Jump to content
duonghoanghuu

"Thi vân Yên Tử" của Hoàng Quang Thuận có phải thơ nhập đồng ??

Recommended Posts

Trên trang chính thotre.com đã có bài "GS Hoàng Quang Thuận: 'Tiền nhân mượn bút tôi viết thơ'"

và sự kiện hai tập thơ “Thi vân Yên Tử” và “Hoa Lư thi tập” gây dư luận nhiều chiều trong nước và được quảng bá ra nước ngoài trong thời gian chóng vánh, đươc HNV mở hội thảo, Chủ tịch Hữu Thỉnh tặng hoa và tôn vinh GS. HQT..

Văn đàn cả nước kinh động. Và đã có những nhân chúng, chứng cứ được tìm kiếm đưa ra để soi sáng cái huyền ảo thơ thần này .

Xin xem : "Thi vân Yên Tử" của Hoàng Quang Thuận có phải thơ nhập đồng ??

Luật sư Nguyễn Minh Tâm

 

 

http://www.trannhuong.com/news_detail/15153/

 

(Trích)....... so sánh của tôi là : Nêu những đoạn văn trong cuốn sách của tác giả Trần Trương, sau đó là bài thơ của anh Hoàng Quang Thuận trong tập “Thi vân Yên Tử” do Nhà xuất bản Hội Nhà văn, xuất bản tháng 3/1998 để người đọc cùng suy ngẫm.

***

1. Trang 20-21 cuốn sách của Trần Trương (sau đây gọi tắt là cuốn sách) viết :

 

Hồ Yên Trung nằm ở ngang lưng núi. Hồ rộng hàng ngàn mẫu, nằm lọt giữa bốn bề núi biếc. Nước từ khe suối đổ về. Đôi gò bồng đảo bập bềnh trên sóng nước giữa hồ. Bồng đảo phủ đầy thông… Thỉnh thoảng, một vài chú cá to phởn chí, tung mình lên cao rồi rơi xuống, tạo thành quần sóng lan xa, lan xa mãi.

Ở một góc hồ, thấp thoáng trong khe núi, bầy le le, vịt trời vui đùa nhau, tung cánh… Những đêm trăng sáng, lòng hồ đầy ánh trăng. Bốn bề im ắng, chỉ nghe tiếng chim gù trên núi. Thực là một bức tranh sơn thủy hữu tình… Hồ Yên Trung – Nàng Công Chúa Ngủ Quên nay đã thức… Tạo hóa khéo bày tuyệt tác của thiên thiên. Được kết tụ bởi mây trời non nước thanh hương sắc con người. Nàng vô tư không một chút ưu phiền”.

- Trong bài thơ “Hồ Yên Trung” (trang 15), anh Thuận viết :

 

Yên Trung vắt vẻo ngang lưng núi

Bốn bề mây biếc sóng lô xô

Đôi bồng đảo bập bềnh trên sóng

Cả rừng thông xao động mặt hồ”.

Tạo hóa bày tuyệt tác thiên nhiên

Kết tụ bởi mây trời non nước

Nàng vô tư không chút ưu phiền

Ngắm sao trời đầu gối Hoa Yên.

 

- Trong bài “Đêm hồ Yên Tử” (trang 17), anh Thuận viết :

 

Cát vàng thoai thoải sóng lao xao

Cá to phởn chí nhảy lên cao

Le le xanh biếc đùa tung cánh

Chim gù trên núi cảnh tiêu dao

Sơn thủy hữu tình động tiên đào

Lạc đường Lưu – Nguyễn đếm trời sao

Lòng hồ đầy ắp đêm trăng sáng

Vua Trần thưởng nguyệt, nhớ năm nào.

2. Trang 24, cuốn sách viết :

 

Đến hẻm núi kia có ba tên cướp nhảy ra chặn đường, vua Trần khoan thai ra hiệu cho Bảo Sái cho chúng vài lạng bạc, cả suất cơm chay để độ đường. Đoạn ngồi trên mình ngựa, Ngài thuyết giáo, thức tỉnh từ tâm, đoạn trừ tam độc trong lòng chúng…

… Cả ba quỳ sụp xuống lạy tạ và hứa rằng “ sẽ trở về lương thiện làm ăn”. Kể từ ngày đó, chúng bỏ nghề đao búa, chăm chỉ nghề nông, siêng làm công đức xây dựng chùa miếu, trở thành các tín đồ ngoan đạo của Trúc Lâm. Và từ độ ấy, nạn cướp nơi đây được tiệt trừ. Con đường dốc gập ghềnh nơi hẻm núi, kẻ lại người qua được bình an”.

 

- Trong bài “Kẻ cướp chắn đường” (trang 19), anh Thuận viết :

 

Ba tên kẻ cướp nhảy chắn đường

Vua Trần cho bạc lẫn phần cơm

Nhẹ nhàng thuyết giáo trừ tâm độc

Cả ba quỳ lạy hứa hoàn lương

Bỏ nghề đao búa thiện giáo đường

Sơn lâm từ ấy hết tai ương

Gập gềnh hẻm núi người qua lại

Bình an vô sự hết đạo cường”.

3.Trang 29, cuốn sách viết :

 

“ Trưa hè oi ả. Tiếng suối mùa mưa reo réo rắt hòa với tiếng chim rừng ca lảnh lót. Hoa rừng muôn sắc tỏa hương theo gió thơm ngào ngạt. Bụi đường trường quyện lẫn mồ hôi khiến cả hai bức bối. Vua Trần đóng khố, nhoài mình nơi dòng nước trong xanh. Dòng suối cuốn trôi bụi trần ra sông biển. Kể từ dịp ấy, suối được đặt tên : Suối Vua Tắm”.

 

- Trong bài “Suối Tắm” (trang 20), anh Thuận viết :

 

Trưa hè oi ả tiếng suối reo

Chim ca lảnh lót giữa lưng đèo

Hoa rừng hương sắc hương theo gió

Đàn cá xuôi dòng nước trong veo”.

4. Trang 34, cuốn sách viết :

 

“ Phía bên kia cầu là cổng tam quan, dáng vẻ cổ kính, đắp nổi đôi câu đổi viết theo chữ thảo “Cổ tự lưu danh Linh Nhâm Tự”… Xung quanh chùa xum xuê cây trái. Quả trứng gà sai chíu chít vàng ươm. Quả hồng đỏ thắm như hàng trăm chiếc đèn lồng treo lơ lửng. Quả mận tím trĩu cành lúc lỉu… Gần đây, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Linh Nhâm là tên của một vị Thiền sư đã được Tổ Trúc Lâm giao xây dựng ngôi chùa và nhiều năm trụ trì ở chùa này. Tên của Thiền sư được đặt tên cho chùa…”.

 

- Trong bài “Chùa Cầm Thực” (trang 26), anh Thuận viết :

 

Tam quan đắp nổi Linh Nham Tự

Thiền sư có phải đặt tên thầy

Mận chín trĩu cành lúc lỉu quả

Trứng gà chiu chít cả trong mây

Linh Nham đâu khác nơi tiên cảnh

Hồng đỏ như trăm đèn lồng cầy…

5. Trang 40, cuốn sách viết :

 

“ Thưở xưa, cánh đồng Nam Mẫu nước ngập trắng. Từ dốc Quàng Hái, muốn vào Yên Tử, phải đi bè mà vào. Hay tin Vua Trần vào Yên Tử, các cung tần mĩ nữ của triều đình đã tìm về, gặp Vua ở tại con dốc này. Họ than khóc thảm thiết, xin Vua quay trở lại triều đình… Vua cho lập đàn tràng cầu Phật Tổ Như Lai. Vài ngày sau, nước ở hồ Nam Mẫu rút hết. Lòng hồ phơi ra, khá bằng phẳng. Đất nơi đáy hồ thật màu mỡ. Dân bản ùa ra bắt tôm, cá, khai khẩn bãi hoang, thành ruộng vườn. Cánh đồng Nam Mẫu được khai sinh”.

 

- Trong bài “Làng Cung Nữ” (trang 28), anh Thuận viết :

 

Làng Mụ, Làng Nương đường Nam Mẫu

Xưa kia nước ngập trắng lòng hồ

Vua Trần thương xót đoàn cung nữ

Lòng trung không trở lại kinh đô

Vua lập đàn cầu Phật Như Lai

Nước hồ rút hết ruộng đất dài

Đáy hồ mầu mỡ - tôm cùng cá

Làng Mụ, làng Nương được sinh khai.

6. Trang 53, cuốn sách viết :

 

“Cá tôm say nước nhảy lia thia. Trăm hoa khoe sắc bên bờ suối… Mới hay chín suối chỉ chung một dòng… Con suối cắt chia tuyến đường Hạ Kiệu – Nam Mẫu thành chín đoạn”.

 

- Trong bài “Chín suối chung một dòng” (trang 36), anh Thuận viết :

 

Trăm hoa khoe sắc bên bờ suối

Cá tôm say nước nhảy lia thia

Mới hay chín suối chung dòng một

Đường đi Nam Mẫu suối cắt lìa.

7. Trang 79-80-82, cuốn sách viết :

 

“ Hãy vào Lăng Quy Đức. Lăng quây bốn mặt thành vuông vức, bao quanh ngôi tháp cổ… Mái tường lăng lợp bằng ngói mũi hài, đổ về hai phía, dáng cong theo dáng mái chùa…Mặt ngoài các tảng đá chạm nổi hoa văn sóng nước hình quả núi, đường nét cách điệu uốn lượn rất tinh tế…Bệ tháp tạo nên bởi hàng chục phiến đá xanh ghép lại…Tầng đầu mở hướng chính nam, bên trong thờ tượng Trần Nhân Tông ngồi thiền ở thế liên hoa, vẻ mặt dung dị, cảm thông, thanh cao và trí huệ… Thi thoảng vẫn thấy xuất hiện cặp rắn đen nằm chầu bên tượng Tổ trong tháp. Trông thấy bóng người, rắn thu mình ẩn núp vào trong… Bốn cây đại cổ, thân dáng hình rồng đứng nép sau tường Lăng Quy Đức, lá rủ vào sân lăng. Cành đại trổ đầy hoa. Hương hoa thơm ngào ngạt. Cánh hoa rắc vàng sân mộ Tổ”.

 

- Trong bài “Lăng Quy Đức (trang 43), anh Thuận viết :

 

Lăng quây vuông vức bốn mặt thành

Ngói hài hai phía dáng thanh thanh

Mặt ngoài đá chạm hoa văn sóng

Bệ tháp nằm trên phiến đá xanh

Tầng đầu mở cửa hướng chánh nam

Vua Trần nhập diệt cõi Niết Bàn

Rắn đen một cặp chầu bên tượng

Nền Lăng xưa chính Ngọa Vân am.

Hai cây đại cổ dáng hình rồng

Đứng nép bên tường đã trổ bông

Hương hoa thơm nát vườn mộ Tổ

Ngày xưa Tam tổ đã vun trồng

 

8. Trang 84, cuốn sách viết :

 

“ Những đêm trăng sáng, bên tháp ngắm trăng thật thú vị. Trăng treo trên cành Tùng. Trăng rắc vàng trên cánh hoa Đại sực nức hương và đính hạt sương đêm. Trăng gắn váo đỉnh Tháp . Mỗi bước trăng trôi, cảnh vật nơi đây lung linh huyền ảo”.

 

- Trong bài “Trăng Yên Tử (trang 46), anh Thuận viết :

 

Trăng treo lơ lửng trên cành Tùng

Trăng rắc vàng lên cánh hoa nhung

Sương đêm sực nức mùi hoa đại

Mỗi bước trăng trôi giữa núi rừng

Lung linh huyền ảo ánh trăng rơi

Tiếng hạc trong đêm tận cõi trời…

9. Trang 98, cuốn sách viết :

 

“Trong ngách hang, có một núm đá, nước nhỏ tí tách từng giọt một, cả đêm chưa đầy một bát con. Nhà sư gọi đó là sữa mẹ. Một điều kì lạ : Khi bát nước đầy, từ núm không nhỏ thêm giọt nào nữa. Nền chùa sạch khô không giọt nước thừa tràn”.

 

- Trong bài “Sữa mẹ” (trang 52), anh Thuận viết :

 

Ngách hang núi đá núm vú con

Sữa mẹ linh thiêng nhỏ giọt tràn

Nhỏ dần từng giọt đêm đầy bát

Nước đầy chỉ một bát con con.

10. Trang 103, cuốn sách viết :

 

“ Bóng Tùng thấp thoáng bên ô cửa. ngày nay, các “ông” Rồng xanh thi thoảng lại xuất hiện… Những lúc trở trời, các “ông” bò ra nằm la liệt… Một con rắn lớn từ xà ngang buông mình xuống ban thờ, náu mình vào Tượng Phật nhìn ra”.

 

- Trong bài “Rắn xanh Yên Tử” (trang 31), anh Thuận viết :

 

Bóng Tùng thấp thoáng bên ô cửa

Rồng xanh thi thoảng nghỉ trên bàn

Mấy ông rắn lớn nằm trên mái

Náu mình tượng Phật ngắm giang san.

11. Trang 108, cuốn sách viết :

 

“Quanh am là rừng trúc bạt ngàn. Trúc chen nhau mọc dưới tán lá của rừng cây cổ thụ. Trúc lách qua kẽ đá nền am, vươn lên những đọt măng mập mạp. Đây là phế tích Am Thiền Định. Xưa chưa dựng chùa, các nhà sư tu hành nơi am cỏ, hòa mình với chim muông, với thiên nhiên hoang dã”.

 

- Trong bài “Am xưa” (trang 58), anh Thuận viết :

 

Trúc lách qua kẽ đá nền am

Đọt măng mập mạp giữa đá vàng

Bạt ngàn trúc biếc chen hoa nở

Gió thổi lau thưa vọng tiếng đàn.

12. Trang 110, cuốn sách viết :

 

“Thác vàng còn lớn gấp bội phần. Vách đá cao dốc đứng. Nước từ đỉnh dốc tuôn trắng xóa, khác nào dải lụa khổng lồ. Ngọn nước như từ trời đổ xuống. Cây rừng khép tán, đứng dưới chân thác ngước nhìn lên, ta chỉ thấy mảnh trời trên ngọn tháp. Nhà văn Vũ Khai đặt tên cho thác là “Thiên Thủy” (nước trời). Với Thác Vàng, nước không hề khô cạn”.

 

- Trong bài “Thác Vàng” (trang 54), anh Thuận viết :

 

Ngọn nước như từ trời đổ xuống

Cây rừng khép tán nép bên khe

Mảnh trời ngọn tháp thiên thu thủy

Đâu biết nơi đây có nắng hè.

13. Trang 111, cuốn sách viết :

 

“ Rừng ở đây nguyên sơ và tuyệt đẹp. Cây cổ thụ vươn cao, xòe tán rộng. Rừng già âmn u. Ánh nắng mặt trời không lọt rơi xuống đất…Dây leo chằng chịt, vắt từ cây này sang cây kia. Một thế giới chim muông, hoa lá dần hiện ra…. Cành khô kêu răng rắc dưới chân. Hương cây, lá mục nồng ngai ngái. Trên đường, từng đoạn lại thấy cây Tùng cổ, như thể người xưa đánh dấu đường”.

 

- Trong bài “Đường rừng” (trang 22), anh Thuận viết :

 

“ Cổ thụ vươn cao xòe tán rộng

Rừng già nắng lọt đốm hoa rơi

Dây leo chằng chịt vắt cành lá

Chim rừng líu lót với hương trời.

Cây khô răng rắc dưới chân đi

Lá mục nồng ngai hoa từ bi

Trên đường lác đác cây tùng cổ

Thợ trời khéo đặt cảnh thiên trì.

14. Trang 126, cuốn sách viết :

 

“ Gọi là chùa Vân Tiêu, bởi chùa tọa lạc trên triền núi phía Tây dãy Yên Tử. Dãy núi như trường thành chắn ngang luồng gió biển thổi vào. Hơi nước tới đây, ngưng đọng lại thành mây. Mây, gió bị chắn ở sườn Nam, được thoát ra nơi triền núi phía Tây. Mây trôi lờ lững trên triền non Yên Tử, tới đây lập tức bị tiêu tan. Nên dù ở gần đỉnh núi, chùa Vân Tiêu ít khi bị mây mù che phủ, khác hẳn chùa Bảo Sái ở cùng một độ cao. Ở nơi mây cứ đến là tan, nên chùa mang tên là Vân Tiêu… Phía trước cửa chùa là vườn tháp chín tầng, giống như Hòn Ngọc… Cả khối nặng tòa tháp đè lên lưng của một ông rùa đá to lớn…”.

 

- Trong bài Chùa Vân Tiêu (trang 50), anh Thuận viết :

 

Vân Tiêu quay hướng phía Tây phương

Dãy núi Yên Tử án thành đường

Mây trôi lờ lững trên Yên Tử

Tùng xanh lãng đãng bóng trong sương

Mây đến Vân Tiêu mây tự tan

Chín tầng chùa tháp giữa non ngàn

Im lìm trên một ông rùa đá

Hoa cười rung cánh khóm địa lan.

15. Trang 135, cuốn sách viết :

 

“ Chóp núi cách tượng An Kỳ Sinh 721 mét, ban đầu, đường đi trên núi khá bằng phẳng, qua một vạt rừng cây lúp xúp, một vạt rừng cây cảnh tự nhiên, chỉ cao hơn đầu người một chút, gốc rễ còi cọc, cong queo và mốc thếch, tô điểm những đóa hoa trà mi, hoa trứng gà, hoa mai…muôn hồng nghìn tía… Chếch về phía phải, có một vạt cây rừng sú, vẹt. Thật kỳ lạ : Sú vẹt ở bờ sông lại ngự trên đỉnh núi (!). Những chú ốc sên, những chú còng… ẩn mình trong kẽ đá suốt mùa đông, chỉ đợi xuân sang là xuất hiện. chúng biến nơi đây thành vương quốc riêng, xa cách cõi trần nơi bờ sông bãi sú.

Qua khỏi vạt cây là bãi đá. Dọc sống núi cơ man nào là đá. Những phiến đá nhỏ, to, cao, thấp thiên hình vạn trạng. Đá xếp thành bậc thang nâng bước chân du khách. Có những phiến đá giống như bầy cá Sấu nằm trườn ườn phơi nắng, xen lẫn với cá voi, éch ộp, thờn bơn…Dưới chân chùa Đồng, ngổn ngang xếp những tảng đá lớn vuông vức như quân cờ. Lưng đá hằn sâu ngấn sóng nước. Những vỏ sò, vỏ ốc hóa thạch còn lưu trong kẽ đá. Đã một thời, đỉnh ngọn Yên Sơn là bờ biển. Trải qua kỳ kiến tạo vỏ trái đất cách đây hàng triệu năm, bờ bể lại trở thành chóp núi. Và đỉnh Yên Sơn đã trở thành một bảo tàng tự nhiên lưu dấu tích sự đồi thay dâu bể thời Hồng hoang”.

 

- Trong bài “Đỉnh non thiêng” (trang 70), anh Thuận viết :

 

Yên Sơn tô điểm đóa trà mi

Sú vẹt non cao thật dị kỳ

Ốc, còng, sên nhỏ nằm trong đá

Quốc vương xa lánh cõi trần bi

Bậc đá làm thang giỏi thợ trời

Đá hình cá sấu nằm chơi vơi

Cá voi, éch ộp, thờn bơn dẹt

Biển cả - đại dương giữa lưng trời

Có lẽ ngày xưa thưở hồng hoang

Yên Sơn bể biếc của kim hoàng

Trải bao biến địa sông thành núi

Đỉnh Yên nay thành một bảo tàng

16. Trang 143 - 144, cuốn sách viết :

 

“ Trên non Yên Tử, vào ngày trời quang, phóng tầm mắt tới chân trời xa tắp : Một vùng đồi núi nhấp nhô như sóng, lúp xúp dưới chân ta. Thị xã Uông Bí, mỏ than Vàng Danh, vùng Tràng Lương Đông Triều và Hà Bắc hiện ra như bức tranh thủy mạc. Xa xa, Vịnh Hạ Long xanh xanh mờ vệt đảo. Mặt Vịnh lung linh dưới ánh mặt trời. Dòng sông Bạch Đằng in bóng núi Tràng Kênh…Gió lùa vào kẽ đá, phát ra muôn tiếng nhạc bổng trầm. Giữa khung cảnh đất trời kỳ vĩ và ngoạn mục, du khách xốn xang đến khó tả. Tâm hồn nhẹ nhỏm và thanh thoát. Bao nỗi ưu phiền trần tục được tiêu tan. Cảm giác kỳ diệu ấy, chỉ khi lên chùa Đồng mới có”.

 

- Trong bài “Trời quang Yên Tử” (trang 71), anh Thuận viết :

 

Trên non Yên Tử ngày trời quang

Bức tranh thủy mặc dưới nắng vàng

Nhấp nhô như sóng triền đồi núi

Xa xa một dãy Bạch Đằng Giang

Trời đất kỳ vĩ lòng xôn xang

Gió reo thánh thót những cung đàn

Chùa Đồng Yên Tử trời đất Phật

Ưu phiền trần tục thảy tiêu tan.

Tôi chỉ xin trích dẫn để so sánh một số bài như trên, còn nhiều bài thơ khác cũng có nội dung tương tự với các bài trong cuốn sách của Trần Trương. Trong số 63 bài, tôi kiểm lại thì thấy có một số bài không có liên quan gì tới cuốn sách. Cụ thể là các bài : Xúc cảm non thiêng; Cô chú thăm Yên Tử; Vân du Yên Tử; Nghỉ lại chùa Yên; Kim xà; Ân hận; Tặng sư thầy, là do anh Thuận cảm tác mà viết ra.

***

Từ những so sánh trên, tôi có thể suy luận rằng : Tập thơ “Thi Vân Yên Tử” của anh Hoàng Quang Thuận không phải là thơ “nhập đồng”, cũng không phải là “thơ Thiền” mà có xuất xứ từ cuốn sách của tác giả Trần Trương.

Chia sẻ bài viết này


Liên kết
Chia sẻ trên các trang khác

Join the conversation

You can post now and register later. If you have an account, sign in now to post with your account.

Khách
Trả lời chủ đề này...

×   Bạn vừa dán nội dung có định dạng.   Paste as plain text instead

  Only 75 emoji are allowed.

×   Your link has been automatically embedded.   Display as a link instead

×   Your previous content has been restored.   Clear editor

×   You cannot paste images directly. Upload or insert images from URL.

Đang xử lí...

Footer title

This content can be configured within your theme settings in your ACP. You can add any HTML including images, paragraphs and lists.

Footer title

This is an example of a list.

Footer title

This content can be configured within your theme settings in your ACP. You can add any HTML including images, paragraphs and lists.

Footer title

This content can be configured within your theme settings in your ACP. You can add any HTML including images, paragraphs and lists.

×
×
  • Create New...