-
Số bài viết
24 -
Gia nhập
-
Đăng nhập
Bài viết được đăng bởi trandoliem
-
-
Cái nắng hè oi ả mới được tống tiễn mấy hôm nay, trời Hà Nội đã rải vàng sắc nắng, chưa có heo may nhưng những làn gió đông nam đã lần lượt nối đuôi nhau lướt nhẹ trên hàng sấu rì xanh trên đường Chu Văn An, Điện Biên Phủ làm vơi đi cái ngột ngạt ồn ào của xe máy đeo bám nhau, như trôi vào vô tận ngõ ngách thị thành.
Hôm nay tôi có mặt trong đoàn doanh nhân Việt Nam tiêu biểu. Theo lịch trình trước khi nhận Cúp Phù Đổng, đoàn chúng tôi đi thắp hương tưởng niệm Đức Tổ Hùng Vương và Bác Hồ mong được phù hộ độ trì dẫn dắt làm ăn ngay thẳng, phát tài, tránh được nạn tai, bình an mạnh khỏe. Việc hành hương về Đền Tổ chúng tôi đã làm hôm trước, chiều nay đoàn tập trung ở đầu đường Bắc Sơn bên cạnh Đài Liệt sĩ Quốc gia trước Lăng Bác để cùng nhau đi viếng. Theo thông lệ những ngày này (tháng 10) là thời gian duy tu bảo dưỡng công trình nên Lăng Bác và kỳ đài đóng cửa để công nhân lau rửa, chỉnh trang...
Chúng tôi lên hai chiếc xe ca ba chục chỗ ngồi đi vào cổng phụ Phủ Chủ tịch trên đường Hùng Vương. Cổng chính cửa Phủ ở số 2 cũng trên đường Hùng Vương chỉ mở cửa khi đón quốc khách mà thôi. Gần đối diện với cổng chính Phủ Chủ tịch là trụ sở Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, cổng này mang số thứ tự là 1. Một chuyện ngẫu nhiên lý thú nên người ta nói vui Đảng số một Nhà nước số hai...
Phủ Chủ tịch một ngôi nhà xây theo phong cách kiến trúc thời Phục Hưng của Pháp có kết hợp một ít chi tiết văn hóa Á đông, sơn màu vàng uy nghi bề thế nằm trong khuôn viên rộng với nhiều cây cổ thụ xum xuê xanh mát... gió nhẹ đưa hương thơm ngát hoa sữa đầu mùa, làm cho tâm hồn chúng tôi lâng lâng xúc động...
Đây là lần thứ hai tôi bước vào căn nhà hiện đang giữ vai trò biểu tượng Quốc gia Phủ Chủ tịch Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cách đây không lâu ngày 26/1/2006 tôi đã là một trong 40 doanh nhân tiêu biểu của cả nước, được Chủ tịch Nước Trần Đức Lương mời vào Phủ gặp gỡ tặng quà, dự tiệc và chụp ảnh kỷ niệm ở bậc thềm Phủ Chủ tịch, chính nơi mà cách đó 60 năm, mùa đông năm 1946 Bác Hồ đã chụp ảnh chung với đại diện các nhà công thương kỹ nghệ thủ đô Hà Nội, ủng hộ chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa kháng chiến cứu quốc.
Dù khiêm tốn cũng phải thú thực rằng tôi rất tự hào, ấy là trong cuộc đời doanh nhân của mình đã hai lần có mặt trong đoàn không nhiều doanh nhân tiêu biểu được vào Phủ Chủ tịch. Lần trước (2006) vào Phủ Chủ tịch với ý nghĩa vinh dự, đó là sau 60 năm lần đầu tiên Chủ tịch Nước mời doanh nhân ăn tết và tặng qùa. Còn lần này chúng tôi vào Phủ Chủ tịch với ý nghĩa tâm linh, những doanh nhân tiêu biểu của Việt Nam (năm 2007) dâng hương tưởng nhớ Bác, cầu mong Bác phù hộ độ trì cho giới doanh nhân cả nước làn ăn phát tài, góp phần đắc lực cho mục tiêu dân giàu nước mạnh...
Dinh Chủ tịch thời Bác làm Chủ tịch Nước, Bác chỉ dùng để đón tiếp quốc khách theo nghi lễ và họp Hội đồng chính phủ và một số kỳ họp Quốc hội sau hòa bình... còn hàng ngày Bác làm việc và tiếp khách ở căn nhà sàn bên bờ hồ bán nguyệt, phía bên tay phải Phủ Chủ tịch.
Chuyện kể rằng khi từ chiến khu Việt Bắc trở về người ta bố trí để Bác ăn nghỉ ngay trong Phủ Chủ tịch, nhưng Bác nhất định không ở, Bác chọn ngôi nhà người thợ điện của Phủ toàn quyền ở trước và bảo mọi người đưa giường, ghế vào để Bác ở đó. Mọi người cứ thắc mắc hỏi sao bác không ở trong dinh, Bác nói đùa “ở đó có mùi thối” người ta lại nói: “báo cáo Bác chúng cháu đã dọn dẹp sạch sẽ lắm rồi” cuối cùng Bác giải thích: ở trong đó có “mùi thối của Phủ toàn quyền”. Thế đấy Bác rất ghét độc quyền, toàn quyền, Bác rất thích dân chủ, chả thế mà khi mới thành lập Nước Bác đã đặt quốc hiệu là “Viêt Nam dân chủ cộng hòa”, định ngữ “dân chủ” Bác đã đặt ngay bên cạnh tên Nước. Ngôi nhà này có tên nhà 54. Vì từ tháng 12 năm 1954 Bác sống và làm việc ở ngôi nhà này. Đến tháng 5/1958 Bác sang ở ngôi nhà sàn mới xây dựng bên kia ao cá, nhưng hàng ngày người vẫn trở về nơi đây ăn cơm và khám sức khỏe định kỳ.
Ngôi nhà sàn bên bờ hồ bán nguyệt Bác ở trước đây, bây giờ đang là bảo vật Quốc gia chính do Bác chọn địa điểm và chọn mẫu. Chuyện kể lại rằng khi thiết kế ngôi nhà người ta đặt cầu tiêu ở bên trong, xem bản vẽ xong Bác nói: Đồng bào dân tộc làm nhà sàn có đặt cầu tiêu trong nhà đâu? Vì thế ngày nay trong ngôi nhà sàn không có cầu tiêu, lại nữa chuyện chiếc cầu thang, người thiết kế đặt cầu thang ngoài trời và hẹp chỉ vừa một người đi, xem xong bác nói đại ý Đồng bào dân tộc chỉ ở tầng trên, tầng dưới không sử dụng, nhà bác, tầng dưới là phòng làm việc, phòng họp. Làm cầu thang trong nhà, lên xuống thường xuyên không phải đi ra ngoài khi trời mưa nắng, Bác lại bảo cầu thang làm rộng để hai người có thể đi cùng vì có lúc khách đến, mang theo vợ, người đi trước kể đi sau sao tiện... thế là cầu thang nhà Bác được làm với kích thước rộng đủ hai người đi một lúc và đặt phía trong nhà. (Còn chiếc cầu thang sắt ở ngoài trời phía sau nhà sàn hiện nay mà chúng ta thường đi lên thăm quan nhà Bác là do Ban quản lý di tích dựng thêm để cho người đến thăm đi, nếu đi theo cầu thang gỗ phía trong e làm hư hỏng di tích). Thế mới hay Bác không chỉ là nhà ái quốc lo việc quốc sự mà những điều nhỏ, dù nhỏ nhưng liên quan đến con người, phong tục tập quán Bác đều rất chu đáo.
Ngôi nhà sàn quay hướng Đông nam nhìn ra hồ bán nguyệt cũng do Bác lựa chọn.
Ngôi nhà sàn thì nhiều người biết nhưng có chuyện một ngôi nhà khác, phía sau hông phải nhà sàn thì chắc còn nhiều người không biết. Đó là một ngôi nhà trệt nhỏ chiều ngang chừng ba, bốn mét, chiều dài khoảng bảy, tám mét nằm ẩn mình dưới tán lá xanh tươi yên tĩnh, hàng ngày ở đó luôn tỏa ra mùi hương thơm ngan ngát, đó là nơi duy nhất hiện nay đặt bàn thờ Bác ở trong Phủ Chủ tịch... ngôi nhà 67.
Chuyện kể rằng vào những năm 1966-1967 Mỹ đánh phá ác liệt miền Bắc. Thủ đô Hà Nội cũng bị chúng bắn phá, ném bom ngày đêm. Đã có một lần xe của đồng chí Hoàng Quốc Việt đi gần đến cổng Phủ Chủ tịch đã bị bắn rốc két, may mà không việc gì. Lúc đó Bộ chính trị thấy nếu cứ để Bác ở nhà sàn thì qúa nguy hiểm nên mới họp (Bác không dự cuộc họp này) quyết định làm một căn nhà gần hầm tránh bom tại vườn Phủ Chủ tịch để mời Bác xuống ở và làm việc ở đó cho gần hầm trú ẩn mỗi khi có báo động, (lúc đó Bác đã gần 80 tuổi rồi, việc đi lại từ nhà sàn đến hầm trú bom hơi xa lại phải lên xuống cầu thang).
Bộ đội công binh được giao nhiệm vụ chuẩn bị khung nhà, lựa ngày Bác đi nghỉ dưỡng, anh em đến dựng và hoàn chỉnh. Khi về Bác thấy ngôi nhà mới, người tỏ ý không vui. Mấy ngày sau lựa ngày Bộ chính trị báo cáo người về sự cần thiết xây dựng ngôi nhà, đồng chí phó Thủ tướng, ủy viên Bộ Chính trị Phạm Hùng (được Bộ chính trị phân công) đứng lên thưa Bác đại ý: Việc xây dựng ngôi nhà là nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt của đồng bào chiến sĩ miền nam để Bác ở làm việc gần hầm trú ấn và làm nơi họp Bộ Chính trị mong Bác chấp nhận đồng ý. Ngẫm nghĩ một lúc Bác nói đại ý tuy không hỏi ý kiến Bác trước khi làm nhưng Bộ Chính trị đã nghị quyết thì Bác chấp hành một nửa, ngôi nhà đó để làm nơi họp Bộ chính trị, nơi làm việc với các đồng chí trung ương và cán bộ đầu ngành... Và Bác vẫn ở tại nhà sàn cho đến ngày 17/8/1969 khi sức khỏe Bác rất yếu, để tiện việc chăm sóc, thăm hỏi Bác, các bác sĩ đề nghị người không lên, xuống nhà sàn nữa. Theo lời đề nghị của bác sĩ ngày 18/8/1969 Bác xuống ở hẳn căn nhà nói trên và như chúng ta đã biết... 9 giờ 47 phút ngày 2/9/1969 Bác Hồ đã vĩnh biệt chúng ta tại căn nhà bên hông phải phía sau nhà sàn trong vườn Phủ Chủ tịch, nó cũng chỉ cách nhà sàn độ chừng 50 mét. Ngôi nhà này được gọi là nhà 67. Vì nó được xây dựng năm 1967.
Sau khi Bác mất các đồng chí bảo vệ trong Phủ đã lập một bàn thờ nhỏ trong ngôi nhà này để thờ Bác... Chuyện kể sau này có người muốn làm lại bàn thờ cho to ra nhưng các vị lãnh đạo đã bảo cứ để bàn thờ như thế, nó không chỉ có ý nghĩa di tích, mà nó còn phù hợp với con người vốn thanh cao, giản dị của Bác.
Chiều đầu thu năm nay đoàn doanh nhân chúng tôi may mắn được ông Giám đốc Bảo tàng hướng dẫn thăm quan và kể chuyện về bác trong khuôn vườn Phủ Chủ tịch, đặc biệt trong ngôi nhà thiêng liêng số một Đất nước hiện nay (tôi cho là như vậy). Tôi được cùng đoàn doanh nhân dâng hương trước bàn thờ Bác, trước khi rời căn nhà tôi còn tranh thủ thắp thêm ba nén nhang trước bàn thờ Bác với một sự cảm động trào dâng từ trong tim, trong óc của mình, nước mắt tôi cứ tự nó trào ra và tôi cũng mặc cho nó tự chẩy... Có lẽ đây là lần thứ hai tôi khóc Bác, lần thứ nhất là ngày 3/9/1969 lúc còn ở chiến trường khi chúng tôi nghe được tin Bác đã qua đời.
Một vòng những căn nhà Bác sống và làm việc trong vườn Phủ, tôi nghe tiếng chim hót lứu lo, ngắm đàn cá đủ màu bơi lội, những hàng bụt mọc quanh bờ ao... Đồng chí giám đốc bảo tàng kể tiếp: Sinh thời Bác thường ngồi ngoài vườn hàng giờ để nghe chim hót. Nghĩ Bác thích nghe tiếng chim hót mấy người bảo vệ liền đi mua một cặp chim Họa Mi hót rất hay cho vào lồng đẹp mang treo ở cửa nhà Bác, thấy vậy Bác bảo: chim của các chú hót không hay bằng chim của Bác được sống tự do ở ngoài trời... và chiếc lồng chim được tháo bỏ.
Thế đấy Bác thấu hiểu rất sâu sắc quyền dân chủ tự do nó không chỉ của con người mà nó còn của vạn vật, Bác là Chủ tịch Nước, chủ tịch Đảng nhưng Bác không thích “toàn quyền” Bác thích dân chủ, với Bác con chim tự do hót hay hơn chim bị nhốt, còn con người được tự do mới phát huy được hết năng lực của mình. Bác chấp hành nguyên tắc tập thể nhưng vẫn tôn trọng vai trò lãnh đạo cá nhân. Bác vĩ đại từ những suy nghĩ, việc làm tưởng chừng nhỏ bé nhất, bình thường nhất cho mọi người, cho dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam.
Việt Hà
Tháng 11/2007
-
VIẾNG NGHĨA TRANG TRƯỜNG SƠN
Em ở lại giữa Đại Ngàn
Giữa hương hoa cỏ, bên tràn suối reo
Giữa ngàn đồng đội thân yêu
Giữa mây giăng núi, giữa chiều Trường Sơn
Gặp tôi cảnh bướm giận hờn
Chao nghiêng bên bụi mẫu đơn thắm hồng,
Bởi từ bữa ấy... vượt sông
Đạn bom xé rách má hồng em tôi!
Lửa chiến tranh tắt lâu rồi
Lang thang phiêu bạt khắp nơi không tìm,
Ta về lãnh đạm hoàng hôn
Trời buông một dải mây buồn xa xôi...
Sao sa vàng đỏ triền đồi
Tình riêng trần trụi, tình người đa đoan.
Em nằm ở lại nghĩa trang
Trung tình mãi trẻ với ngàn lời ca
Tôi tìm những kỷ niệm xưa
Vùi trong đất đá, gió mưa mặn mòi.
Hoa mua vẫn nở tím đồi miền Trung
Nén nhang trước mộ Anh Hùng
Hoàng hôn rực cháy sáng rừng Trường Sơn.
-
BIÊN CƯƠNG ĐÓ
Ngã ba sông đỏ ngầu con lũ sớm
Cầu Hà Kiều nối ngang sông Nậm Thi
Cột mốc hồng sân đền Thánh Mẫu
Chiều hạ san xanh ngắt gió thầm thì
Xao xuyến giữa đoàn người qua cửa khẩu
Một thoáng bâng khuâng nắng gió biên thùy
Chuyện mẹ kể mấy trăm năm trước
Giữ giang sơn ông Vĩnh Phúc đắp thành trì...
Ta đứng dưới tán đa ba trăm tuổi
Nén nhang thơm tưởng niệm thánh thần
Hương ngan ngát la đà sân Đền Thượng
Vọng gác tâm linh biên giới giữa trần.
Biên cương đó ngàn năm thiên định
Máu ông cha đỏ thắm nước Hồng Hà
Xương chiến sĩ chất cao núi Tản
Cho áo, khăn thổ cẩm nở ngàn hoa.
Say sưa giữa đất trời biên giới
Ngã ba sông, đền cổ, nửa cây cầu
Nắng hạ giát đỉnh Hoàng Sơn vàng ruộm
Thành phố Lao Cai rực rỡ sắc màu.
Hoàng hôn trên đất địa đầu
Sáng ngời hào khí dãi dầu quan san.
-
TÂY NGUYÊN THÁNG 3 NÀY
Rả rích ve sầu chang chang nắng
Suối cạn nguồn thác nước ngừng reo
Rừng còn đủ làm khu sinh thái
Nhà dọc đường ,không một bản cheo leo,
Hoa nở trắng đường quan bướm lượn
Đại ngàn bỏ đi trang trại lấn về
Cồng chiêng treo vách Nhà Rông chờ lễ hội
Thổ cẩm ,khăn viền chỉ thấy trong mơ
Gío mải miết đuổi nhau vô định
Đường nhựa dọc ngang thâm sịt đồi xanh
Chim thú tuyệt chủng rồi ai đặt bẫy
Không hoa rừng không ong mật lượn quanh !
Loang lổ đồi,non mảng xanh mảng đỏ
Eđê,Bana,M'nông… muốn phân biệt rõ
Mời vào xem trong các bảo tàng .
Mai một hết rồi những bản sắc riêng !
Mênh mang quá Tây Nguyên nắng gió
Lau lách lụi tàn ,cà phê mọng đỏ
Hồ tiêu xanh giấu nhà sàn trong đó
Hoa dã quỳ thấp thoáng góc đồi xa
Tây nguyên hiện đại và Tây nguyên già
Tranh chấp,trở trăn rùng mình chuyển dạ
Xe máy điện đèn …xoá nhoà tất cả
Khác xưa rồi,Tây Nguyên tháng ba.
-
TA NGHE TRONG TIẾNG CHUÔNG CHÙA
Trở về từ chiến trường xa
Rảo chân tìm lại mái nhà thân quen...
Nào ngờ lỡ lứa hết duyên
Không thành gia thất, cửa thiền nương thân
Áo xanh, máu lửa bụi trần
Cất cùng kỷ niệm tuổi xuân má đào
Cà sa từ bữa Phật trao
Tấm thân trinh trắng buộc vào chúng sinh
Quét chùa tắm Phật tụng kinh
Hóa duyên độ phước an bình người ta
Khác gì xưa chiến trường xa
Miễn mong sao được nhà nhà yên vui...
Bạn bè mỗi đứa mỗi nơi
Đứa thành bất tử, đứa người tha phương
Đứa chồng con ở quê hương
Đứa vang danh, đứa chính trường thành nhân
Đứa nghèo khó, đứa gian truân,
Đứa con dị dạng, độc thân không chồng
Trọn đời chưa biết đàn ông
Thời gian vùn vụt má hồng còn đâu!
Em đi trọn cuộc bể dâu
Vùi sâu kỷ niệm chôn sầu vào tim
Chùa chiều rền rĩ tiếng chuông
Ta nghe trong đó nỗi buồn mênh mang.
-
VIẾT BÊN HỒ LĂK
Hoa sứ trắng hương xưa vương lại
Biệt Điện xanh quạnh quẽ trưa hè
Lúa vào mùa, rả rích tiếng sầu ve,
Còn nguyên dấu Nam triều cương thổ.
Lẩn khuất tàn cao u hoài nỗi nhớ…
Hoàng đế lưu vong giữa đất nước mình.
Kơnia triền đồi ngả bóng rung rinh
Sóng hồ Lak một thời mang mang bạc.
Qúa khứ rồi, trang sử xưa nhàu nát
Lãng đãng mây chiều lẩn giữa ngàn xanh
Nắng phơi vàng dẫy núi vòng quanh
Con đèo dốc ngoằn ngoèo đường thiên lý.
Cuốn hút theo cuộc bão giông thế kỷ
Những bi hùng khắc khoải đam mê
Bỗng trưa nay giữa cõi đi về
Ta đối mặt khoẳnh khắc xưa đất Việt.
-
Ngày mai
Sẽ không còn lầm lũi chuyến phà sang
Sóng đầu bạc dập vùi xô quá khứ
Phù sa bồi gốc bần già ủ rũ
Mảnh trăng non mờ ảo đứng đầu cồn
Bến sông quê ký ức cuộc đời con
Đi xa mãi về mọi miền cổ tích
Con cá hô cựa trụ cầu tĩnh mịch
Dưới tầng sâu mát lạnh nước sông Tiền
Mẹ không còn thấp thỏm tiếng phà quen
Trong khuya vắng con về khung cửa hé
Em bỏ lại kiếp nghèo lặng lẽ
Hoa hoàng hôn rơi lốm đốm nóc mùng
Con đường nhựa mềm đen mịn như nhung
Nườm nượp xe vượt cầu dây chóp nón
Gió mát rượi phập phồng làn tóc uốn
Bóng ai soi trên sóng nước nhạt nhòa,
Xanh thắm dưới cầu cây trái bao la
Mái ngói đỏ tường sơn hồng dãy phố
Không còn nữa trên phà em cười như nắc nẻ
Đêm giao lưu mát rượi gió, xanh trời!
Đi về đâu nữa người ơi
Hoàng hôn tím cánh hoa trôi lục bình.
Phà Rạch Miễu - Xuân Ất Dậu
-
Mái nhà mẹ
Mẹ cười mắt hạc đọng sương
Mây trôi qua tóc, nắng vương trước thềm
Dòng sông đã chảy êm đềm
Hoàng hôn đầy ắp mọi miền làng quê
Bao năm đi dọc lời thề
Mùa gieo, mẹ đã gặt về vàng sân.
Thời gian vương bám bụi trần
Lên da, tóc mẹ mấy lần gió sương
Con đi khắp nẻo quê hương
Vẫn không ra khỏi lòng thương mẹ hiền.
Đầu đông gió lạnh ngoài hiên
Lăn tăn mặt sóng sông quen, bến nhà
Đời con lặn lội phương xa
Chở che vẫn một mái nhà mẹ thôi!
-
Nợ
Dọc đường ngắt một cành hoa
Đặt bên ly rượu trắng ngà… bóng trưa.
Ba chìm bảy nổi gió mưa
Gập ghềnh ngọn thác, nắng thưa cuối trời.
Giọt sầu uống mãi không vơi
Nợ tình trả suốt cuộc đời chưa xong!
Tháng 5/2001
-
Trước nghĩa trang
Lũ kéo về
Mộ các Anh ngập chìm trong nước
Mẹ không nhìn rõ tên Anh,
Mái tóc trắng nhòa đầu sóng
Khói hương thơm quyện gió mây
Vàng sao sáng đài kỷ niệm
Hoàng hôn nghiêng nghiêng hàng cây.
Mùa lũ 2001
-
Xa rồi
Hè này mỗi đứa mỗi nơi
Hết thời áo trắng, hết thời học sinh
Xa rồi cái miệng tươi xinh
Cái tà áo gió rung rinh nắng trời
Xa rồi những buổi sóng đôi
Làm xao xuyến cả hồn tôi bao chiều
Xa rồi cái dáng thương yêu
Cái đuôi sam tóc mỗi chiều người ơi…
Sân trường cánh phượng chơi vơi
Tiếng ve xao xác giữa trời mênh mông.
1999 - 2000
-
Mưa thu
Mưa thu rào rạt Sài Gòn
Tiếng thu
Gõ nhịp
Âm vang
Vơi đầy…
Gặp làm chi để chia tay?
Làm sao biết được kiếp này có duyên.
Thu 98
-
Nắng thu
Chiều thu nắng đổ nghiêng nghiêng
Cúc vàng khoe sắc,
Má em ửng hồng
Véo von con sáo trên đồng
Cánh cò chấp chới
Mấy tầng, trời cao.
-
Giọt mưa trái mùa
Nắng hanh vàng cả mùa đông
Bỗng dưng một trận mưa dông trái mùa.
Cội mai già nẩy mầm tơ…
Sáng nghiêng sương sớm đêm chờ trăng côi.
Đã đành mưa lướt qua thôi
Mầm xanh vẫn nẩy… chơi vơi đón chờ…
Lại non như thủa ngày xưa
Lại tươi như thể hoa vừa gặp xuân
Tinh khôi giọt nước trong ngần
Lão mai tỉnh lại bần thần cuối đông.
Tháng 01/1998
-
Để mà... tương tư?
Nhà em kín cổng cao tường
Mỗi lần qua, lòng lại vương vấn lòng
Hoa vàng cánh mỏng nhớ mong
Lao xao cành lá cõi lòng rối tung.
Về nhà lại ngóng, lại trông
Nào ai có hẹn mà mong mà chờ
Lạ thay những sợi tóc thề
Cứ chao cứ hiện trong mê thế này!
Chiều nay… rồi lại chiều nay
Đường quen, lối cũ hàng ngày vẫn qua
Nhưng mà sao lại nhưng mà…
Vẫn không bước được chân qua cổng này.
Lại tà áo trắng nhẹ bay
Tóc thề buông xõa, cổng này vừa qua.
Còn tôi sao đứng mãi xa
Nhìn theo tà áo để mà… tương tư?
Tháng 11/1997
-
Bão tan
Bão tan nhà cửa nát tan
Sóng thôi cuộn, nước ngập tràn đồng quê
Ghe tàu chìm ngập thảm thê
Cửa sông bến cá bốn bề khăn tang
“Vọng phu”, “vọng tử” khắp làng
Nước mưa nước mắt, thở than thấu trời
Lỡ sinh ra biển ra người
Sao sinh bão tố cho đời đớn đau
Tượng in núi đá khắc sầu
Nhìn đời đau đáu tím màu nhân gian.
1997 - 2007
-
Nỗi nhớ
Những sợi dây cầu Mỹ Thuận
Như hình chiếc nón em mang
Ai đã quét màu vàng chiều hôm
Vào tà áo dài em mặc
Ai phủ màu xanh bát ngát miệt vườn
Lên chiếc khăn em quàng ngang cổ
Ai nhuộm phù sa châu thổ
Vào tấm lòng son sắt thủy chung?
Xuân tung tăng trên những cánh hồng
Hoa ngọc lan thầm thì bên cửa sổ
Ta yêu em - đỏ hồng bếp lửa
Làm sao san sẻ cùng em
Nỗi nhớ
Nắng chiều trước cửa
Cứ rung rinh.
Tháng 2-2000
-
Tình quê
Hương quê thơm góc vườn quê
Ngửa nghiêng cánh bướm mải mê quên chiều.
Đường quê sỏi đá vòng vèo
Bánh xe vội vã lăn theo vô chừng.
Tình quê chân chất lạ lùng
Lỡ thương thương đến tận cùng yêu thương.
Tháng 12 - 2000
-
Ta che rèm
Trăng già bởi có trăng non
Mai già hoa thắm nụ tròn mầm tơ
Bên em vẫn dại vẫn khờ
Quên thời gian bạc tóc tơ trên đầu
Đường đời chìm nổi gặp nhau
Ai đo đếm đủ nông, sâu chữ tình?
Xin người giữ mãi nguyên trinh
Kiếp sau nếu có ta, mình sánh đôi!
Em về chia lại cho tôi
Bài ca nửa nhịp, chân trời ngàn sao
Thơ bay mát dải lụa đào
Mênh mang gió gọi lao xao bến lòng
Hoàng hôn mấy áng mây hồng
Ta che rèm, sợ đầu đông gió lùa.
-
Hồn quê
Se sẻ reo giữa lòng thành phố
Bất chợt hiện về nỗi nhớ quê.
*
Nghiêng trời xanh cỏ bờ đê
Đào phai, mưa bụi bốn bề hoa xoan
Đầm sen lặn lội vịt đàn
Bông hoa súng trắng nhụy vàng ngậm sương
Gió mưa lầy nội con đường
Chiều buông bưng bát cơm thơm hương trời
*
Lang thang gần trọn một đời
Hồn quê khắc khoải trong tôi tháng ngày.
Tháng 4/2005
-
HAI TA
Bỗng một ngày tôi chợt nhận ra
Đôi cánh sen tím hồng hé nở
Chiếc răng khểnh tê mê môi hai đứa
Chiều đong đưa rên rỉ liễu Tây hồ
Sóng sánh vàng xếp lớp lô nhô
Soi gót đỏ bầy sâm cầm nghiêng ngó
Cứ mặc kệ lá cành giăng giăng gió
Xiết chặt thêm hai nửa của chúng mình
Nắng chìm dần xuống đến lặng thinh
Rồi ngà ngọc cùng tôi vành trăng nhỏ
"Về thôi anh ''nhưng làm sao lỡ
Còn gì đâu khi hai nửa tách rời
Đêm chết thèm ngay dưới chân tôi
Hương ngọt lịm bờ môi tê tái tím
Mặc gió trăng cỏ cây bịn rịn
Mặc sương sa giăng rải mặt Dâm đàm.
Hà nội 7/2007
-
GỪI MIỀN TRUNG
Lũ tràn về con chữ chìm theo nước
Bùn ngập sâu bàn ghế bập bềnh trôi
Tháng chín heo may mưa rào cắt cứa
Nát mái trường nát cả trái tim tôi.
Sách dúm dó mực tím nhoè trang vở
Đường vào đời xa tit mù khơi
Nhặt những ước mơ còn vướng lại
Chân trời xa cơn bão nữa tới rồi.
Mẹ thuỷ chung giữ nhà giữ đất
Cằn cỗi ruộng vườn cằn cỗi lo toan
Nắng rát bỏng hoa xương rồng toé mắu
Bão táp phong ba trắng ruộng trắng làng.
Có một thời ta kiếm tìm con chữ
Nắng trộn mưa nghèo đói triền miên
Vời vợi tuổi thơ cất nơi miền gió bão
Trong chiêm bao còn đó những nỗi niềm.
Tháng 11/2007
Trần Đỗ Liêm
-
EM VÀ TA
Kẻ chiếm đoạt bắt đầu từ hai đứa
Bởi nhu cầu hoà nhịp nơi nhau
Duyên có thể từ bao kiếp trước
Hẹn rồi trao không chút cơ cầu .
Ta lang thang trên đời em hoang dã
Bẫy vô hình níu kéo bước chân qua
Không đành để vừa quen đã lạ
Mỗi nụ hôn gần thấp thoáng cuộc chia xa
Đường thiên lý cuối xuân rạo rực
Cháy bỏng môi cháy bỏng ngã ba tình,
Ta lầm lũi bước chân buồn lối cỏ
Em ngẩn ngơ trước ngõ, bóng riêng mình.
Trang thơ Trần Đỗ Liêm
In Trang thơ thành viên
Đăng lúc · Report reply
Hai lần nước mắt tự trào
Dù biết ông đă ngoài tám bẩy
Vẫn nghĩ ông đã sớm đi xa
Ôi một trái tim Sáu lần vì Dân ấy
Đã làm nước mắt ứa mi ta.
Trời đất Việt Nam sao ngày này buồn thế
Nơi mưa sụt sùi ,nơi nắng cháy da!
Ngừng đập thật chăng trái tim rực lửa
Nghì thật chăng một trí tuệ thông minh
Đã toả sáng suốt ba thời kỳ các mạng
Có thể tin không?
Với đất nước,nhân dân
Ông ra đi lúc này
Một mất mát không gì bù đắp.
Lănh tụ cách mạng ra đi đă nhiều,
Có hai lần trong tôi tự trào nước mắt
Là Bác Hồ và ông Sáu Dân.
13/6/2008