Thơ "Gặp lại tuổi 20" - Bài viết, phê bình
CÕI LÒNG NGƯỜI LÍNH
Bài viết của nhà văn. Nguyễn Quang Hà (nguyên TBT Tạp chí Sông Hương)
nhân đọc tập thơ “Gặp lại tuổi hai mươi“ của Kiều Anh Hương.
Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện“ có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp:
“Những lo toan năm tháng đời thường
Như tấm áo chật choàng lên khát vọng ..”
Những người sống được chăng hay chớ, sống “nước chảy bèo trôi..” không thể có được tâm trạng dằn vặt cho “khát vọng” của mình đến vậy. Tôi gấp sách lại, đoán xem đường đi của tác giả trong tập thơ này..?
Anh vốn là một người đã có ít thơ đăng trên tạp chí Sông Hương của Huế chúng tôi, nhưng chưa có một câu tâm trạng nào viết thành thơ hay thế.
Mở sách đọc tiếp, bài “Cao thấp”, vẫn tâm trạng thăm thẳm ấy:
“... Bây giờ
Chúng mình lớn lên
Những trang đời
úp mở...
Những đồng tiền
sấp ngửa
Đỏ den...”
Tôi có cảm giác bão tố đang cuộn cuộn dâng trong Kiều Anh Hương.
Đến bài thứ ba “Tặng em gái Ngọc Hà“ :
“Bài thơ nào viết cho Mẹ và Em
Lời chân thật, bỗng trở thành xa lạ
Cuộc sống mới cứ ù à, ù ập...”
Lắng lại phút chốc, tôi bỗng nhận ra đây là con người cần thiết của cuộc đời này, của hôm nay, của cuộc sống đầy biến động vây quanh chúng ta từng ngày. Người không có trách nhiệm với cuộc sống có kẻ thì than thở, có kẻ thì quay mặt, có kẻ phát khùng chửi bới, cũng có kẻ dám đối mặt bằng chính thơ mình.
Khi biết Kiều Anh Hương vốn là người lính trận mạc đã đánh Mỹ ở A-Lưới, Tà-Cơn, Động-Tranh và ngay cả ở Huế nữa thì tôi yên lòng. Chỉ có người lính thực thụ, đã dám sống xả thân, sống cho một khát vọng, bây giờ đứng trước những thời vận “đỏ-đen“ mới vật vã mình đến vậy.
Tôi gỡ rối bằng cách lần tìm đầu mối của Kiều Anh Hương, rất may tôi đã gặp. Anh đã giải thích cái lẽ cầm súng của mình :
”Tháng giêng, tháng hai
Cái mủng rách, mẹ mòn tay
Qua nhà người mượn vay, cầm cố
Em đói ăn khóc lả trên nôi
Cha thì lo ngược rừng
Kiếm củi kịp về chợ chiều đổi sắn..”
(Đất Làng)
Sự cơ cực là điểm xuất phát vùng lên của dân tộc này. Phải thấm nỗi đau, nỗi nhục hai triệu rưỡi người chết đói năm 1945 mới hiểu nỗi khát khao “độc lập”. Thế hệ đàn anh của chúng tôi cũng lên đường cùng một cảnh ngộ : “Quê hương anh nước mặn đồng chua. Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá“ chỉ có cách giải thích ấy mới hiểu được cội nguồn cái lẽ : “Kẻ thù buộc ta ôm cây súng“, vì “ta yêu sao làng quê non nước này“.. Cái quê hương của những người cầm súng chúng tôi có một tên gọi đầy hãnh diện : “Việt Nam“. Điều đó cũng lý giải được vì sao khi chúng tôi đi trong hàng ngũ cách mạng thì coi cái chết nhẹ như lông hồng.
Những người không cùng thời khó hiểu được “Ngày hội của cách mạng“ là như thế nào và Kiều Anh Hương đã nói rất đúng tâm trạng của chúng tôi, thế hệ chúng tôi thời ấy, thời khát vọng tự do đã gặp được chân lý :
“Họ đã sống một thời sáng choang quả cảm
Không sợ đói nghèo
Chỉ sợ không được đi đánh giặc“..
(Nhớ một thời)
Đội ngũ những người lính đúng là “người ngươi, lớp lớp“, dù hoàn cảnh nào, dáng đi của họ vẫn hiên ngang.
“Quãng đời vai quàng súng
Chân dép lốp lội rừng
Lưng cõng đầy gió núi..”
(Thấy lại tuổi hai mươi)
Đó là một dòng thác hăm hở, dòng thác xuyên rừng, băng qua mọi gian lao :
“Mồ hôi đẫm ướt ba lô
Súng quàng vai, lá nhấp nhô điệp trùng..”
(Ở rừng)
Song nói tới người lính là phải nói tới súng đạn. Chính ở chỗ đó mới là nơi đích thực thử thách khát vọng của mình, mới là nơi đủ chứng cứ để nói rằng đâu là “dạ sắt, gan vàng”. Kiều Anh Hương tả “Cái hầm trên đèo“ của mình trong tư thế của người lính ấy:
“Sáng sáng, mưa bom
Chiều chiều, bão đạn
Đêm đêm, pháo sáng
Hầm vẫn bám đường..”
Và rồi ở chốt “Tà Lương” chỉ cách Huế chừng ba chục cây số... thao thức chờ từng đợt bom thù dội trên đầu, không biết liệu mình có sống qua được sau trận bom tiếp theo.
“ Tà Lương, một ngày không tính bằng một ngày
Chỉ được tính bằng những lần đang thức
Bom B.52 không chia thành khoảng cách “...
Có chờ bom B.52 trong đêm mới hiểu mỗi giây trôi qua nặng nề đến thế nào! Nhân cách người lính là ở chỗ đó, dám đối mặt với bom đạn, nói cách khác là không sợ chết - Tức là dũng cảm! Người Quảng Trị đã tổng kết : Mỗi người dân Vĩnh Linh chịu bình quân 7 tấn bom trên đầu. Chiến trường Huế cũng không thua gì chiến trường Quảng Trị đâu. Nghiệt ngã vô cùng. Không chỉ bom đạn nghiệt ngã, mà cả miếng ăn cũng nghiệt ngã. Có lá thư của anh em viết ra, suốt bảy ngày không có cơm để dán phong bì. Có người chết vì đói quá, ăn phải quả độc. Phải ở chiến trường miền Nam những năm đánh Mỹ mới hiểu thế nào là bom đạn, đói khát. Có lúc trong mặt trận Thừa Thiên, nơi mà Kiều Anh Hương đã sống, chúng tôi đã tâm sự thật với nhau rằng : nếu ai sống ba năm, kiểu sống của người lính chúng tôi ở đất Thừa Thiên đói cơm, đói đạn nhường ấy đã xứng đáng là anh hùng rồi. Sống kề bên cái chết như thế, súng đạn dạy con người ta lòng nhân ái. Những kỷ niệm năm tháng nặng lòng đã cho Kiều Anh Hương những tứ thơ thật hay :
“Chỉ có trái tim bè bạn
Mới nhận ra nhau
Giữa cuộc đời thường..”
(Cao thấp)
Tôi tin rằng người lính, vâng người lính, đã trả giá cuộc đời bằng máu xương mình nên họ bao giờ cũng nhân ái. Tôi rất đồng ý với Kiều Anh Hương khi anh nói :
“Tấm màn lính quây tròn kỷ niệm
Vẫn phồng căng hơi thở bốn phương trời “
(Đêm ký túc xá)
Tôi dám nói vậy, vì tôi đã đọc ở đâu câu thơ này : “Từ khi gắn ngôi sao vàng trên mũ, ta đã là con của vạn nhà“. Chính người chiến sĩ Việt Nam là người có hạnh phúc nhất, vì đi đến đâu họ cũng có “Người Mẹ”. Bất cứ người mẹ Việt Nam nào cũng gọi các anh bộ đội là “Con”. Có chuyện thật này : anh bộ đội trong hầm bí mật. Mỹ – Ngụy tới, bắt mẹ tra khảo. Chúng lấy tôn quấn quanh Mẹ, dùng rơm đốt nóng dần, nóng dần. Mẹ vẫn không khai. Cuối cùng Mẹ chết. Người lính lên hầm, mở tôn ra, da thịt Mẹ dính vào tôn. Anh bất giác oà khóc và gọi : “Mẹ ơi !”.
Không có tình cảm ấy, Kiều Anh Hương không thể có được những câu nghĩ về bạn bè mình sâu nặng đến thế, dù lúc đó anh đã ngồi trên ghế trường Đại học :
“Biết giờ này bạn ở nơi nào
Rừng biên giới hay sóng xô hải đảo
Mảnh trăng cuối tuần còn bên sườn núi
Cánh võng phập phồng... giấc ngủ có tròn không ?”
(Đêm ký túc xá)
Kiều Anh Hương gắn bó lòng mình với đồng đội như thế đấy. Và phải thật là người lính anh mới nhìn Tổ Quốc mình một cách hết sức rạch ròi. Đau đấy, có lúc thật đau, nhưng bình tĩnh. Chả thế mà chỉ trong một bài thơ, hai khổ thơ để cạnh nhau, anh đã thấy Tổ Quốc mình dáng vươn vai đứng dậy hào hùng, dẫu mới 25 năm.
“ Tấm huân chương
năm một chín bảy lăm
Không đổi được áo cơm cho con thời hậu chiến...
.....
Năm 2000 đến thật rồi kia
Con chợt thấy trên ngực cha lấp lánh
Tấm huân chương cuộc đời
Được tô lại bằng mồ hôi, nước mắt
Bằng trái tim kiêu hãnh làm người ..”
(Tấm huân chương cuộc đời )
Tôi hiểu hình tượng “Cha“ trong thơ Kiều Anh Hương là Tổ Quốc. Vậy Tổ Quốc chúng ta kiêu hãnh làm sao. Đọc ba câu đầu, tôi giật mình. Đọc tiếp năm câu sau, tôi trút một hơi thở dài khoan khoái, như trút được một gánh nặng.
Kiều Anh Hương rất giản dị giải thích những trạng thái tâm hồn mình, có lý, có tình:
“Một chút hương hoa thôi
Cũng thoảng thầm bao thương nhớ“.
Đọc thơ Hương, quả thật tôi như được sống lại tuổi hai mươi của đời mình. Chúng tôi được sống đến hôm nay đã là may lắm. Đại đội tôi 155 đứa, bây giờ chỉ còn 39 đứa đây. Càng thương nhớ bạn càng hiểu cuộc đời. Sự cảm thông ấy giúp tôi gặp Hương ở cái mối hàn nối hiện tại bây giờ với quá khứ ngày xưa :
“Tôi thắp lên thơ tôi một nén trầm
Để nhớ về bao đồng đội “
Thơ Kiều Anh Hương là một tấm lòng người lính Trị Thiên.
Huế, ngày 22/12/2001
N.Q.H
2 Bình luận
Recommended Comments