Jump to content

Recommended Posts

VÔ ĐỀ VỀ SỰ TỒN TẠI

 

Vì cần tiếng nói phải đời đời lặng câm

Họ tống giam cái lưỡi vào ngục tối

Ngoài sân nắng bầy chim non vẫn tự tình bổi hổi

Song sắt nhà tù đâu cấm cố được tự do

 

Bởi muốn mảnh tâm hồn vĩnh viễn chỉ bụi tro

Họ đưa tấm xác thân lên giàn hỏa

Những hoa dại cứ sắc hương bên huyệt mộ

Mùi thơm này của bác ái, công bằng …

 

ĐCĐ

 

5b0e8895ec.jpeg

Chia sẻ bài viết này


Liên kết
Chia sẻ trên các trang khác

gông cùm dẫu không ngăn được dòng máu ngập tràn mơ mộng

bốn bức tường giam dẫu chẳng nhốt được ngọn gió miên man

ta vẫn cầu xin cho dòng máu nóng được lưu thông trong một thân thể thong dong

và ngọn gió miên man được thổi băng giữa núi ngàn được tràn ngập khắp biển trời thung sâu lồng lộng nắng

Chia sẻ bài viết này


Liên kết
Chia sẻ trên các trang khác

Trong số 100 bài thơ Việt Nam được bình chọn là hay nhất của thế kỷ 20, tôi nhớ nhất, và đã rươm rướm nước mắt khi đọc bài này:

 

 

BÀI THƠ CỦA MỘT NGƯỜI YÊU NƯỚC MÌNH

 

Buổi sáng tôi mặc áo đi giày ra đứng ngoài đường,

Gió thổi những bông nứa trắng bên sông

Mùi tóc khô còn thơm lúa mùa qua

Bầy chim sẻ đậu trước sân nhà

Những đứa trẻ đứng nhìn ngấp nghé

Tôi yêu đất nước này như thế

Buổi sớm mai

Bầy chim sẻ ngoài sân

Gió mát và trong

Đường đi đầy cỏ may và muộng chuộng

Tôi vẫn sống

vẫn ăn

vẫn thở

như mọi người

Đôi khi chợt nhớ một tiếng cười lạ

Một câu ca dao buồn có hoa bưởi hoa ngâu

Một vết bùn khô trên mặt đá

Không có ai chia tay

Cũng nhớ một tiếng còi tàu

Mẹ tôi thức khuya dậy sớm

Năm nay ngoài năm mươi tuổi

Chồng chết đã mười mấy năm

Thuở tôi mới đọc được i tờ

Mẹ thương tôi mẹ vẫn tảo tần

Nước sông gạo chợ

Ngày hai buổi nhà không khi nào vắng người đòi nợ,

Sống qua ngày nên phải nghiến răng

Cũng không vui nên mẹ ít khi cười

Những buổi trưa buổi tối

Ngồi một mình hay khóc

Vẫn thở dài mà không nói ra

Thương con không cha

Hẩm hiu côi cút

Tôi yêu đất nước này xót xa

Mẹ tôi mười mấy năm không lấy chồng

Thương tôi nên ở góa nuôi tôi

Những đứa bà con nhà giàu hàng ngày chửi bới

Chúng cho mẹ con tôi áo quần tiền bạc

như cho một đứa hủi

Ngày kỵ cha họ hàng thân thích không ai tới

Thắp ba cây hương

Với mấy cái bông hải đường

Mẹ tôi khóc thút thít

Cầu cha tôi phù hộ tôi nên người

Con nó còn nhỏ dại

Trí chưa khôn chân chưa vững bước đi

Tôi một mình có kể chi mưa nắng

Tôi yêu đất nước này cay đắng

Những năm dài thắp đuốc đi đêm

Quen thân rồi không ai còn nhớ tên

Dĩ vãng đè trên lưng thấm nặng

Áo mồ hôi những buổi chợ về

Đời cúi thấp

Dành từng lon gạo mốc

Từng cọng rau hột muối

Vui sao khi còn bữa đói bữa no

Mẹ thương con nên cách trở sông đò

Hàng gánh nặng phải qua cầu xuống dốc

Đêm nào mẹ cũng khóc

Đêm nào mẹ cũng khấn thầm

Mong con khôn lớn cất mặt với đời

Tôi yêu đất nước này không nguôi

Tôi yêu mẹ tôi áo rách

Chẳng khi nào biết tuổi mình bao nhiêu

Tôi bước đi

Mưa mỗi lúc mỗi to

Sao hôm nay lòng thấy chật

Như buổi sáng mùa đông chưa thấy mặt trời mọc

Con sông dài nằm nhớ những chặng rừng đi qua

Những vách đá hàng cây cheo leo bốn mùa

Nỗi mệt mỏi rưng rưng từng con nước

Chim đậu trên cành chim không hót

Khoảng vắng mùa thu ngủ trên cỏ may

Tôi yêu đất nước này những buổi mai

Không ai cười không tiếng hát trẻ con

Đất đá cỏ cây ơi

Mười ba năm có héo mòn

Đất đá cỏ cây ơi

Lòng vẫn thương mẹ nhớ cha

Ăn quán nằm cầu

Hai hàng nước mắt chảy ra

Mỗi đêm cầu trời khấn Phật, tai qua nạn khỏi

Ngày mai mua may bán đắt

Tôi yêu đất nước này áo rách

Căn nhà dột phên không ngăn nổi gió

Vẫn yêu nhau trong từng hơi thở

Lòng vẫn thương cây nhớ cội hoài

Thắp đèn đêm ngồi đợi mặt trời mai

Tôi yêu đất nước này như thế

Như yêu cây cỏ ở trong vườn

Như yêu mẹ tôi chịu khó chịu thương

Nuôi tôi thành người hôm nay

Yêu một giọng hát hay

Có bài mái đẩy thơm hoa dại

Có sáu câu vọng cổ chứa chan

Có ba ông táo thờ trong bếp

Và tuổi thơ buồn như giọt nước trong lá sen

Tôi yêu đất nước này và tôi yêu em

Thuở tóc kẹp tuổi ngoan học trò

Áo trắng và chùm hoa phượng đỏ

Trong bước chân chim sẻ

Ngồi học bài và gọi nhỏ tên tôi

Hay nói chuyện huyên thuyên

Chuyện trên trời dưới đất rất lạ

Chuyện bông hoa mọc một mình trên đá

Cứ hay cười mà không biết có người buồn

Sáng hôm nay gió lạnh vẫn còn

Khi xa nhà cứ muốn ngoái lại

Ngó cây cam cây cải

Thương mẹ già như chuối ba hương

Em chưa buồn

Vì chưa rách áo

Tôi yêu đất nước này rau cháo

Bốn ngàn năm còn cuốc bẫm cày sâu

Áo đứt nút qua cầu gió bay

Tuổi thơ em hãy giữ cho ngoan

Tôi yêu đất nước này lầm than

Mẹ đốt củi trên rừng cha làm cá ngoài biển

Ăn rau rìu rau éo rau trai

Nuôi lớn người từ ngày mở đất

Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật

Một tấc lòng cũng trứng Âu Cơ

Một tiếng nói cũng đầy hồn Thánh Gióng

Tôi đi hết một ngày

Gặp toàn người lạ

Chưa ai biết chưa ai quen

Không biết tuổi không biết tên

Cùng sống chung trên trái đất

Cùng nỗi đau chia cắt Bắc Nam

Cùng có chung tên gọi Việt Nam

Mang vết thương chảy máu ngoài tim

Cùng nhức nhối với người chết oan ức

Đấm ngực giận hờn tức tối

Cùng anh em cất cao tiếng nói

Bản tuyên ngôn mười bốn triệu người đòi Độc Lập, Tự Do

Bữa ăn nào cũng phải được no

Mùa lạnh phải có áo ấm

Được ca hát, nói cười yêu đương không ai cấm

Được thờ cúng những người mình tôn kính

Hai mươi năm cuộc đời khi nào định

Tôi trở về căn nhà nhỏ

Đèn thắp ngọn lù mù

Gió thổi trong lá cây xào xạc

Vườn đêm thêm mát

Bát canh rau dền có ớt chìa vôi

Bên hàng xóm có tiếng trẻ con khóc

Mẹ thương con ngồi cầu Ái tử

Đất nước hôm nay đã thấm hồn người

Ve sắp kêu mùa hạ

Nên không còn mấy thu

Đất nước này còn chua xót

Nên trông ngày thống nhất

Cho bên kia không gọi bên này là người miền Nam

Cho bên này không gọi bên kia là người miền Bắc

Lòng vui hôm nay không thấy chật

Tôi yêu đất nước này chân thật

Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi

Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi

Và yêu tôi đã biết làm người

Cứ trông đất nước mình thống nhất

 

TRẦN VÀNG SAO (19/12/1967)

 

và đây là chân dung tác giả

 

tranvangsao_4227846861.jpg

Chia sẻ bài viết này


Liên kết
Chia sẻ trên các trang khác

BÀI THƠ CÁI LƯỠI

 

 

Nghe Ê-dốp nói về cái lưỡi

Tôi hoảng hồn ngó lại tìm em

 

Thiên hạ sợ nhau vì cái lưỡi

Cuộc bon chen thô tục buồn phiền

 

Thỉnh thoảng tôi cũng cần cụt lưỡi

Lưỡi làm thơ đâu lại trái tim

 

Nhưng riêng em chớ bao giờ cắn lưỡi

Đừng dọa tôi kiểu chết thiếu êm đềm

 

Nghe Ê-dốp nói về cái lưỡi

Sao em còn lè lưỡi bắt tôi xem?

 

Bùi Chí Vinh

 

 

 

 

Vở kịch “Con rồng tre”

 

 

04-08-2012 23:39

 

 

Đầu những năm 20 của thế kỷ XX là khoảng thời gian Bác Hồ có nhiều hoạt động sôi nổi, phong phú ở các nước châu Âu, trong đó có nước Pháp. Tại đây, với tên gọi là Nguyễn Ái Quốc, Người đã tham gia các tổ chức xã hội có khuynh hướng tiến bộ rồi tổ chức cộng sản với hoạt động chủ yếu là tuyên truyền, vận động để đấu tranh cho một nước Việt Nam độc lập. Trong số các hình thức hoạt động, Người đã sử dụng khá nhiều báo chí, văn học để lên án chế độ hà khắc của thực dân đế quốc; sự lạc hậu, tàn độc của chế độ phong kiến; sự hèn mọn của chính phủ bù nhìn; phản ánh trung thực nỗi thống khổ của người dân thuộc địa bị áp bức, bóc lột… Theo những tư liệu còn lưu giữ, chỉ trong năm 1922, Người đã có tới 26 tác phẩm báo chí đăng trên các báo lớn ở Pháp như L’Humanité, Le Paria, La Vie Ouvrière, Le Journal du Peuple… Đặc biệt, trong khoảng tháng 5-1922, Người đã viết vở kịch “Con rồng tre” nhân dịp “ông vua bù nhìn” Khải Định sang Pháp (tháng 6-1922). Bản thảo của vở kịch hiện chưa tìm thấy, nhưng trong nhiều tài liệu hiện đang lưu giữ thì nội dung như sau: “Có những cây tre thân hình quằn quẹo. Những người chơi đồ cổ lấy về đẽo gọt thành con rồng. Nó là thứ đồ chơi. Là con rồng nhưng thật ra chỉ là một khúc tre. Là khúc tre, nhưng lại hãnh diện có tên và hình dáng con rồng. Tuy vậy, nó chỉ là một quái vật vô dụng”. Vở kịch này đã bị Chính phủ nước Pháp đương thời cấm công bố; nhưng đã được Câu lạc bộ Phô bua (Faubourg) công diễn và đã gây tác động lớn trong dư luận thời đó cũng như sau này.

 

Theo các tài liệu, trong đó có tài liệu của Mật thám Pháp thì Câu lạc bộ Phô bua được thành lập năm 1914, do nhà văn Lê ô Pôn đét (Léo Poldès), một trí thức phái tả có sáng kiến thành lập và trực tiếp làm Chủ nhiệm. Tại Pari, mỗi tuần, Câu lạc bộ họp một lần với số lượng khoảng ba trăm người tham gia để thảo luận các vấn đề về kinh tế, xã hội, chính trị… Thông thường, trong mỗi buổi sinh hoạt, một người trình bày một vấn đề có tính hướng dẫn, sau đó mọi người sẽ tự do phát biểu quan điểm của mình. Những ngày ở Pari, Nguyễn Ái Quốc thường tham dự các buổi sinh hoạt của Câu lạc bộ và đều có phát biểu ý kiến. Bất kỳ vấn đề gì mà Câu lạc bộ bàn thảo thì trong phát biểu của mình, Nguyễn Ái Quốc đều khéo léo lái về kết luận lên án thực dân. Cụ thể như trong một cuộc thảo luận về thuật “thôi miên”, sau khi nhiều người nói tin, nhiều người nói không tin, Nguyễn Ái Quốc đã phát biểu ý kiến như sau: “Tin cũng được, không tin cũng được. Nhưng tôi xin mạn phép nói thật rằng bác sĩ Cu-ê (người thạo giỏi thuật “thôi miên”) chưa giỏi bằng thực dân Pháp. Mỗi năm, với hàng nghìn tấn thuốc phiện, chúng đang làm cho hàng triệu người Việt Nam ngủ say đến nỗi quên mình là vong quốc nô”. Anh Nguyễn được mọi người hoan nghênh vì thái độ anh khiêm tốn và lời lẽ của anh gọn gàng. Một lần khác hội nghị thảo luận vấn đề Ái-nhĩ-lan và Triều Tiên. Những diễn giả Pháp đều nghiêm khắc công kích chính sách của Anh, của Nhật và bênh vực nhân dân Ái-nhĩ-lan, nhân dân Triều Tiên. Anh Nguyễn cũng phát biểu ý kiến: “Cũng là một dân tộc bị áp bức, tôi hoàn toàn đồng tình với những người bạn Ái-nhĩ-lan, nhân dân Triều Tiên, và đồng tình với hội nghị kết án bọn thực dân Anh, Nhật. Nhưng tôi hỏi các ngài có nên kết án cả những bọn thực dân khác không? Có nên bênh vực nhân dân bị áp bức khác không? Có hay không?”. Mọi người đều trả lời là có. Thế là được dịp anh Nguyễn trình bày vấn đề Việt Nam v.v... Năm 1933, có thông tin Nguyễn Ái Quốc đã bị chết trong nhà giam, Tạp chí Việt-Pháp đã đăng bài viết “Nói về Nguyễn Ái Quốc vị lãnh tụ Đảng Cộng sản” có nội dung liên quan đến hoạt động chính trị của Người tại Pháp và Câu lạc bộ Phô bua. Bài này đã được tờ Phô bua ra ngày 1-7-1933 đăng lại, có đoạn như sau: “Ông không vắng mặt một buổi họp nào ở Câu lạc bộ Faubourg, ở đây ông ta đã từng đứng lên diễn thuyết trước mọi người. Ông ta đã viết báo. Người ta thường gặp ông hồi 6 giờ chiều ở những phòng trị sự các nhà báo. Ông mang lên đây những câu chuyện ngắn hay một tập truyện vì ông từng khảo cứu về văn nghệ, sau này ông hoàn toàn thiên về chính trị và ông đã thiết tha cống hiến cả một đời để phụng sự khuynh hướng ấy”.

 

Kể về vở kịch “Con rồng tre” của Nguyễn Ái Quốc, năm 1946, nhân sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Pari với tư cách là thượng khách của Chính phủ Pháp, ông Lê ô Pôn đét đã có bài viết đăng trên tuần báo Paris, số 53, ngày 11, 12-6-1946. Nội dung như sau:

 

“Một chiều kia, cách đây chừng 25 năm, hôm ấy có phiên họp các hội viên Câu lạc bộ Faubourg tại rạp hát Printanis, ở góc đại lộ Clichy và phố Richaud, bác Nguyễn Ái Quốc đã tới đây ngập ngừng hỏi tôi xem liệu bác dù là một kẻ lao động xoàng xĩnh, có thể được hân hạnh vào góp lời trong những cuộc thảo luận của những tay tài ba lỗi lạc, đã làm rạng rỡ văn đàn Câu lạc bộ Faubourg của chúng tôi được không.

 

Tôi bèn trả lời: “Ông chớ ngại điều đó. Với quan niệm chúng tôi, thì sự tự do phát biểu ý kiến, là của tất cả mọi người. Ý kiến xác đáng, hay ho của một người, dù người ấy chỉ là một người thợ, cũng được đặc biệt chú ý như những ý kiến của một vị Quốc trưởng.

 

Bác nhún vai, mỉm cười, nói: “Podès quý ngài à, tôi chỉ là nhà cách mạng, ngài ví tôi với những vị quốc trưởng, tôi xin đưa ngài xem đây tập bản thảo của tôi. Tuy chỉ là một người thợ ảnh nghèo nàn, nhưng tôi cũng có viết được một kịch bản, nhan đề bản kịch đó là “Con rồng tre” (Le dragon de bambous) viết ra cốt là để công kích những vị Quốc trưởng”.

 

Về nội dung vở kịch, Lê ô Pôn đét đã nhận xét:

 

“Tôi đã đọc tập bản thảo, thật là hay, thật là đẹp, lời vừa trải chuốt gọn gàng, với những cái châm biếm dí dỏm của Aistophan 3 bản kịch này có đủ ưu điểm để mang lên sân khấu.

 

“Con rồng tre” đầu đề kịch bản chỉ một vị Quốc trưởng Á-Đông, đớn hèn bất lực và ngu dốt, mà tác giả không hà tiện lời chế diễu một cách cay nghiệt, hóm hỉnh suốt trong ba hồi; khi ấy bản thân ông Nguyễn Ái Quốc không ngờ rằng bản kịch của mình đã bao lần chủ kịch bản từ chối không dám diễn mà lại được nhóm Faubourg chúng tôi nhiệt liệt hoan nghênh…”.

 

Trước đó, cũng trong bài “Nói về Nguyễn Ái Quốc vị lãnh tụ Đảng Cộng sản” đăng trên Tạp chí Pháp Việt và được tờ Phô bua ngày 1-7-1933 đăng lại đã viết về Nguyễn Ái Quốc và vở kịch “Con rồng tre” như sau: “Người ta lại nhớ đến những cuộc họp ở Câu lạc bộ Faubourg, đến những lời nói thông minh hóm hỉnh trong buổi họp, đến bản kịch bất hủ của ông: “Con rồng tre”.

 

Trở lại nội dung bài viết đăng trên tuần báo Paris số 53, Lê ô Pôn đét đã rất hóm hỉnh viết rằng: “Ngày nay người thợ ảnh mày râu nhẵn nhụi kia đã sống lại giữa khuôn mặt đáng kính có thêm một nhúm râu dài của Cụ Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”và “Chúng tôi thiết tha mong đức ngài nhớ lại cái hồi đầu tiên của đức ngài trong Câu lạc bộ Faubourg”.

 

Bác Hồ vĩ đại và kính yêu của chúng ta là người sống có nghĩa, có tình, có trước, có sau… Vì thế, dù phải bôn ba trên những nẻo đường cách mạng, dù ở cương vị nào… nhưng Người cũng không quên những ngày hoạt động và những người cùng chí hướng ở Pari. Trong thời gian ở thăm nước Pháp năm 1946, ngoài chương trình làm việc chính thức, gặp gỡ với Chính phủ Cộng hòa Pháp, Người dành nhiều thời gian tiếp xúc, gặp gỡ kiều bào, các nhà văn, nhà báo, bạn bè cũ trong đó có nhà văn Lê ô Pôn đét. Sau này, nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Câu lạc bộ Phô bua, ngày 1-5-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng ông Lê ô Pôn đét Huy chương Hữu nghị của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

 

90 năm đã trôi qua, nhưng sự ngưỡng mộ của những chính trị gia Pháp đối với hoạt động chính trị của Nguyễn Ái Quốc tại Pari mà ấn tượng sâu sắc là những gì liên quan tới vở kịch “Con rồng tre” đã khẳng định tư tưởng, tấm gương, đạo đức, phong cách của Người thật văn hóa và lớn lao để chúng ta tiếp tục tìm hiểu, học tập, làm theo.

 

Theo (baodaknong.org.vn) Thịnh Giang

 

 

 

Nhà Nguyễn

 

Nguyễn Thông (9.8.2012)

 

Tôi vừa có chuyến ra miền Trung, cụ thể là đến Huế - kinh thành kinh đô của nhà Nguyễn. Mắt thấy tai nghe, vỡ vạc nhiều điều. Có những cái không như mình tưởng, mình nghĩ xưa nay. Điều quan trọng là thấy được những gì ghi dấu sự tồn tại của một triều đình phong kiến trong một giai đoạn lịch sử, nghe về công tích những vị vua có không ít đóng góp cho đất nước, dân tộc, nhất là sự mở mang bờ cõi.

 

Thế hệ chúng tôi ở miền Bắc nay nhiều người đã U60, U70, được dạy dỗ trong nhà trường, đọc báo nghe đài, chỉ biết rằng nhà Nguyễn là triều đại phong kiến cực kỳ phản động, hại dân hại nước. Các vua nhà Nguyễn, kể từ Gia Long đến Bảo Đại về sau này đều là những kẻ thù của nhân dân. Nhà Nguyễn không có lý do chính đáng để tồn tại khách quan trong lịch sử Mác-xít.

 

Về nhà Nguyễn, theo tôi, cần phải có nhiều công trình nghiên cứu, không chỉ trên phương diện sử học, một cách công phu hơn, định công luận tội rõ ràng, khách quan. Và điều cốt yếu phải xem như một nhà nước chính thống, chính danh tồn tại trong lịch sử dân tộc. Đừng như hồi nảo hồi nào, một mặt ca ngợi bốc tận mây xanh Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ (thực chất cũng chỉ là một thủ lĩnh nông dân, nổi dậy và hình thành một tập đoàn phong kiến, xây dựng nhà nước phong kiến, triều đại phong kiến), còn Gia Long Nguyễn Ánh thì phải gánh vác danh hiệu "cõng rắn cắn gà nhà" khiến hậu sinh hết đời này đến đời khác phỉ nhổ. Như thế không công bằng, không khách quan, không phải lịch sử chân thực.

 

Nay chúng ta đang đấu tranh với Trung Quốc từng giây từng phút về chủ quyền biển đảo, lãnh thổ. Điều muốn nói là hầu hết tư liệu, chứng cứ lịch sử có liên quan đến chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa lại có xuất xứ thời nhà Nguyễn. Nhà nước và các nhà nghiên cứu đã khai thác, sử dụng triệt để, coi đó như thứ vũ khí cực kỳ lợi hại. Nhưng người chủ của nó thì chưa được nhìn nhận, đánh giá lại nghiêm túc, đàng hoàng. Đây chính là lúc cần chiêu tuyết cho các vị vua Nguyễn, khôi phục vị trí, xem xét công tích với đất nước của họ. Đừng làm theo kiểu ù xọe, cho qua, để thời gian vùi lấp dần là xong như các vụ Cải cách ruộng đất, Nhân văn giai phẩm, Xét lại chống đối... trước kia. Trước hết cần viết lại sách giáo khoa lịch sử cho khách quan, chân thực, bỏ thói quy chụp, chụp mũ, bôi nhọ, yêu khen ghét chê đi. Không dám sửa sai chân thành, nếu đạt được chút lợi lộc nào thì cũng chỉ cỏn con mà thôi, làm sao bền vững được.

 

DSC02563.JPG

 

 

Lăng vua Khải Định, người một thời bị đánh giá là con rồng tre

Chia sẻ bài viết này


Liên kết
Chia sẻ trên các trang khác

MỘ KHÚC CUỐI HẠ

 

cho ta nghe nặng trái sầu rụng rơi …

(Huy Cận)

 

chiều sắp vương phố sắp buông

ta, hình như đã, bị thương mấy lần

từ khi chân vấp bước chân

khi người tận đáy mộ phần cỏ nguôi

 

chiều đang rung chuông đang thôi

lá lay chưa kịp phủ đồi ngày hoang

tím bông trinh nữ xếp hàng

ta chim nhớn nhác bên đàng khản kêu

 

chiều đã thề em đã yêu

dâng hương bạch lạp diễm kiều với trăng

tại đam mê tại ta chăng

tóc xanh trả hết một lần thả xuôi

 

chiều sẽ thu tình sẽ thôi

van xin đất ấm cũng nơi ta về

gửi vào một giấc thường nghê

trái tim chín rụng

bên lề bữa qua …

 

ĐCĐ

 

Image.aspx?id=63610&ts=150&ty=0&lm=634743074437300000

Chia sẻ bài viết này


Liên kết
Chia sẻ trên các trang khác

KHÔNG ĐỀ HAI KHỔ

 

Đã quên cách gieo trồng những hạt kê ngọt ngào

Kịp đem tặng tiếng sẻ non chiếp chiu trên mái ngói

Chẳng còn đủ hào phóng nhẹ đặt tờ bạc lẻ nát nhầu

Vào lòng bàn tay người đàn bà ăn mày ôm đứa con hấp hối

Tôi viết bài thơ rỗng thuyết minh cho sự linh thiêng của các mùi hương

 

Niềm ăn năn không là mỡ màu thấm đẫm

Nuôi sống linh hồn lũ chim chết oan

Nỗi buồn thương chẳng vượt nỗi lòng kiêu hãnh

Để dìu bà mẹ mù lòa đi trọn lễ đưa tang

Tôi ngồi viết bài thơ tự an ủi một mùa hè mà trái tim trống vắng

 

ĐCĐ

 

beggar.jpg?w=250

Chia sẻ bài viết này


Liên kết
Chia sẻ trên các trang khác

BẾN NGÀN THƯƠNG

 

Vốn phố thị mà tâm tình anh gửi núi

Lại mơ mòng thèm ở lỗ ăn lông

Buổi cởi trần guốc hươu nai chạy nhảy

Đêm rằm hoang nằm nhơi bóng trăng vồng

 

Anh sống sót chỉ nhờ nhiều hoa bướm

Thuở thơ tình mướt rượt khói cùng sương

Lỡ man rợ nuốt nỗi buồn hơi hướm

Khi bầy đàn lũ lượt bỏ đồi nương

 

Vốn phố thị tâm hồn anh điền dã

Giấu trái tim dưới cuốc bẫm cày sâu

Sợ mai hậu không còn lau lách nữa

E chẳng ai nhớ nỗi lý qua cầu

 

Anh nâu đất giống y chang cha mẹ

Khom lưng trưa cắm mầm lúa trên đồng

Bờ đê tròn cổ tích như đám trẻ

Bông bí non ghé rẫy dặn ăn còng

 

Nên anh nhớ tóc xưa rơm rạ ngủ

Tiếng ‘đò ơi’ trôi dọc suốt dòng sông

Mạo muội hỏi lục bình bông tím đó

Bến ngàn thương về kịp chuyến này không?

 

ĐCĐ

 

1316244483_images.jpg

Chia sẻ bài viết này


Liên kết
Chia sẻ trên các trang khác

BÀI THƠ ĐẦU TUẦN THAY CHO LỜI NGUYỆN

 

Những trang kinh tôi đọc

Trích ra từ vô vàn mẩu chuyện đời

Của áp bức, chà đạp

 

Lời nguyện cầu tôi chép bằng sự thật

Khi thốt lên từ những đôi môi khô nứt bởi lặng câm

Quên tự do chôn dưới âm thầm

 

Ngôi giáo đường duy nhất mà tôi

Cùng người bạn bụi đời nương thân tạm bợ

Vẫn là mỗi vỉa hè, xó chợ

 

Hình ảnh thượng đế độc tôn tôi hằng ngưỡng mộ

Giấu trong nét ái nhân trên mỗi mặt người

Trong tiếng cười thương tâm, trong giọt lệ rơi

 

Này, bài thơ tình vĩnh viễn của tôi ơi

Phải chăng chính con đường em và tôi chung bước

Câu kết vần đớn đau đón chờ phía trước

Cuộc hành trình thi ca nhận lại trái tim …

 

ĐCĐ

 

h0622807799.jpg

Chia sẻ bài viết này


Liên kết
Chia sẻ trên các trang khác

NIỆM KHÚC YÊU EM

 

Con ve nhỏ buông mình

Trả tấu khúc mùa hạ vào lòng đất

Nhường nơi khu vườn thu vàng ươm mật

Vì yêu em, anh về nhận diện xác ve rơi

 

Đứa bé chưa kịp chào đời

Tiếng oe oe bị tiêu diệt vẫn khi trứng nước

Nếu đó là mầm sinh linh cuối cùng nhận lấy đớn đau hòng mọi khuất oan chấm dứt

Vì yêu em, anh nguyện lại đầu thai

 

Chiếc bẫy nhẫn tâm nghiến nát vết chân loài hươu thơ ngây

Con thú tử thương những cây rừng trăn trối

Nếu đó chính là lần đổ máu huy hoàng tố cáo trò chơi bạo tàn vô lối

Vì yêu em, anh kêu lên lời tha thứ con người

 

Người lính trẻ ngước nhìn bầu trời

Chỉ vài giây thôi – chỉ vài giây trái tim rồi ngưng đập

Nếu đó là sự ra đi cần thiết để xóa sạch các mưu đồ tranh chấp

Vì yêu em, anh ăn hết cuộc chiến tranh này

 

ĐCĐ

 

truongsa_1.jpg

Chia sẻ bài viết này


Liên kết
Chia sẻ trên các trang khác

HAI NGƯỜI

 

Khi tôi chập chững những bước đầu tiên

Có hai người luôn rón rén sau tôi

Trông chừng sợ tuổi thơ vấp ngã

 

Lúc tôi qua rồi thời ấu niên dế diều hoa cỏ

Hai người ấy đi trước dẫn đường

Vạch sẵn lối thẳng, cong, phải, trái …

 

Và khi mắt tôi bắt đầu đắm nhìn chân trời xa ngái

Hai người lại sóng vai cùng tôi

Chia sẻ tấm tình bạn bè thân thiết

 

Chỉ duy nhất một điều tôi mơ hồ vờ như chẳng biết

Một nơi mà hai người ấy sẽ đến đích trước tôi

Vào ngày trần gian này thêm kẻ mồ côi …

 

ĐCĐ

 

me.jpg

Chia sẻ bài viết này


Liên kết
Chia sẻ trên các trang khác

Join the conversation

You can post now and register later. If you have an account, sign in now to post with your account.

Khách
Trả lời chủ đề này...

×   Bạn vừa dán nội dung có định dạng.   Paste as plain text instead

  Only 75 emoji are allowed.

×   Your link has been automatically embedded.   Display as a link instead

×   Your previous content has been restored.   Clear editor

×   You cannot paste images directly. Upload or insert images from URL.

Đang xử lí...

Footer title

This content can be configured within your theme settings in your ACP. You can add any HTML including images, paragraphs and lists.

Footer title

This is an example of a list.

Footer title

This content can be configured within your theme settings in your ACP. You can add any HTML including images, paragraphs and lists.

Footer title

This content can be configured within your theme settings in your ACP. You can add any HTML including images, paragraphs and lists.

×
×
  • Create New...