Phạm Hồng Hà
-
Số bài viết
12 -
Gia nhập
-
Đăng nhập
Bài viết được đăng bởi Phạm Hồng Hà
-
-
Tiểu sử
Justinas Marcinkevičius (1930-) là nhà thơ, nhà viết kịch, dịch giả người Lít-va. Tốt nghiệp Đại học Vilnius năm 1954. Trong các năm 1960-1965, ông giữ chức Phó chủ tịch nước. Có chân trong Viện hàn lâm khoa học Lít-va. Ông đã dịch thơ của các tác giả Liên Xô, Ba Lan, Phần Lan ra tiếng Lít-va như Puskin, Lermontov, Esenin, Mickiewicz và sử thi Phần Lan Kalevala. Thơ ông đã được dịch sang các tiếng Anh, Nga, Rumani, Đức, Bungari, Hungari, Na Uy, Séc bi, Slovakia, Ucraina và một số ngôn ngữ khác.
Tác phẩm
- Huyết và tro/ Anh hùng ca/ NXB Văn học, Vilnius - 1960
- Cầu gỗ/ Thơ/ NXB Văn học, Vilnius - 1966
- Mažvydas/ Tụng ca/ Vilnius, Vaga - 1977
- Bức tường/ Thơ/ NXB Văn học, Vilnius - 1965
http://pirmojiknyga.mch.mii.lt/Asmenys/marcink.en.htm
Hai người đàn bà
Hai người đàn bà chưa từng bao giờ nói dối
đã coi tôi là người yêu nhất
người duy nhất
Hai người đàn bà dịu dàng quở trách tôi
lặng lẽ mắng mỏ tôi
Hai người đàn bà đã th thứ cho tôi
về mọi điều tội lỗi
Hai người đàn bà điên cuồng kiêu hãnh
về tôi
Người đầu là mẹ tôi
Người thứ hai, mẹ các con tôi
Vũ Tú Nam dịch từ tiếng Pháp
Văn học nước ngoài, số 1-2004/ Hội Nhà Văn Việt Nam
-
Vladimir Galaktionovich Korolenko
(1853-1921)
Những đốm lửa
Cách đây đã lâu, tôi có dịp đi thuyền trên sông Sibiri ảm đạm vào một đêm thu tối trời. Đến khúc sông ngoặt, đột nhiên ở phí trước, dưới những dãy núi tối om, vụt lóe lên một đám lửa nhỏ.
Đốm lửa lóe sáng, chói lọi, rõ thật gần...
- Chà, lạy Chúa! - Tôi sung sướng thốt lên - sắp được nghỉ đêm rồi!
Người lái đò ngoái lại nhìn đốm lửa và lại thản nhiên ra sức đẩy tay chèo
- Còn xa khướt!
Tôi không tin: thì đốm lửa vẫn đây kia, nhoi hẳn ra khỏi bóng đêm mung lung. Nhưng người lái đò hóa ra lại đúng: quả là còn xa thật
Những đốm lửa đêm vốn dĩ như vậy đó. Cứ lấn át bóng đêm mà tiến lại gần, cứ lóe sáng lên, cứ hẹn, cứ làm như ở ngay đó gần gặn mà mồi chài. Có cảm giác rằng, chỉ hai ba chèo nước nữa - thế là đường dài tới đích...Vậy mà - còn là xa!...
Và đêm ấy chúng tôi còn phải bơi thuyền mãi trên dòng sông tối om như mực. Những đốm lửa nhỏ vẫn như gần mà vẫn cứ xa...lập lòe mời nhử.
Giờ đây tôi thường hay nhớ lại dòng sông tối om giữa đôi bờ núi đã che trùm với đốm lửa nhỏ sống động đêm ấy. Cả trước đây cũng như sau này có biết bao nhiêu đốm lửa khác cũng đem cái vẻ gần gặn của mình ra mà mồi nhử huyễn hoặc không phải chỉ riêng một mình tôi. Nhưng cuộc sống vẫn trôi đi giữa đôi bờ ảm đạm ấy, còn những đốm lửa vẫn cứ mãi xa xăm và đành lại phải ráng sức dấn thêm tay chèo...
Nhưng dù sao...dù sao đi nữa ở phía trước - vẫn là những đốm lửa!
(Ngựa tía từ núi thần/ NXB Văn học, 1998)
-
Tiểu sử
René Char (1907-1988), nhà thơ Pháp từng tham gia phong trào sáng tác thơ siêu thực. Tham gia kháng chiến, làm chỉ huy du kích. Tác phẩm: Chiếc búa vô chủ, Những kẻ dậy sớm...
Nguồn: Cái chết, tình yêu, sự sống (thơ hiện đại Pháp)/ NXB Tác phẩm mới, 1989.
Lời ru hàng ngày cho đến ngày cuối
Đã bao lần, biết bao lần
Con người ngủ thiếp tấm thân gọi người
Một lần, chỉ một lần thôi
Con người ngủ thiếp, thân người mất luôn
(Ngô Quân Miện dịch)
-
Tiểu sử
René Depestre (1926) sinh tại Jacmel , nước Haïti. Là nhà thơ kiêm đảng viên Đảng Cộng Sản. Giữ chức giám đốc NXB Cu Ba. Tác phẩm: Rừng cây ánh sáng
Thơ ngợi Đi-tô
Những ngày mai của anh hiện trên mặt em
Như gân lá trên lá cây-ăn-bánh
Miệng em khi cười như chạm trong lửa thắm
Vẻ dịu dàng ánh lên trong đôi mắt em
Như giọt nước long lanh trên tấm cừu sinh động mượt êm
Sóng gợn reo say - trên làn thân thể
Và lòng anh yêu da thịt của em
Như tiếng chuông ngân đổ hồi giòn giã
Đổ liên hồi trong máu - khiến say thêm
Anh như những sông bỏ dòng chảy cũ
Để chảy vào lòng cát sắc em xinh
Anh như những đàn én bay về tổ
Mỗi năm về tìm - trời của em xanh
Mùa lại mùa anh vững bền vẫn ở
Trong mùa xuân bất tận những mơn trớn ân tình
Anh ở trên đất này đặng mà vĩnh viễn
Được lở và bồi trong sóng mạnh của em
Em ái ân hồi anh lại mỗi đêm
Như một trái tim lại hồi nhịp đập
Đời em, hỡi nàng tiên rượu bồ đào trong vắt
Đời em, hỡi niềm say mía ngọt mê ly
Đời em tạo đời anh như một ngọn lửa gỗ cháy diệu kỳ
Ngọn lửa in lên chân trời vô biên của nhân loại
Xuân Diệu dịch
(Những nhà thơ da đen/ NXB Văn Học, 1962)
-
Tiểu sử
Philippe Langlet là giáo sư sử học, tiến sĩ chuyên ngành phương đông, đã dịch thơ thiền của Việt Nam ra tiếng Pháp. Ông giảng dạy ở Đại học Paris VII. Ngoài các công trình khoa học, Philippe Langlet còn sáng tác thơ.
Vĩnh biệt người yêu dấu
Một sớm giữa mùa hè
khi mặt trời xanh xao xuyên qua mây xám
khi tiếng rì rầm thành phố lại tái sinh
bàn tay em đang ấm áp đã hóa thành bất động
Với em không quá khứ, không tương lai, không hiện tại
một hồi quang của vĩnh cửu chỉ thế thôi
như lớp bọt gợn trên làn sóng
Trong giây phút tôi chỉ thấy nước phẳng lì vô tận
Xin em cho tôi nhỏ một giọt lệ, nỗi tiếc thương
vì những vuốt ve nay không còn nữa
vì vòng tay ôm chỉ là trống rỗng
trước lúc khiến sao cho hóa đá trái tim này
để cảm nhận em như hạt châu toàn bích
bông hoa mong manh mà từ nay bất diệt
Mống cầu vồng bảy sắc khải thiên
Xin em mà đôi câu đôi nét
một cầu nối thế giới này với chốn bên kia
Sớm tinh mơ mùa đông đứng chờ xe buýt
tôi thấy vô số ngôi sao chấm sáng long lanh
trong vực thẳm bầu trời hay trên đường nhựa ướt
Một ngôi sao đang gọi tôi kia
Tôi chưa biết em mà đã tìm thấy được
Thế mà em đã đáp lời tôi
Tôi nhìn thấy một khu vườn đẹp
Trước lúc mặt trời lên
Trên cây một con chim xinh đậu lại
Không còn khu vườn chỉ còn thấy cánh chim
Tia sáng đầu tiên vuốt ve lớp lông chim trắng
Không còn cánh chim chỉ còn lại vuốt ve
Ở chốn này đây không còn gì nữa
duy chỉ còn tình của chúng ta
Đầm nước nơi rừng cây xa cuối
Nắng hạ vài tia hắt lại giữa trưa
Vùng quanh quất lục xanh thẫm màu lam biếc
Nào ai biết nụ cười đầm nước
chỉ mình em may mắn nở bên nơi
từng được thấy em trong khoảnh khắc
ngày nắng lên
trong mặt nước gương soi
Bông huệ trắng kia óng vàng điểm nhụy
lãng đãng đu đưa theo ngọn gió sớm mai
Rỡ ràng dưới trời xanh giữa hai cơn mưa trút
trong nắng mới
khu vườn của thân phụ mình đây
Nếu ta hái tặng em bông hoa đỏ
nó sẽ chỉ còn là con chim chết mà thôi
Mang dáng hình nào, sao ta lại bận tâm chuyện đó
Một khi chúng ta đã vĩnh viễn chiếm hữu rồi
giữa trái tim ta, sẽ là bất biến?
Một mảnh trời phớt xanh bên mây màu thắm
Thoáng bất chợt chỉ trong khoảnh khắc
giữa cây mùa đông qua cửa sổ con tàu
Rồi chốc lát bình minh lay rừng cây thức tỉnh
Tấm áo em tuyệt mỹ
chỉ thấp thoáng mà mãi là hiển thị
Mây đẹp biết bao
Hoa ngào ngạt biết bao
bởi không có đâu là chừng mực
Một tia nắng bừng lên
trên một giọt sương nơi cỏ dại
trên mảnh thủy tinh hay một hạt cát thôi
trên đường phố nơi đây bụi bặm
vật thuần khiết diệu kỳ tức thời mà hoàn chỉnh
Nụ cười em nét bí ẩn thường khi
vẫn còn hơn cả vật diệu kỳ
rút cục cho ta được đọng ngưng mình trong đó
Bến tàu điện ngầm
Bờ mép trắng xỉn màu, đường ray lấp lánh
đá sỏi xạm đen hẳn có chuột kèm theo
sành sứ hắt lên trắng mờ loáng bóng
ánh sáng tỏa từ mọi lúc mọi nơi
Phải chăng ta đã nhìn thấy mọi điều này
hay đó là tấm gương tình yêu bất chợt
đốt cháy bừng nơi trái tim ta
mang cho nơi đây nét diệu huyền trong phong thái
bởi lẽ ta đang chờ đợi em về
Chiếc ghế dài cũ thay lớp sơn, chẳng còn tinh tươm nữa
trên lề đường xám vài chiếc lá vàng rơi
một nhánh cỏ vẫn mọc từ khe nứt
người đi qua
Vạn vật xoáy quanh tôi
Tôi nhìn thấy nụ cười em bất chợt
tôi gọi em, em tan biến mất rồi
Khi thức giấc đột nhiên tôi thấy
những cành táo trên cây trong động thái khẽ khàng lay
nơi cửa sổ ánh đèn đường hắt bóng
em có nói chăng đó là điều không có thực
rằng chỉ là hình ảnh mộng mơ?
Nếu nghĩ tới em, người đã đi xa
mà hạnh phúc dâng lên
trong tim tôi tràn ngập
thiên hạ có nói rằng ảo giác mà thôi?
Sao ta phải bận tâm đoái hoài sau cánh cửa
cảnh tượng khu vườn nở rộ long lanh
những bông hoa cuối cùng mùa hạ
những chiếc lá đầu của tiết thu sang?
Tôi nấn ná bên vết lưu cát bụi
bên giọt sương kia
bí quyết mở cánh cửa bất tường vào khu vườn đích thực
nơi tôi chiêm ngưỡng em bừng sáng rỡ ràng
vào lúc mở đầu một ngày mới mẻ
Xiêm áo đẹp phẳng lì, mãi hoài bất động
nơi tủ đối diện ta, dựng đứng nỗi cô đơn
sợi tóc đen bất ngờ tìm ra trong cuốn sách
sợi tóc của em, đó chính là em
Có hề hấn gì, ngắn hay dài, cõi trần này hay chốn đó
màu tóc và làn uốn lượn đã đủ rồi
Trong giây phút ta đà phát hiện
thực sự em đang hiện diện nơi đây
để cùng ta thổ lộ mối tình này
Đặng Anh Đào dịch
(Văn Học Nước Ngoài, số 5 - 2008/ Hội Nhà Văn Việt Nam)
-
Tiểu sử:
Lea Golberg (לאה גולדברג, 1911 - 1970) là nữ thi sĩ Israel, sinh tại Kovno (Lithuania). Học triết và tiếng Semitic. Trở thành giảng viên năm 1954 tại Đại học Hebrew. Là một trong những thi sĩ nổi tiếng nửa thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Năm 1970, giành giải thưởng văn học Israel. Tác phẩm chính: Tuyển tập thơ (1973-1979), Ánh sáng ven bờ mây (1972).
Thơ Ix-ra-en đương đại/ NXB Văn học, 1994
Cuộc đi không tên
Trong nhiều tuần không ai gọi tôi
Lý do dễ hiểu
Con vẹt trong bếp
Không biết tên tôi
Mọi người trong thành phố
Không biết tên tôi
Tên tôi không có tiếng nói không có tiếng động không có âm thanh
Trong bao ngày tôi ra đi không tên
Trên những đường phố mà tên chúng, tôi đều biết rõ
Đôi khi tôi nhớ đến người
Mà tôi không biết rõ tên
Nguyễn Xuân Sanh dịch
-
Vương Quý Bộ (nhà thơ hiện đại Trung Quốc, chưa rõ tiểu sử)
Đi qua vườn táo
Dòng suối trong trong nước chảy hoài
Quanh co đường nhỏ thông lên núi
Đồng chí liên lạc chí nguyện quân
Một ngựa một súng đang rong ruổi
Ngựa phi vun vút như gió bay
Nương theo đường núi rẽ đi tới
Lên núi cao, đường núi khó đi
Bên đường bỗng hiện vườn táo nhỏ
Lá cây xanh biếc, quả ngọt ngào
Tiếng hát trong trẻo ngân theo gió
Chiến sĩ buộc ngựa, nhìn bốn bên
Miệng khát, muốn tìm dòng suối nhỏ
Cô gái trẻ tuổi hát bài ca
Trong vườn, chân nhón, tay với hái
Chợt nghe vó ngựa vang từ xa
Vội bỏ lẵng xuống, ngừng việc lại
Thuận tay, rẽ lá, mắt nhìn ra
Đồng chí chí nguyện lên sườn núi
Người đã mệt nhoài, ngựa cũng chồn
Chiến sĩ vung roi giục chiến mã
"Đồng chí, đồng chí, chờ tí thôi
Giải khát, hãy dừng, ăn ít quả"
Chiến sĩ vung tay khẽ mỉm cười
Miệng nói "Cám ơn! Cám ơn quá!"
Quả táo như lửa đỏ làm sao!
Tâm tình cô gái nồng như lửa!
Mắt nhìn quả táo, lòng ngọt ngào
Không uống nước mà không khát nữa
Vung roi giục ngựa lên núi cao
Chiến sĩ thẳng tới chỉ huy sở
Hoàng Trung Thông dịch
(Về Diên An/ thơ Trung Quốc, NXB Văn học - 1961)
三洲歌
陈子龙
相送巴陵口,
含泪上舟行。
不知三江水,
何事亦分流?
Bài ca Tam Châu
Cửa Ba Lăng đưa tiễn
Lệ dàn lên thuyền đi
Nào hay Tam Giang thủy
Sao cũng tách chia dòng?
hongha83 dịch
-
Tiểu sử:
Ludvig Holstein (1864 - 1943) nhà thơ Đan Mạch
(Văn học nước ngoài, số 2 - 2001/ Hội Nhà Văn Việt Nam)
Huệ trắng
Đến đây, các em tìm chi
Mặc áo tươi trẻ nhu mì khoan thai
Mặc áo thanh khiết thon dài
Tưởng như chạm trổ mảnh mai xà cừ
Trời hoàng hôn những chiều thu
Mầm tơ quý tộc, ấy từ dáng em
Ôi mùi hương thắm êm đềm
Hiểu lời thông điệp dịu im ngọt ngào
Của lòng vạn vật thấp cao
Một mùi hương thắm đi vào thiên thu
Mùi hương thơm tự bao giờ
Thầm nghiêng phủ khắp hồn thơ anh rồi
(Nguyễn Xuân Sanh dịch)
-
Tiểu sử:
Dora Gabe (Дора Габе, 1886 - 1983) là nữ thi sĩ Bungari, sinh gần Varna. Học trung học trong nước. Đã học ở Pháp và Thụy Sĩ. Bạn của Nezval (Séc) và Yavorov (Bun). Từng giữ chức Chủ tịch Hội Văn bút Bungari. Bà chủ yếu sáng tác các tác phẩm giành cho thiếu nhi. Tác phẩm thơ có Mặt trời ơi hãy đợi (1967)
(Các nhà thơ Bungari/ NXB Sviat, 1985)
Sức nặng
Cả người tôi đã hóa thành thương mến
Thành xót thương cho nỗi khổ thế gian
Thành cảm thương cho những người chết sớm
Thành vui vầy cho những trẻ sơ sinh
Niềm thương ấy nặng trĩu tôi đến nỗi
Khiến tôi như đứng lặng rụng rời
Đến nỗi làm tôi bị một vết thương
Cho đến chết
Trái tim tôi đã hóa thành tảng đá hoa cương nóng nung
Lại bị mặt trời làm cho cảm sốt
Khối nặng của tôi dùng được việc gì?
Đem chất lên vai ai cho được?
Chẳng hơn sao
Nếu đem xích tôi ngay tại chỗ
Đem ấn tôi xuống đất
Như một tảng đá
Dính chặt với đất đai?
Lúc ấy may ra tôi cảm thấy nhẹ người...
(Xuân Diệu dịch)
Giác quan
Bằng mỗi một tế bào tôi, tôi nhận thấy
Cái động rung của những vật hữu hình
Và cái xôn xao ẩn trong không khí
Đầy căng sức điện từ trường
Bằng tất cả da thịt tôi sinh sống
Tôi cảm nghe mạch đập đi trước thời gian
Của những mầm chồi sắp sửa nổ tung
Và tôi thấy một trái non sớm kết
Ở những con chim tự tình ríu rít
Khi tiếng gọi của chim sơn ca đánh thức
Những mộng mơ của tuổi thanh xuân
Bằng hàng triệu ăng-ten rất mảnh
Đôi mắt tôi tiếp đụng với cuộc đời này
Và tham lam thu hút nó mê say
Trong khi đó tư tưởng tôi đau đáu
Thấu xuyên len vào những tâm hồn người
Đem đến cho họ cái cuộc đời mới nở
Chính cuộc đời làm tất cả nảy sinh
(Xuân Diệu dịch)
-
Tiểu sử:
Claudine Lecoq (1956) là nữ thi sĩ Pháp. Tác phẩm: Những quyển vở xanh (1984), Phương Nam (1991)
(Tiếng nói trong khoảng cách/ NXB Hội Nhà Văn, 1994)
Khúc du ca
Lết một chân tôi chạy đến lả người
Sẽ dừng lại dưới chân lèn đá
Cái bóng xù xì đón nhận tôi và chở che tôi
Tôi đang xa những ngả suối, trái cây
Chỉ còn lại cái bánh trong túi thủng
Con mèo hoang này trong đêm liếm láp tôi
Lòng bàn tay làm bát, nơi cuộc sống tự cuốn tròn
Trên đường người ta đi chẳng còn gì khác
Hỡi tình yêu bao bọc vĩnh hằng ta
Một ngưỡng cửa, một bậc thang, một ngai báu
Ta hay đâu ngươi là khúc du ca
Ở đằng kia, dưới lều đen của người nuôi lợn
Nối lại mắt xích đời vô định
Hỡi bóng đêm, luồng sáng này ta thắp cho ngươi
Ngọn lửa hừng trên ngọn nến im hơi
(Hoàng Minh Châu dịch)
Không đề
Huyết lực tôi ngủ đầu ngón tay tôi
Nằm giữa cánh đồng này cùng những bông dã cúc
Tôi một mình, không đủ cả cho tôi
Kẻ giản dị nhất, lôi thôi nhất trong những cô bé nhất
Chân trần đi trong nội cỏ nụ vàng
Nơi chỉ có mặt trời ban trưa cho một nụ hôn
Giữa đám cỏ cao bên bờ cái chết
Tôi chính là đứa trẻ con cuộc sống đón về
Ngọn gió lùa tắt cái nồng mùa hạ
Dẫu tôi làm gì vẫn còn luôn nhịp bước
Xa những bông hoa đung đưa và làn gió
Sợ trái đất đi lên và lại bắt đầu
(Hoàng Minh Châu dịch)
-
Tiểu sử:
Carlos Baral (1928) là nhà thơ Tây Ban Nha, sinh ở Barcelona và sống ở đó. Làm giám đốc một nhà xuất bản văn học. Làm thơ theo phương hướng của B.Brecht gắn liền với những vấn đề xã hội và quan điểm giai cấp.
Tác phẩm:
- Những dòng nước được phục hồi
- Mười chín nhân vật trong lịch sử
(Thơ Tây Ban Nha chiến đấu/ NXB Văn học, 1973)
Người ra giữa biển
Nhân tôi biết tên các loài cá
Cả những loài rất lạ
Tên những bãi ngồi câu
Những tảng đá ngầm rất vắng rất sâu
Họ để cho tôi lục vào rổ nghề của họ
Sờ nhấc lên từng chiếc rổ
Họ kể cho tôi không giấu giếm tí nào
Những chuyện trong nghề không dễ hiểu đâu
Bởi vì tôi hiểu về buồm về lưới
Cách sử dụng cọc chèo bánh lái
Họ mang tôi đi trong những chuyến ra khơi
Tặng cho tôi phần việc một con người
Tôi cảm thấy đôi tay hồng lên kiêu hãnh
Họ nắm những dây chài
Khi một mùi cá tôm nồng mạnh
Thấm vào tôi
Tôi biết rõ về cuộc đời chài giản dị
Cảnh sống sơ khai, bất ngờ như cơm bữa
Nhưng cái biết kia chỉ là vô ích mà thôi
Họ làm sao nói hết được cho tôi
Hay tôi làm sao mà hiểu được
Cái sống cuả họ giữa những ngày cơ cực nhất
Những buổi kiên tâm cay đắng hàng tuần
Khi gió bấc trở về gặm nhấm ruột gan
Mắt lục lọi các chân trời đến mệt
Biển mờ dần đường nét
Biển như chiếc mẻ chai quá nửa cắm vào bùn
Như một điều đáng căm, như chiếc bẫy
Cho ai kia đang vừa đi vừa chạy
Mắt như mù dưới từng trận mưa tuôn
(Chế Lan Viên dịch)
Thơ Sergei Esenin
In Thơ dịch - Dịch thơ
Đăng vào
Thi sỹ
Anh xanh gầy. Nghĩ con đường khắc nghiệt
Trong hồn anh những ảo ảnh ngập đầy
Cuộc đời giáng những đòn đau giữa ngực
Những hoài nghi anh uống mãi đến say
Thi sỹ có mái đầu chải lệch
Vầng trán cao hằn sâu những nếp nhăn
Những ảo mộng huy hoàng đầy quyến rũ
Rực cháy lên trong bức họa lặng trầm
Căn gác xép mốc meo chật chội
Thi sỹ ngồi. mẩu nến nhói mắt anh
Cây bút chì trên tay trong đêm tối
Là chứng nhân bao tâm sự âm thầm
Thi sỹ viết bài ca buồn sâu lắng
Những bóng hình dĩ vãng dậy trong tim
Những âm thanh trong tâm hồn vang vọng
Sớm mai anh mang đổi hết thành tiền
1910-1912