới nên người, mới thoát kiếp nghèo khổ cùng cực này được. Vậy là ban ngày tôi đi mò cua, bắt cá đem bán lấy tiền mua sách, tối về lại miệt mài học đến khuya. Bất kể khi đi chăn bò, nấu cơm, lúc nào tôi cũng mang theo một quyển sách bên mình. Có lần mải đọc sách, tôi quên không đổ nước, làm cháy hết nồi cơm, bữa đó cả nhà đành nhịn đói qua bữa.

     

    Hàng ngày tôi đến trường chỉ có một chiếc áo cộc tay với chiếc bao đựng sách. Tôi đi đôi tông của ông ngoại cho, mùa đông thì mặc chiếc áo bông đã rách bươm của ông ngoại. Lúc đầu rất nhiều đứa bạn trêu trọc tôi là con nhà nghèo rớt mồng tơi, ba đời làm ăn mày.

     

    Có lần không chịu được, tôi đã chạy một mạch về ôm lấy mẹ khóc nức nở, mẹ tôi cũng khóc. Rồi hôm sau tôi lại đến lớp, không thèm khóc nữa, tôi quyết tâm phải học giỏi hơn chúng bạn, để nó không cười mình. Học phổ thông, năm nào tôi cũng được bầu làm lớp trưởng và đạt danh hiệu học sinh giỏi, học sinh xuất sắc.

     

    Những tấm giấy khen, giấy chứng nhận học sinh giỏi của tôi cứ nhiều lên, bố mẹ nâng niu những tờ giấy đó như báu vật của đời mình. Nhưng nhà tôi không có chỗ treo, vì nếu treo trên tường thì trời mưa sẽ ướt hết. Bố bèn đem tất cả những tấm giấy khen đó gói lại cẩn thận trong bọc nylon, rồi để trong một chiếc vại sành. Bố bảo làm như vậy sẽ không bị vàng ố, đến sau này khi con lớn lên, xây được nhà mới, không dột nữa thì sẽ lấy ra treo, nó sẽ vẫn mới như bây giờ.

     

    Rồi tôi đỗ vào cấp 3 với số điểm cao nhất xã, lúc đó bố mẹ vui lắm. Ngày biết điểm mẹ đã khóc, cả làng xã đều biết đến gia đình tôi vì có đứa con học giỏi vậy. Cũng từ ngày đó, người ta không còn nhìn bố mẹ với ánh mắt khinh rẻ nữa, rất nhiều người đã đến thăm, động viên giúp đỡ tôi.

     

    Lên cấp 3, dù phải học xa nhà nhưng tôi vẫn là một cậu học sinh giỏi, vẫn nhận được giấy khen của trường, của huyện, là cậu học trò được các thầy cô yêu quý nhất lớp. Và rồi kỳ thi đại học cũng đến. Ngày tôi lên Hà Nội thi mang theo biết bao niềm tin, sự kỳ vọng của bố mẹ, ông bà ngoại.

     

    Tôi cũng rất tin tưởng vào bản thân, tin vào nghị lực và ý chí của tôi, có lẽ vì thế mà tôi đã chủ quan khi làm bài. Đề thi không khó, tôi làm xong sớm và ra khỏi phòng thi trước nhất, cả ba môn đều vậy. Ra khỏi phòng thi tôi không xem đáp án mà lên xe về quê luôn với bố.

     

    Nhưng ngày nhận kết quả thi, cả nhà tôi đã khóc. Cầm tờ giấy báo điểm mà không thể tin vào mắt mình, tôi đạp xe một mạch từ nhà lên huyện gần 10 cây số để xem lại đáp án thì mới vỡ lẽ mình làm sai quá nhiều. Lỗi tất cả là do tôi quá chủ quan, vừa đạp xe về nhà, tôi vừa khóc ròng.

     

    Tôi thương bố mẹ nhiều lắm, cứ nghĩ đến ánh mắt của bố đứng ngóng tôi trước cửa phòng thi, đến những ngày tháng khổ cực của cả gia đình tôi lại bật khóc, chỉ trách mình sao lại có thể chủ quan đến vậy. Khi biết kết quả, mẹ khóc sưng húp cả mắt còn bố chỉ uống rượu.

     

    Trong nhà lúc đó chỉ có tiếng khóc và nồng nặc mùi rượu, tôi vẫn im lặng đến tàn nhẫn, chỉ biết tự trách mình. Vậy là ước mơ đổi đời bằng việc học của tôi và cả gia đình tan vỡ trong giọt nước mắt của mẹ, trong sự trầm ngâm bên chai rượu của bố tôi. Tôi là niềm hy vọng lớn nhất của cả gia đình, vậy mà lại không làm được điều mà bố mẹ mong mỏi.

     

    Nhưng rồi chính mẹ là người đã gạt nước mắt, đưa bố ra khỏi men rượu, đưa tôi ra khỏi sự im lặng ghê sợ ấy. Mẹ đã nói quả quyết: “Con phải thi lại, mẹ tin con”, chỉ thế thôi cùng đủ làm tôi đứng dậy để làm lại tất cả rồi.

     

    Mỗi buổi mẹ lại đi cày thuê cuốc mướn cho người ta, bố vẫn đi phụ hồ, còn tôi chỉ im lặng với sự quyết tâm đến tột cùng. Nếu không phải đi mò cua, bắt ốc thì tôi rất ít ra ngoài vì tôi không muốn nhìn thấy ánh mắt thương hại của mọi người dành cho tôi với những câu hỏi làm tôi lạnh gáy: “Sao học giỏi thế mà lại không thi đậu à? Nhà mày muôn đời không thoát được kiếp ăn mày đâu, con nhà nghèo mà còn đòi học cao”.

     

    Tôi im lặng với tất cả, chỉ nung nấu quyết tâm thi đỗ đại học để bố mẹ không còn bị khinh rẻ, để cả gia đình được ngẩng mặt nhìn mọi người. Tôi vẫn không thể nào quên được mùa đông năm đó, ở làng tôi cứ vào dịp cuối năm người ta lại đốt lò gạch. Tôi và mẹ đi chở gạch thuê cho người ta, mỗi chuyến gạch được hai đến ba nghìn, cả ngày cũng được mấy chục nghìn.

     

    Hai mẹ con thường đi từ sáng sớm đến quá trưa và tối mịt mới về. Trời đã tối rồi, hai mẹ con rất đói nhưng vẫn muốn chở một chuyến gạch nữa để thêm được mấy nghìn mua bữa đậu phụ cho cả gia đình, nhưng vì đường tối, tôi không nhìn rõ đường nên cả xe gạch đã lao xuống mương nước. Mẹ tôi vừa khóc vừa xếp lại xe gạch, còn tôi chỉ nghiến chặt răng, tự nhủ rằng mình sẽ thi đỗ đại học.

     

    Rồi một năm cũng qua đi, tôi lại lên Hà Nội thi đại học, mang theo niềm tin, sự kỳ vọng của những người thân yêu cùng những năm tháng cả nhà tôi đã phải sống khổ cực trong sự nghèo khó, trong sự kỳ thị, khinh rẻ của mọi người. “Lần này con sẽ làm được bố mẹ à”, tôi đã tự hứa như vậy khi đi thi.

     

    Ngày nhận giấy báo điểm mẹ tôi lại khóc, nhưng đó là những giọt nước mắt hạnh phúc khôn tả. Tôi thi đỗ với số điểm đứng thứ ba của trường, ước mơ cả cuộc đời lam lũ của mẹ là tôi được vào đại học giờ đã thành hiện thực. Niềm vui hiện rõ trên khuôn mặt gầy gò, trong đôi mắt hốc hác của bố mẹ tôi, còn gì hạnh phúc hơn.

     

    Vậy là ước mơ đỗ đại học của tôi đã thành hiện thực, bây giờ tôi đã là cậu sinh viên năm thứ hai của một trường đại học danh tiếng trên Hà Nội. Ở dưới quê, bố mẹ vẫn phải đi làm thuê làm mướn để có tiền cho tôi ăn học. Tôi biết vẫn còn rất nhiều chông gai đón đợi phía trước nhưng tôi tin mình sẽ vượt qua được, vì có biết bao nhiêu người đang đặt niềm tin nơi tôi.

     

    Tôi sẽ cố gắng học thật giỏi để hoàn thành ước mơ “học để cuộc đời sẽ đổi khác” mà bố mẹ đã chắp cánh cho tôi từ những ngày nghèo khổ của gia đình. “Con người ta dù sống trong hoàn cảnh nào cũng phải biết ước mơ và phải luôn biết cách để biến ước mơ thành hiện thực”, đó là câu nói mà bố vẫn nhắc nhở tôi trong những ngày cơ cực. Tôi nghĩ đó chính là giá trị của cuộc sống.

     

    Sưu tầm.

Footer title

This content can be configured within your theme settings in your ACP. You can add any HTML including images, paragraphs and lists.

Footer title

This is an example of a list.

Footer title

This content can be configured within your theme settings in your ACP. You can add any HTML including images, paragraphs and lists.

Footer title

This content can be configured within your theme settings in your ACP. You can add any HTML including images, paragraphs and lists.

×
×
  • Create New...