Jump to content

ThanhTracNguyenVan

Thành viên
  • Số bài viết

    579
  • Gia nhập

  • Đăng nhập

  • Nổi bật trong ngày

    2

Mọi thứ được đăng bởi ThanhTracNguyenVan

  1. Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0027: Yêu và xa Một người tiễn một người đi Một vầng trăng lệ chia ly một người. Xa xôi cũng đã xa rồi Xa lòng, xa mặt sao lời cũng xa? Lá vàng vàng nát phong ba Mùa xuân về lại, người xa không về. Cầm tay còn nửa câu thề Nửa lang thang nhớ, nửa lê thê buồn. Chưa thương chớ nói lời thương Chưa xa chớ để đôi đường chia xa. Cô đơn gió lạnh gian nhà Nhai cơm cơm hẩm, nhắp trà trà thiu. Trăm lần vẫn nói không yêu Một lần xa vắng trăm chiều ngẩn ngơ. Câu yêu nông nổi dại khờ Câu xa lặn hụp bến bờ thương đau. Lá trầu chẳng thắm duyên cau Xuống đò đò đắm, qua cầu cầu trôi. Đã yêu yêu chỉ một lời Chẳng yêu dẫu sống trọn đời: không yêu! (Tập thơ Hạ Nhớ – NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999) Thanh Trắc Nguyễn Văn
  2. Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0026: Chiếc nhẫn thần Đã có lần em gọi nhẫn Và xoay Giữa đêm đông lạnh lẽo Anh vẫn hiện đến bên em Kể em nghe chuyện cô bé Lọ Lem Chuyện hoàng tử, bảy chú lùn và nàng Bạch Tuyết. Đã có lần em gọi nhẫn Và xoay Trên sa mạc chói chang cát bỏng Anh vẫn hiện đến bên em Dịu dàng trao ly kem Trao em niềm tin yêu và vị ngọt. Đã có lần em gọi nhẫn Và xoay Trong bụi mù bão táp Anh vẫn hiện đến bên em Lau khô từng giọt lệ ướt lem Khoác áo ấm lên đôi vai gầy lạnh buốt. Rồi một lần em gọi nhẫn Và xoay Cùng đám bạn hú gào diễu cợt Em chợt bàng hoàng thảng thốt Chiếc nhẫn trên tay đã vỡ vụn Gãy lìa… (Tập thơ Hạ Nhớ – NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999) Thanh Trắc Nguyễn Văn
  3. Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0025: Tiên nữ về trời Trách ta sao quá vô tình Bao năm tiên ở với mình không hay Xuôi thuyền đi khắp đông tây Tìm bao hư ảo để nay ngỡ ngàng. Mải mơ bóng nguyệt lầu vàng Tỉnh ra thì đã lỡ làng còn đâu Uổng câu tát biển mò châu Sợi tơ bỏ lạnh rơi sầu đáy sông. Bao năm kinh sử nằm lòng Sao không nhớ hiểu cành hồng ai trao? Mắt tường biển rộng trời cao Lại không nhìn thấy nụ đào trên cây! Để giờ gió lạnh chân mây Nàng tiên nữ ấy đã bay về trời Sông xưa bên lở bên bồi Bao nhiêu mộng cũ tan rồi em ơi! (Tập thơ Hạ Nhớ – NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999) Thanh Trắc Nguyễn Văn
  4. Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0024: Cơn sốt đất Khi ta về cơn sốt đất đang cao Đồng tiền quẳng ra trên những đống gò ao bãi Quán xá lềnh khênh Nhạc tình rơi vãi Giữa dòng đời ai nghiêng ngả Ngả nghiêng? Từng ngôi nhà hối hả mọc chông chênh Vội thay mặt chủ sau mỗi lần được giá Vườn ruộng ông cha giờ cháu con đem mặc cả Tấc đất tấc vàng Trong hai tiếng bán buôn. Khi ta về nước mắt mẹ đang tuôn Một hố lầy hoang cũng giật giành xỉa xói Anh em nhìn nhau nghi ngờ soi mói Chửi rủa trước nhà Dao búa sau lưng. Mẹ một đời người vẫn buôn thúng bán bưng Thương đàn cháu đói lại đường xa chạy gạo Đất chưa hóa vàng đã từng giờ rỉ máu Bao nhân nghĩa cuộc đời theo nước lã trôi sông. Khi ta về biết em nhớ hay không? Hàng dâm bụt tuổi thơ đã không còn đó nữa Một bức tường vôi mảnh chai găm tua tủa Ngăn trở lòng người Cứa nát những vì sao. Ta bàng hoàng nghe vị đắng nỗi đau Đất cao giá biến nụ cười em băng giá! Người yêu cũ nay bỗng dưng xa lạ Hỏi tại người Hay tại đất Mẹ ơi? (Tuyển tập thơ Dấu Cỏ Người Xa – NXB Văn Hóa Dân Tộc 2004) Thanh Trắc Nguyễn Văn
  5. Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0023: Không hiểu??? Không hiểu vì sao nhỏ bỗng buồn Sân trường u ám bỗng mưa tuôn! Kìa ai ngơ ngác, ai ngồi khóc Lệ ướt hoen mi, ướt ngập trường! Không hiểu vì sao nhỏ chẳng nhìn Ngập ngừng ta hỏi, nhỏ làm thinh! Giờ chơi nhỏ giận "xù" đâu mất Ta đợi người ta, ngóng một mình! Không hiểu vì sao nhỏ thích hờn Để chiều tan học thích cô đơn! Để ta lủi thủi theo người ấy Mưa ướt hai mình, ai ướt hơn? (Tập thơ Hoa Sứ Trắng – NXB Đà Nẵng 1997) Thanh Trắc Nguyễn Văn
  6. Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0022: Đà Lạt ta về Đà Lạt ta về tìm trái thông Tìm thông chợt thấy má em hồng! Má em hồng quá thông không rụng Rụng xuống hồn ta chút gió dông! Đà Lạt ta về tìm trái mơ Mơ chẳng tìm ra đến tận giờ! Giận mình sao cứ lơ mơ mãi Mơ nhiều đêm lạnh vẫn bơ vơ! Đà Lạt ta về tìm trái tim Thuở xưa rơi rớt biết đâu tìm? Em nhặt được không thì trao lại Thương giùm gã ấy mắt lim dim! (Tập thơ Hạ Nhớ – NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999) Thanh Trắc Nguyễn Văn
  7. Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0021: Trong nắng ấm xuân hồng Con thắp một ngọn nến Sáng rực giữa đêm đông Nhớ ngày xưa mẹ khóc Lệ nến rơi đỏ hồng. Ngọn nến là ngọn lửa Sưởi ấm nỗi buồn con Thương mẹ đời cơ cực Xác thân mau héo mòn. Ngọn nến là ánh sáng Soi dắt đường tương lai Bao lần con vấp ngã Mẹ nâng dìu trong tay. Tuổi thơ nhiều lầm lỡ Một thời con rong chơi Giờ hiểu ra đã muộn Mẹ xa rồi mẹ ơi! Ngọn nến dần vắt kiệt Đâu hình bóng mẹ tôi? Chỉ còn là sáp lửa Sắp lụn tan trong đời. Chỉ còn là nước mắt Mẹ rơi rớt vì con Chỉ còn là mất mát Thấm nỗi đau trong hồn. Vầng dương rồi hé sáng Đã qua hết đêm đông Mẹ ơi, mình con khóc Trong nắng ấm xuân hồng… (Tuyển tập thơ Lời Trần Tình Dâng Mẹ Cha – NXB Tổng hợp Đồng Tháp 1997) Thanh Trắc Nguyễn Văn
  8. Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0020: Giọt lệ muộn màng Cũng từ ngày ấy con khóc vùi trước cỏ Trước mộ bia đất lạnh, hương tàn Ngày mẹ mất là những ngày trốn học Con bỏ nhà theo lũ bạn đi hoang. Con đâu biết dưới mái tranh nghèo cũ nát Mẹ thương con, chịu vất vả tháng ngày Bát cơm trắng mẹ sớt dành cá thịt Con ăn thường nào nếm được đắng cay. Giờ lạc lõng giữa đường đời xuôi ngược Con lao đao khi đã mất mẹ rồi Hạt muối mặn mới hay còn vị chát Bát cơm người là nước mắt đầy vơi. Con ăn năn xin lạy quỳ trước mộ Lệ muộn màng xin được rưới cỏ tươi Lời mẹ dạy vọng vang từ cõi nhớ: Dẫu bơ vơ… Cũng phải sống Để thành người… (Tập thơ Hạ Nhớ – NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999) Thanh Trắc Nguyễn Văn
  9. Giới thiệu Tuyển tập thơ Phù Sa Của Gió: Xin giới thiệu tuyển tập thơ mới Phù Sa Của Gió - NXB Văn Nghệ ấn hành năm 2007. Thanh Trắc Nguyễn Văn góp mặt cùng với 11 tác giả thơ khác.
  10. Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0019: Tiếng chuông chùa trong Thạch Động Hà Tiên thu đến rồi em Đường lên Thạch Động chông chênh nắng vàng Mây chiều rủ gió lang thang Bẽ bàng lá giận khẽ khàng rụng rơi. Đá xanh xanh bám đỉnh trời Giọt tan lách tách ướt lời đưa trao Câu quen quen đến ngọt ngào Câu thương thương đến bứt nhàu cỏ may. Cầm tay rồi lại dắt tay Dìu nhau qua hết tháng ngày buồn tênh Nẻo lên .....lối xuống .........gập ghềnh Chuông rền Thạch Động .......................bồng bềnh khói sương. (Tập thơ Hạ Nhớ – NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999) Thanh Trắc Nguyễn Văn
  11. Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0018: Tình vỡ Tình em như cánh chuồn chuồn Khi bay đậu lại nỗi buồn riêng tôi Dây trầu chưa quấn chợt rơi Vành trăng chợt vỡ để người chợt xa… (Tập thơ Hạ Nhớ – NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999) Thanh Trắc Nguyễn Văn
  12. Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0017: Hoa sứ trắng Cô bé cài băng đô Không còn về trường cũ Hoa sứ buồn ủ rũ Lạnh ướt một bàn tay. Hoa vẫn ngát hương bay Như ngày xưa đến lớp Như chiều nào bất chợt Ta tìm em bơ vơ. Đâu rồi màu hoa sứ? Đâu rồi màu băng đô? Đâu rồi mùa thu cũ Gió nối lời vu vơ? Chỉ còn là giọt nắng Rơi trong chiều rưng rưng Băng đô vàng áo trắng Một thời ta bâng khuâng. Chỉ còn là trang vở Những nỗi niềm không đâu Một bài thơ viết dở Một nỗi lòng chôn sâu! Cuối thu chiều gió dậy Mây lặng lờ lang thang Em xa mùa hạ ấy Bông sứ buồn miên man. Cô bé cài băng đô Đã quên rồi trường cũ Hoa sứ giờ ủ rũ Thổn thức lạnh bàn tay! (Tập thơ Hoa Sứ Trắng – NXB Đà Nẵng 1997) Thanh Trắc Nguyễn Văn
  13. Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0016: Hoa quỳnh nở Giữa đêm chỉ thoảng hương thơm Cánh quỳnh vẫn khép như còn đợi ai Em về lấp lánh sương mai Môi cười, hoa nở ngát hai đóa quỳnh! (Tuyển tập thơ Tứ Tuyệt Tình Thi – NXB Đà Nẵng 2005) Thanh Trắc Nguyễn Văn
  14. Thanh Trắc Nguyễn Văn và nỗi đau của những bi kịch Thế là tập thơ thứ năm của Thanh Trắc Nguyễn Văn đã ra đời (Giọt lệ trăng – NXB Văn Nghệ 2010). Đọc tập thơ mới này người đọc sẽ gặp được rất nhiều những cái mới. Cái mới thứ nhất là ngoài những bài thơ còn có bốn bài bình thơ rất sắc sảo của Huỳnh Ngọc, Lê Bá Duy và Lê Bích Ly. Ấn tượng nhất đối với tôi chính là bài bình bài thơ Nửa đời của nhà thơ Lê Bá Duy, bài bình bài thơ Ngôi nhà màu trắng hoa lê của tác giả Lê Bích Ly. Lời bình của Lê Bá Duy mềm mại nhưng là “mềm” của loại “lạt mềm buộc chặt”. Còn lời bình của Lê Bích Ly thì ngược lại, sắc cạnh đến lạ lùng cứ như một lưỡi dao phẫu thuật, mổ xẻ tâm lý con người đến mức độ thật tinh tế. Cái mới thứ hai là đọc xuyên suốt 48 bài thơ trong tập thơ Giọt lệ trăng chúng ta dễ dàng bắt gặp những nỗi đau mà chúng ta vẫn thường nghe trên báo đài, nhưng do quá vô tình, quá bận rộn chúng ta chỉ loáng thoáng nghe qua rồi “quên” mất. Có nỗi đau rất đời thường. Người chồng rất thương yêu vợ. Anh ta sẵn sàng leo tường vào nhà người khác hái trộm hoa tặng vợ, sẵn sàng bơi theo dòng nước lũ liều mình cứu vợ. Nhưng anh ta lại có một cái tật là chỉ thích “biểu hiện bằng hành động” chứ không thích nói! Bi kịch là đến cuối cuộc đời cái chết của bà lão thật vô cùng đau đớn: Phút lâm chung Bà lão hỏi chồng: - Ông có yêu tôi không? Ông lão gục đầu Khóc Bà lão chết Mắt vẫn không nhắm... (Ngụ ngôn tình yêu) Có nỗi đau là một lời cảnh báo cho xã hội. Những người nông dân bán đất để đổi đời đã phải trả môt cái giá rất đắc. Cả gia đình của của họ từ ông, cha đến mẹ đều mắc một chứng trầm cảm rất nặng nề: “… ngơ ngác ậm ừ/ Nhìn nhà máy cứ từ từ mọc lên”. Cái đau đớn của những người nông dân bán đất đã được Thanh Trắc Nguyễn Văn miêu tả rất ngắn gọn nhưng cũng thật chính xác: Làng tôi giờ đã hết quê Quán bia với quán cà phê chen đầy Ngả nghiêng kẻ tỉnh người say Ôm nhau gục nhớ đường cày ngày xưa. (Làng tôi đất bán sạch rồi) Nhưng đỉnh điểm của bi kịch không chỉ dừng lại ở đó. Nó mở rộng ra một tương lai toàn cảnh không mấy sáng sủa: Bàng hoàng nắng quái chiều hôm Làng giờ hoá phố cọng rơm chẳng còn… (Làng tôi đất bán sạch rồi) Làng mới hóa phố thôi mà một cọng rơm cũng tìm không ra. Hỏi sau này sẽ còn có ai chịu trồng trọt để sản xuất lúa gạo cho đất nước nữa? Có nỗi đau là nỗi đau của những nàng Kiều ở đầu thế kỷ 21. Do nhà nghèo, gia đình gặp quá nhiều khó khăn về sinh kế, một cô gái xinh đẹp phải nhắm mắt lấy chồng Đài Loan. Không may nơi xứ người cô bị bán vào động quỷ. Để phản kháng số phận cô quyết định tự ải (thắt cổ). Cái chết đầy bi kịch của cô đã được câu thơ nâng một lên tầm cao mới: Hỡi tú bà, lũ ma cô ác độc Tao đi đây vứt xác dưới bùn lầy Hồn gái Việt sẽ xuôi về đất Việt Sen dẫu gãy lìa vẫn ngát hương bay... (Tự ải) Cũng có nỗi đau là sự đổ vỡ của một gia đình lúc đầu đầy hạnh phúc. Bài thơ “Ngôi nhà màu trắng hoa lê” cứ như là một cuốn phim, một câu chuyện cổ tích mang đầy tính nhân văn hiện đại. Người chồng do thất bại trong công việc làm ăn nên cố tìm lối thoát bằng cách nhờ Chúa Quỷ giúp đỡ. Và bi kịch bắt đầu khi người chồng do “dám uống rượu” với Chúa Quỷ nên đã tự lột xác từ người dần dần hóa thành quỷ: Đêm đêm Ngồi cùng Chúa Quỷ… Nhặt kim cương Đếm vàng thỏi Nuốt rượu ma Tán chuyện quỷ Ma quỷ chưa hóa người Người đã thành ma quỷ Cũng ti tiện Cũng nhỏ nhen Cũng hận ghen Cũng ích kỷ... Quỷ có gương mặt người Hay người có trái tim quỷ? (Ngôi nhà màu trắng hoa lê) Đỉnh điểm cuối cùng của bi kịch là người chồng đã nhẫn tâm hành hạ người vợ anh ta vô cùng yêu quí đến ngất đi. Và cũng chính anh ta tự tay châm lửa đốt luôn ngôi nhà hạnh phúc của mình, ngôi nhà mà chính anh ta đã tốn bao công lao tự tay gầy dựng nên. Thơ phải gắn liền với hiện thực cuộc sống. Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn cũng vậy, bài thơ “Thơ viết ở bờ sông Thị Vãi” của anh gắn liền với nỗi đau của một con sông đã bị bức tử ở tỉnh Đồng Nai. Bằng những câu thơ tả thực, Thanh Trắc Nguyễn Văn đã vẽ nên một bức tranh đau xót khiến người đọc phải ít nhiều suy nghĩ: Dòng sông bây giờ thăm thẳm một màu đêm Đâu những cánh diều giấy nhấp nhô trời quá khứ? Mặt nước sông hằn lên nét cười quỉ dữ Bao xác cá phơi đầy trên xác cỏ bầm đen… Thương những con thuyền rách nát hom hem Lăn giọt nước mắt xuống dòng sông hôi thối (Thơ viết ở bờ sông Thị Vãi) Bi kịch ở cuối bài thơ có phải là do chúng ta còn quá hời hợt không dám chịu cùng nhau đấu tranh cho một lẽ phải, cùng nhau chống lại những tiêu cực vẫn còn tồn tại khá nhiều trong xã hội: Quê mình nghèo sao bóng tối cứ vây quanh? Bát cơm của mẹ cũng đơm đầy hạt sạn Bão lại thổi Xổ tung những chùm mây tóc xám Hạt mưa lạnh cuối chiều Hay giọt lệ của trăng? (Thơ viết ở bờ sông Thị Vãi) Điểm xuyết vào những bi kịch trong tập thơ Giọt lệ trăng là những bài thơ tình cùng những câu thơ tình rất đẹp, rất lãng mạng: Nụ cười em rải sông sâu Trăm năm tôi vớt Vẫn màu nhớ nhung … (Tạm biệt Phong Nha) Ly cà phê đắng quá May, có ánh mắt em ngọt lành! Nơi tình yêu đã bỏ đi: tất cả hoa hồng đều hóa đá Khi tình yêu trở lại: tất cả đá lại hóa hoa hồng! Chuyện tình dưới cây ngọc lan Trang nhật ký ngàn năm còn thơm mãi … Yêu mà khinh khi: tình yêu của quỉ Không yêu mà vẫn được nhớ: hạnh phúc của thiên thần! (Thơ tình hai câu) Van em đừng qua cổng Tóc mềm đừng thả hương Ta va vào vấp ngã Ngàn năm sẽ nhớ thương! Van em đừng qua cổng Đung đưa một tiếng cười Ta sợ chòng chành đắm Bởi cánh môi hồng tươi! Van em đừng qua cổng Hát vu vơ nhạc buồn Ta dại khờ đâu biết Nước mắt tròn hay vuông? (Van em đừng qua cổng) Em đi thả tím nụ cười Câu thơ tôi thả tím trời hoàng hôn! (Áo dài em tím hoa cà) Có những bài thơ tình tuy là dành cho những người có thu nhập thấp nhưng vẫn thấm đẫm tính nhân văn của một trái tim chung thủy (Tình anh xe ôm, Tình khờ, Tình hẹn). Trong những bài thơ tình trong tập thơ tôi thích nhất là bài Biệt khúc và bài Liêu trai. Thơ tuy nói về người vô hình nhưng rất thật. Tuy thật mà ảo, tuy ảo mà thật: Lênh đênh địa ngục thiên đường Em đi thả lại sợi hương giọt tình Giơ tay níu cõi vô hình Tay ta bỗng nắm tay mình Tìm em... (Liêu trai) Nhìn chung tập thơ Giọt lệ trăng là một bước tiến đáng kể trên con đường đi tìm nghệ thuật thơ ca của Thanh Trắc Nguyễn Văn. Cái khuyết điểm của tập thơ là trong đó vẫn còn ít nhiều bài thơ buồn, một vài câu thơ vẫn còn cũ chưa mới. Bài của bạn Kim Như đăng trên Văn Thơ Việt Bìa sau, gáy và bìa trước tập thơ Giọt Lệ Trăng
  15. Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0015: Chợt nhớ Đầu đình chợt nhớ đêm sao Cánh đồng chợt nhớ thu nào mưa bay Đồi sim chợt nhớ cỏ may Vườn dâu chợt nhớ trăng đầy giếng thơi Bến sông chợt nhớ một người Bão dông chợt nhớ biển trời Trường Sa Đường làng chợt nhớ anh xa Mắt em chợt nhớ lệ nhòa trong mưa… (Tập thơ Hạ Nhớ – NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999) Thanh Trắc Nguyễn Văn
  16. Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0014: Vẫn còn đây Tặng Cảnh Tiên và lớp 11E Vẫn còn đây Năm công chúa ngày xưa Năm cô bé với năm cái cười rất "quái"! Mùa xuân đi qua rộn ràng trong lớp ấy Có chú ve sầu chợt thức khóc trên cây. Vẫn còn đây Năm tà áo trắng tung bay Năm nhịp guốc cùng khua đều lóc cóc Xe vẫn dựng quanh những hàng bún ốc Hoa điệp rơi vàng trong nhịp muỗng leng keng. Vẫn còn đây Năm bài hát thân quen Năm giọng "hú" của một thời tóc bím! Những chiếc nơ xanh, trắng, vàng, đỏ, tím Vẫn lúc lắc bay, ngúng nguẩy trong chiều… Kỷ niệm vọng về từ năm tháng cô liêu Trang giấy cũ bỗng nhớ nhung màu phượng cũ Một chiếc lá rơi giữa sân trường nắng rũ Mùa hạ đâu rồi Áo trắng ấy Ngày xưa? (Tập thơ Hoa Sứ Trắng – NXB Đà Nẵng 1997) Thanh Trắc Nguyễn Văn
  17. Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0013: Con đường xưa đi học Con đường xưa đi học Nắng mượt vàng chân đê Có người em gái nhỏ Từng buổi đợi nhau về. Em một thời leo nhãn Anh một thời lội sông Một thời ôm cặp sách Hát chạy rong trên đồng. Con đường xưa đi học Đôi bướm vàng chợt bay Tóc em ngỡ là gió Áo em ngỡ là mây. Em một thời ép lá Anh một thời làm thơ Một thời nhặt phượng đỏ Tiếng ve sầu lơ ngơ. Con đường xưa đi học Hai đứa giờ hai nơi Em theo người xứ lạ Anh lưu lạc phương trời. Em quên thời áo trắng Rơi nỗi buồn đâu đây Con đường anh trở lại Thăm thẳm một màu mây. (Tập thơ Hoa Sứ Trắng – NXB Đà Nẵng 1997) Thanh Trắc Nguyễn Văn
  18. Giới thiệu tập thơ Hoa Sứ Trắng: Xin giới thiệu tập thơ Hoa Sứ Trắng. Đây là tập thơ riêng đầu tay của Thanh Trắc Nguyễn Văn. Tập thơ xuất bản năm 1997 do Nhà Xuất Bản Đà Nẵng ấn hành.
  19. Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0012: Suối Tiên Suối Tiên Lội suối tìm tiên Ngờ đâu mây chạm xuống miền chiêm bao Ngỡ ngàng Giọt nắng hanh hao Có con bướm trắng mơ vào thiên thai. Ta tìm ai? Em tìm ai? Còn chăng là chút lạc loài tháng năm. Lá rơi Rơi lá âm thầm Thò tay vớt lá Vớt nhầm mắt em! (Tập thơ Hoa Sứ Trắng – NXB Đà Nẵng 1997) Thanh Trắc Nguyễn Văn
  20. Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0011: Đôi sao nhỏ Có một đôi sao nhỏ Rơi xuống một mùa đông Giữa trời đêm rét mướt Lấp lánh ánh lửa hồng. Có một đôi sao nhỏ Rơi về dĩ vãng xa Đất lầy xưa oan nghiệt Giờ đâm chồi nẩy hoa. Có một đôi sao nhỏ Rơi miền hoang mạc khô Chợt vang trong giếng cạn Giọt nước rơi mơ hồ. Có một đôi sao nhỏ Rơi vào đôi mắt em Trăng thu vàng ngờ nghệch Ngẩn ngơ rụng bên thềm. (Tập thơ Hoa Sứ Trắng – NXB Đà Nẵng 1997) Thanh Trắc Nguyễn Văn
  21. Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0010: Tháp Cánh Tiên Ta lại về thăm tháp Cánh Tiên Long lanh nắng xuống, bóng sương chìm Cánh chim nào động trời hoang dã Mà chiều Bình Định gió như im? Em ở đâu rồi em gái nhỏ Bâng khuâng màu áo trắng như mây Cứ ngỡ em còn bên tháp cổ Ngại ngùng như thuở mới chia tay. Em ép cho ta cánh phượng hồng Để mùa hạ ấy hóa mùa đông Để mùa thu rụng trên trang sách Một xác bướm khô, xác nỗi lòng. Cây vẫn liền cây, lá vẫn xanh Đá rêu trầm mặc, nắng tơ mành Có bóng tiên về trên đỉnh tháp Lung linh nhịp múa điệu Chiêm Thành. Em xa ta rồi, sao nỡ xa Cánh Tiên tháp đứng khói sương nhòa Trăng lạnh cuối chiều trăng lạnh mãi Có hay trăng lạnh ướt hồn ta? (Tập thơ Hoa Sứ Trắng – NXB Đà Nẵng 1997) Thanh Trắc Nguyễn Văn
  22. Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0009: Mộ hoang Trời chiều đồng nắng đìu hiu Đôi con bướm trắng dập dìu về đâu Ai nằm dưới đáy mộ sâu Có nghe xuân đến xanh màu cỏ non? (Tập thơ Hoa Sứ Trắng – NXB Đà Nẵng 1997) Thanh Trắc Nguyễn Văn
  23. Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0008: Mồ côi "Má ơi con vịt chết chìm…" Con kêu… Oà khóc Biết tìm má đâu? (Tập thơ Hoa Sứ Trắng – NXB Đà Nẵng 1997) Thanh Trắc Nguyễn Văn
  24. Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0007: Đôi khi Đôi khi tình yêu ấy Biết không hỏi được gì Câu trả lời lạc lõng Nó chẳng buồn nghe chi. Đôi khi tình yêu ấy Biết không hy vọng gì Hy vọng bịt mắt nó Trước sự thật khinh khi. Đôi khi tình yêu ấy Biết không mong đợi gì Nỗi đau cắt sâu nữa Khi phút đến sầu bi. Đôi khi tình yêu ấy Biết tự bỏ ra đi Cố không rơi nước mắt Dù lệ đẫm chia ly. (Dịch từ bài thơ Sometimes của Sheryll Raquipiso) (Tập thơ Hoa Sứ Trắng – NXB Đà Nẵng 1997) Thanh Trắc Nguyễn Văn
  25. Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0006: Nắng mới Người về nhặt nắng mùa đông Nhặt chiều lá rụng cuối dòng thơ xưa Nhặt lời cỏ úa trong mưa Nhặt màu mắt ướt một mùa qua sông… Chợt trong sương khói bềnh bồng Nắng vàng thuở ấy ửng hồng sang xuân! (Tập thơ Hoa Sứ Trắng – NXB Đà Nẵng 1997) Thanh Trắc Nguyễn Văn

Footer title

This content can be configured within your theme settings in your ACP. You can add any HTML including images, paragraphs and lists.

Footer title

This is an example of a list.

Footer title

This content can be configured within your theme settings in your ACP. You can add any HTML including images, paragraphs and lists.

Footer title

This content can be configured within your theme settings in your ACP. You can add any HTML including images, paragraphs and lists.

×
×
  • Create New...