-
Số bài viết
579 -
Gia nhập
-
Đăng nhập
-
Nổi bật trong ngày
2
Bài viết được đăng bởi ThanhTracNguyenVan
-
-
Truyện ngụ ngôn: Tiểu hổ gặp họa
Chuyện xưa kể rằng có một thời mèo được một ông chủ nuôi yêu quý dám đặt tên cho mèo là Trời! Nhưng một người bạn của ông chủ đã bắt bẻ cho rằng mây che được trời. Thế là ông chủ đổi tên mèo thành Mây. Nhưng người bạn lại nói gió có thể thổi tan mây. Ông chủ lại đổi tên mèo thành Gió. Gió lại bị bức tường cản. Ông chủ lại đổi tên mèo thành Tường! Nhưng chuột lại đục khoét được tường. Ông chủ hồ đồ lại phải đổi tên mèo thành Chuột! Và mèo bắt được chuột. Thế là cuối cùng ông chủ nuôi lại đành phải gọi chú mèo cưng của mình là Mèo như cũ!
Câu chuyện mèo lại hoàn mèo vừa kể trên là nỗi “đau” của dòng họ nhà mèo đã lưu truyền qua nhiều thế kỷ. Cứ tưởng là sẽ có danh xưng mới để có thể “đổi đời” nhưng không ngờ do ông chủ của mèo quá kém thông minh nên đã bị người khác dạy cho một bài học về tội dám “chơi trội”!
Nhân dịp năm hết tết đến, Thần Mèo phải về chầu trời để thay thế Thần Hổ nhận nhiệm vụ của một năm mới. Nhớ câu chuyện đau lòng cũ, Thần Mèo liền quì mọp khóc lóc trước Ngọc Hoàng xin được đổi tên tất cả loài mèo thành tên mới là Tiểu Hổ cho có chút “danh vọng”. Mặc dù Thần Hổ cực lực phản đối nhưng Ngọc Hoàng cũng xiêu lòng trước những lời năn nỉ của Thần Mèo nên cuối cùng đã chuẩn tâu.
Thế là từ đó các chú mèo được dịp vênh váo với đời với cái danh xưng mới là Tiểu Hổ của mình. Nhưng thật không may thời thế đã thay đổi, các “dân chơi” muốn được chơi sang nên đua đòi thích ăn thịt của chúa sơn lâm cho oai. Thế là các chú hổ bị săn lùng để dân nhậu lấy xương làm cao hổ cốt, lấy thịt làm món thịt hổ bảy món. Nhưng hổ không phải là thứ dễ bắt và dễ bị giết. Thứ nhất là do hổ dù sao cũng là hổ thật, không dễ bị người ta bắt nạt. Thứ hai hổ là thú quí hiếm, quán nhậu nào mà dám bày bán thịt hổ công khai có mà sập tiệm. Cái khó ló cái khôn, các chủ quán nhậu lý luận: “Các thực khách không ăn thịt hổ được thì ăn tạm thịt tiểu hổ vậy. Hổ nào cũng là hổ cả! ”. Thật tội nghiệp cho các chú mèo bỗng dưng được người ta ưu tiên đưa lên bàn nhậu!
Thần Mèo vô cùng ân hận vì đàn con cháu của mình bỗng dưng bị gặp đại họa, sống thì bị truy lùng, chết thì thân xác không toàn thây vì bị xào nấu làm các món nhậu. Thấy vậy, Thần Hổ mới cười nói: Có nhiều người thật sự thành công nên nổi danh. Nhưng cũng không hiếm những kẻ bị gặp hiểm họa chỉ vì cái bệnh háo danh của mình. Thương thay!
(Tạp chí Sông Hương Xuân Tân Mão năm 2011)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
-
Thơ tranh xuân 2011:
-
Thanh Trắc Nguyễn Văn chúc mừng năm mới:
Thanh Trắc Nguyễn Văn chúc mừng năm mới
-
Các bạn nhận lì xì đầu năm nè
-
Đây là topic văn của Thanh Trắc Nguyễn Văn. Bao gồm các sáng tác truyện ngắn, tiểu phẩm, kịch bản, phê bình văn chương....
-
Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0073:
Cô bé ăn kem dứa
Này cô bé ăn kem dứa
Kem ngon không sao bé cứ ăn hoài?
Bé có thấy mùa xuân về trước ngõ
Giọt nắng bỗng hờn rớt nhẹ qua vai.
Này cô bé ăn kem dứa
Xin hãy ngừng nhai để nói một lời
Ta đã đợi từ mùa đông giá buốt
Đến bây giờ rét lắm bé ơi!
Ta chẳng dại ước thành kem dứa
Sợ bé nhai gặm mất hình hài
Ta chỉ muốn làm cây que nhỏ
Để bé cầm nâng nhẹ trên tay.
Này cô bé ăn kem dứa
Bé quá xinh, còn ta quá dại khờ
Bé chỉ thích ăn để ta đứng ngóng
Hạt bụi nào trong đáy mắt bơ vơ...
Này cô bé ăn kem dứa
Bé ăn xong sao lại đứng im thầm?
Ta muốn nói bỗng bàng hoàng chết lặng
Khi tay bé cầm cây - kem - dứa - thứ - năm!
(Tập thơ Hạ Nhớ - NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
-
Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0072:
Chợ quê
"Nhất Y nhì Dược tạm được Bách Khoa ..."
Chợ quê trên chợ dưới thuyền
Chèo em quẫy sóng chao nghiêng nắng chiều
Tôi ngồi nghe gió liêu xiêu
Lén nhìn cô lái ước điều bâng quơ
Từ ngày con nhện lửng lơ
Tôi đi chợ mãi để bơ vơ hoài!
Em cười chẳng biết với ai
Bỏ tôi ôm một giỏ xoài buồn hiu...
Một hôm tôi quyết hỏi liều
Muốn sang... phải bắc cầu kiều sao đây?
Em đùa nhắn gió thách mây
Trạng nguyên đỏ lá là ngày vu quy...
Ai ngờ từ đấy phân ly
Bảy năm biền biệt tôi đi không về
Giận em ném lại câu thề :
"Nếu không đỗ trạng không về chợ xưa!..."
Giảng đường sớm nắng chiều mưa
Miệt mài đèn sách đợi mùa vinh quy
Thế rồi phượng thắm mùa thi
Thế rồi bác sĩ trường Y, như lời...
Trạng nguyên lá đỏ ven đồi
Tôi về hái vội bồi hồi nhớ mong
Thuyền em vẫn đậu bên sông
Gặp em tay níu tay bồng... bốn con!...
Áo ai giờ nhạt màu son
Thuyền xưa tách bến chỉ còn chợ quê...
(Tuyển tập thơ Thơ Nhà Giáo Tp.HCM - NXB Trẻ 1997)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
-
Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0071:
Chợ Đầm
Loanh quanh là cái chợ Đầm
Tôi lơ ngơ bước để thầm theo em
Bị xô
Bị đẩy
Bị chen
Ba lần hỏi...
Vẫn chưa quen được nàng!
Bao giờ chợ vãn người tan?
Tôi về hỏi gió
Bàng hoàng nhớ em!
Nha Trang 1997
(Tuyển tập thơ Khúc Xạ Mùa Thương - NXB Thanh Niên 2006)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
-
Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0070:
Thăm mộ Hàn Mặc Tử
Bồng bềnh dưới biển trên trăng
Đêm trôi vào cõi vĩnh hằng tìm nhau
Tài hoa vùi lấp mộ sâu
Xót người mệnh bạc dãi dầu cỏ xanh
Đau thương rụng vỡ bên gành
Mộng cầm sắc vỡ tan tành chiêm bao
Xuân như ý bỗng nghẹn trào
Nửa hồn bút mực chìm vào mưa ngâu...
Tìm người, người đã về đâu?
Nửa vành trăng góa buồn đau giữa trời
Sóng leo trồi sụt chân đồi
Ném lòng vào đá vọng lời tháng năm
Câu thơ lệ ứ ướt đầm
Nửa lăn xuống biển, nửa nằm trên trăng.
Qui Nhơn 1996
(Tuyển tập thơ Thơ Nhà Giáo Tp.HCM tập 2 - NXB Trẻ 1998)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
-
Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0069:
Trước biển
Khi con về thăm lại mái nhà xưa
Thấy bóng mẹ dật dờ nơi bãi biển
Tuổi bé thơ đợi cánh buồm cha màu tím
Con vẫn dắt mẹ tìm dõi mắt xa xôi...
Con đã về. Đừng khóc nữa mẹ ơi!
Nước mắt mẹ làm lòng con mặn đắng
Biển rủ sóng, tóc mẹ giờ bạc trắng
Mái tranh nghèo lay lắt khói chiều lên.
Con ăn học nhiều nên lú lẫn thành quên
Không nhớ nổi một nỗi buồn của mẹ
Cặp đầy ắp những công trình bản vẽ
Chỗ mẹ nằm vẫn nắng giọt mưa sa.
Bao năm trời bay nhảy tận miền xa
Mê bia bọt con bỏ trôi vị nồng của biển
Lời thương mẹ cũng nhạt nhòa tan biến
Trong những ánh đèn nhấp nháy đỏ xanh...
Chợt giận mình sao quá đỗi vô tâm
Con quỳ khóc trước muôn trùng sóng vỗ
Cha không còn. Mà mẹ thì không nhớ
Hỏi biển trời dung thứ được con không?
(Tập thơ Hoa Sứ Trắng - NXB Đà Nẵng 1997)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
-
Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0068:
Khúc hát ngày ra trường
Thôi, từ giã giảng đường
Từ giã tuổi sinh viên
Chúng mình ra đi để mang hoài nỗi nhớ
Hoa phượng vĩ chiều nay tưng bừng nở
Đỏ thắm ven trời. Những cánh chim bay.
Ngày mai xa rồi ta biết nói gì đây
Ánh mắt ấy nhìn ai chợt có gì khang khác!
Tạm biệt nhé con đường về xanh mát
Bao dấu chân xưa. Sao xao xuyến bồi hồi?
- Em sẽ về miền đất ấy xa xôi...
Lời nói khẽ như bao lời muốn nói
Mái trường xa sẽ đón chào cô giáo mới
Và tình yêu thoảng nhẹ trong chiều.
Họ bên nhau chưa nói được nhiều
Lòng mải hẹn những phương trời xa lắc!
Để những ước mơ thầm thì khẽ hát
Khúc - hát - vào - đời những mơ ước lứa đôi...
(Tập thơ Hoa Sứ Trắng - NXB Đà Nẵng 1997)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
-
Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0067:
Chia xa
Chia xa bẻ nửa câu thề
Nửa đi ngập gió, nửa về ướt mưa
Nửa đau đau lá cuối mùa
Nửa thương thương mảnh trăng xưa phập phồng.
Người về lạnh nửa vườn hồng
Câu thơ lạnh nửa bềnh bồng thành sương
Người đi lạnh nửa con đường
Nửa đau nhẹ mất, nửa thương nặng đầy.
(Tập thơ Hạ Nhớ - NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
-
Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0066:
Tình có hay không?
Tình có hay không
Biết không hay có
Tay xòe không có
Tay nắm có không?
Ngày xưa là gió
Ngày xưa là mây
Ta mơ theo nắng
Dáng nhỏ em gầy...
Chợt sợi tóc bay
Chợt gió thành mây
Lời thề màu cỏ
Tình không thành có!
Tình không hay có
Biết có hay không?
Ta mong là có
Em cười như không...
Ta là đá sỏi
Một nắng hai sương
Mơ nhầm châu ngọc
Yêu nhầm đau thương.
Em thành chim sáo
Một chiều qua sông
Ta còn dông bão
Tình có thành không!
Tình có như không
Thà không hơn có
Thà là như gió
Thà là như mây...
(Tập thơ Hoa Sứ Trắng - NXB Đà Nẵng 1997)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
-
Chà! Chú là nhà thơ ah? Mà sao c k để sđt lạj cho ng hâm mộ. C mớj vào có jì chú rảnh nhờ chú chjếu cố gé qua xem phê bình júp mấy bàj thơCảm ơn bạn đã nhờ cậy. Tôi vẫn còn đang học hỏi rất nhiều nên không dám góp ý cho người khác.
Chỉ xin lưu ý bạn một điều: muốn viết thơ hay bạn phải nói thạo tiếng Việt và viết đúng chữ Việt trước đã, đó là điều kiện cần và cũng là điều kiện đủ
Chúc bạn vui nhiều
-
Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0065:
Sông ca
nhớ Khả Tú
Bến Tre lắm bến nhiều dừa
Xuồng ai vừa đến để vừa quen nhau
Câu mời con nước nao nao
Xuống xuồng xuồng cũng lao chao tiếng cười.
Cùng chèo chèo vọng mùa vui
Thấy ta lóng lánh, thấy người lung linh
Một mình hát với một mình
Lục bình xuôi với lục bình sóng đôi.
Bềnh bềnh một áng mây trôi
Bồng bồng một cánh chim trời hữu duyên
Em về nón lá nghiêng nghiêng
Hoàng hôn tím tím ngả miền chiêm bao.
Đường bờ cao thấp thấp cao
Có hay không có nẻo vào tương tư?
Vườn chiều chiều lá sang thu
Vẩy trăng mười tám thả từ từ lên.
(Tuyển tập thơ Khúc Xạ Mùa Thương - NXB Thanh Niên 2006)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
-
Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0064:
Ký sự cuối thu
Ai chạm cốc giữa tiệc đó
Sao hất vãi bia thịt thừa?
Vội sớm quên thời áo rách
Còng lưng mót lúa ngày xưa?
Gió hú gào trên cao đó
Sao gieo rắc mãi kinh hoàng?
Hết bão dông rồi sóng lũ
Mây chiều nát vữa tan hoang...
Mưa dầm dề ngoài sân đó
Sao chẳng về ướt cánh đồng?
Đất quê nghèo đang nắng hạn
Em thơ buồn khô mắt trông.
Ai du lãng miền xa đó
Sao không thăm lại mái trường?
Con đường xưa giờ khói biếc
Tóc thầy phủ trắng màu sương.
(Tập thơ Hạ Nhớ - NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
-
Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0063:
Hoa vông vang
Em sắp xa thành phố
Về lại đất hương tràm
Hỏi em thích gì nhất?
Em cười: Hoa vông vang.
Ta qua bao góc phố
Ta đến bao tiệm hoa
Hỏi mua, mua chẳng có
Hỏi tìm, tìm không ra.
Tên hoa quen mà lạ
Như người lạ giờ quen
Hẳn là hoa cũng đẹp
Hiền dịu như mắt em?
Kẻ nói hoa màu đỏ
Kẻ mách hoa màu vàng
Người cho hoa là cỏ
Người bảo hoa mọc hoang!
Ta tìm, đi tìm mãi
Mang nỗi buồn lang thang
Giữa thị thành hoa lệ
Tìm đâu hoa vông vang?
Ngày tiễn em mưa trắng
Ta lặng nhìn mây trôi
Vông vang trong tay với
Hay xa tận chân trời?
(Tập thơ Hoa Sứ Trắng - NXB Đà Nẵng 1997)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
-
Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0062:
Người hóa đá
Chẳng thà như mảnh vỡ
Chợt dẫm vào nỗi đau
Nỗi đau đau thêm nữa
Giọt máu nóng tuôn trào.
Chẳng thà như lửa bỏng
Cháy rát buồng tim côi
Trái tim bùng hoa lửa
Sáng hào quang trên đời.
Chẳng thà như nước mắt
Ướt đẫm hồn em tôi
Mà nghe lòng thổn thức
Trong buồn vui muôn người.
Vẫn hơn giờ hóa đá
Bước lạc loài vô tri
Nhìn dòng đời xuôi ngược
Dửng dưng chẳng biết gì...
(Tập thơ Hạ Nhớ - NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
-
Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0061:
Ghen
Giận em đập nát câu thề
Nắng hồng rơi vỡ dầm dề mưa tuôn
Bão dông giăng kín mây buồn
Gió tan tác nhớ, sóng cuồn cuộn đau...
Bây giờ người ấy trầu cau
Dửng dưng qua bến sông sâu, xuống đò
Lơ ngơ tôi đứng trên bờ
Lời thương hóa đá... Hết chờ, hết mong!
Lội đò tiễn sáo sang sông
Câu thơ xưa thả bềnh bồng hoàng hôn
Vung tay bỏng lửa ghen hờn
Dở dang giờ nhặt cô đơn bốn mùa...
(Tuyển tập thơ Thơ Nhà Giáo Tp.HCM - NXB Trẻ 1997)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
-
Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0060:
Đại Đế và Nhỏ Phù Thủy
Ta Đại Đế về thăm vương quốc cũ
Thăm cánh đồng xưa mây trắng lưng đồi
Thuở chăn trâu chơi lội sông đánh giặc
Ta đủ tài thành Đại Đế lên ngôi.
Lấy tre lá dựng lâu đài tráng lệ
Lấy cờ lau làm hiệu lệnh vương quyền
Bao tướng lãnh, bao thần dân thần phục
Trâu theo bầy theo Đại Đế uy nghiêm.
Nhưng Nhỏ Phù Thủy môi hồng dễ ghét
Cùng bọn nữ yêu đỏng đảnh tóc dài
Thích chọi phá, thích leo trèo la hét
Khiêu khích ta đạp ngã những lầu đài.
Ta giận dữ đòi yêu ma quyết chiến
Đại Đế ra quân đội ngũ trùng trùng
Chỉ một trận giặc thù thua khiếp vía
Vứt gậy chạy dài nhốn nháo bến sông.
Nhỏ Phù Thủy biết quân mình sức kiệt
Đem bọn yêu lẩn trốn tận rừng sâu
Ta thừa thắng xua đại quân đuổi đánh
Bỗng phục binh, bị đá ném lỗ đầu!
Vết sẹo nhỏ hóa đôi bờ ngăn cách
Chẳng nhìn ai như hận oán nghìn đời
Ta lên tỉnh tháng năm dài biệt xứ
Vẫn nhớ thầm một vương quốc xa xôi...
Nhỏ Phù Thủy ai ngờ thành cô giáo!
Mắt xinh xinh e lệ dưới mây chiều
Ta Đại Đế giờ cúi hàng qui phục
Khẩn xin nàng ban tặng trái tim yêu! ...
(Tập thơ Hạ Nhớ - NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
-
Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0059:
Thiên sứ
(Khóc Thuý Nga)
Một chiều qua xóm Đạo
Chân nhói kỷ niệm xưa
Tượng Chúa trên thánh giá
Cô đơn màu nắng mưa
Ngọn gió đông gầy guộc
Lạnh tim ta cuối mùa.
Đâu sân trường Thiên Phước
Đâu lầu trường Đức Minh
Chuông nhà thờ chầm chậm
Vọng tiếng buồn tâm linh?
Chuông vang lời sương khói
Ta về tìm đức tin.
Em về đeo thánh giá
Dắt ta kẻ tội đồ
Sáng danh là Thiên Chúa
Tội danh là... làm thơ!
Bờ vai em tròn nhỏ
Đưa ta đến dại khờ!
Em bông hồng Thiên sứ
Xuống từ miền trăng sao
Bầu má đỏ hồng đào
Tà áo dài hồng phấn
Để hồn ta lận đận
Để tình ta lao đao.
Ta tín đồ ngoại đạo
Ngàn năm chỉ biết yêu
Theo em Thiên sứ nhỏ
Tóc xõa dáng yêu kiều
Câu kinh em truyền đọc
Ta nghe toàn rong rêu.
Em thiên thần hờn dỗi
Nụ cười hồng xinh xinh
Ta trái tim nông nổi
Lệ nửa đời phiêu linh
Trước em xin sám hối
Ngơ ngẩn một u tình.
Tìm trao lời vô tội
Nẻo nào nghẹn tương tư?
Bàn chân em bối rối
Bàn chân ta chần chừ
Nỗi đau dài không nói
Câu thơ hằn đá sỏi.
Em giờ mờ sương khói
Cành hồng vội gãy đôi
Tình ta màu bão táp
Hồn ta màu tuyết rơi
Mảnh trăng xưa vỡ khuyết
Thổn thức cuối chân trời.
Thiên sứ ơi, Thiên sứ
Ta còn em nơi đâu?
Lang thang chiều xóm Đạo
Bước chân buồn bể dâu
Chúa trên trời cũng khóc
Mưa pha lê xám màu.
(Tuyển tập thơ Mưa Pha Lê-NXB Văn Hoá Dân Tộc 2003)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
-
Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0058:
Lời chị
Đừng quên chị em nhé
Dẫu mai này cách xa
Chị- có cha mất mẹ
Em- còn mẹ không cha.
Gia đình mình ly tán
Đem nỗi buồn nhân đôi
Đem bát cơm đập nửa
Nước mắt mặn mềm môi.
Ngày xưa cha thương mẹ
Sao giờ mẹ ghét cha
Chúng con thương chẳng ghét
Sao cha mẹ đành xa?
Chú lính chì gãy cổ
Chị gắn rồi trao em
Nghe lời mẹ em nhé
Cố học chăm, ngoan hiền.
Em khản hơi gào khóc
Dỗ nó cha mẹ ơi! ...
Cha cúi đầu không nói
Mẹ nín lặng ngậm ngùi.
Đừng quên chị em nhé
Ngày mai buồn chia xa
Hai mảnh đời côi cút
Trong mắt lệ nhạt nhòa...
(Tập thơ Hạ Nhớ - NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
-
Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0057:
Đà Lạt thu khúc
Tặng Thu Hằng
Đà Lạt em ơi Đà Lạt mây!
Áo em mây trắng nắng rơi đầy
Mây ở trên cao giờ xuống thấp
Mây chợt lên đồi lững thững bay.
Đà Lạt em ơi Đà Lạt sương!
Sương ướt hoàng hôn, ướt mặt đường
Sương lạnh trong tim, buồn trong mắt
Sương thoảng vai mềm buôn buốt hương...
Đà Lạt em ơi Đà Lạt trăng!
Một bóng tung tăng, một bóng Hằng
Trăng hiện thành đôi hay vỡ nửa
Sao bước ta về mãi giá băng?
Đà Lạt em ơi Đà Lạt mưa!
Mưa như chiều ấy lạnh phố xưa
Ngày xưa anh nói mà không nói
Thương tình hai đứa có như chưa...
(Tuyển tập thơ Khúc Xạ Mùa Thương - NXB Thanh Niên 2006)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
-
Thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn bài số 0056:
Mùa lũ
Khi tôi về thăm mẹ
Mùa nước lũ đang lên
Mái tranh nghèo nước ngập
Cỏ rác trôi bập bềnh.
Bao năm trời phố chợ
Sống thành kẻ không hồn
Thừa bạc tiền, bia bọt
Quên mẹ hiền, quê hương.
Tôi quên thời cắp sách
Mò cua ốc mỗi ngày
Quên mẹ mình cơ cực
Manh áo còn vá vai...
Khi tôi về thăm mẹ
Giọt nắng đã không còn
Bóng trăng gầy xanh khuyết
Đã khuất vào hư không.
Tôi gục đầu nức nở
Bên quang gánh mẹ già
Nhớ lá rau dền tím
Mẹ bán chợ đường xa...
Khi tôi về thăm mẹ
Mộ mẹ biết tìm đâu?
Điên điển vàng trôi nổi
Mây nước xám một màu...
(Tập thơ Hạ Nhớ - NXB Tổng hợp Đồng Nai 1999)
Thanh Trắc Nguyễn Văn
Văn Thanh Trắc Nguyễn Văn
In Truyện ngắn
Đăng lúc
Truyện ngụ ngôn: Mèo có bắt chuột?
Ngày xưa có một vị quan được giao nhiệm vụ trông coi kho lương thực cho nhà vua. Quan coi kho lương rất mẫn cán và thanh liêm. Hơn mười năm nhận nhiệm vụ ông không hề nhũng lạm dù chỉ là một hạt thóc lép trong kho. Nhưng không may đến một năm nọ, không hiểu sao lũ chuột lại sinh sản bùng phát rất nhiều. Kết quả là dù vị quan đã rất cố gắng gìn giữ, kho lương thực của nhà vua cứ bị hao hụt mỗi ngày.
Nghe lời thuộc hạ vị quan nuôi hơn hai mươi con mèo đem thả vào kho. Lúc đầu kết quả khá khả quan. Lượng lương thực thất thoát mỗi ngày đã giảm hơn một nửa. Ông quyết định nuôi thêm hai mươi con mèo nữa. Nhưng cũng thật bất ngờ, không hiểu sao lượng lương thực hao hụt mỗi ngày lần này không hề giảm sút mà lại có chiều hướng muốn tăng lên!
Vị quan vô cùng lo lắng vì sắp đến kỳ hạn quan khâm sai đại thần đến kiểm tra kho lương. Tình trạng mất mát lương thực kiểu này nếu cứ tiếp diễn chắc chắn ông sẽ không giữ được cái đầu trên cổ. Vị quan liền treo bảng trước cổng cần mua mèo quí gấp để trừng trị lũ chuột trong kho.
Vừa treo bảng buổi sáng thì buổi trưa đã có một lão đạo sĩ đến gỡ bảng và xin vào yết kiến. Viên quan coi kho mừng lắm liền mời vào. Lão đạo sĩ chào vị quan xong liền hỏi:
- Thượng quan cần mua mèo quí để làm gì?
- Ta cần mua mèo quí để bắt chuột.
- Thượng quan lầm rồi. Bắt chuột hay không không phải là do mèo quí hay không quí. Ông bà ta đã có câu “mèo nhỏ bắt chuột con” là muốn nói đến ý đó. Loài mèo từ thuở xa xưa con nào cũng biết bắt chuột. Nhưng từ khi ở chung với loài người. Nhiều con mèo đã nhiểm tật xấu từ chủ nuôi như ăn vụng, hoặc tệ hơn là móc nối với loài chuột để hưởng lợi cho mình!
- Có loại mèo biết móc nối với chuột ư? Ta chưa từng nghe!
- Thượng quan có đọc nhiều sách không?
- Từ nhỏ tứ thư ngũ kinh ta đều thuộc làu cả.
- Thượng quan có thường đọc sử, đọc thơ không? Có xem tranh nhiều không?
- Đạo sĩ khinh thường ta quá. Ta đã đọc trọn bộ Sử Ký của Tư Mã Thiên, thơ của thi tiên Lý Bạch bài nào ta cũng thuộc, tranh của Tô Đông Pha hầu hết ta cũng đã từng xem qua…
- Thượng quan tỏ ra rất am hiểu văn hóa và học thuật của … nước ngoài! Lão chỉ xin thượng quan đến làng tranh Đông Hồ của nước ta để tìm mua bức tranh Đám cưới chuột về xem. Lúc ấy thượng quan sẽ hiểu ngài cần phải làm gì...
Nói xong lão đạo sĩ liền cười ngất và biến mất. Viên quan coi kho bỗng giật mình, toàn thân mồ hôi ướt đẫm. Ông liền vội sai thuộc hạ đến làng tranh Đông Hồ gấp. Khi bức tranh Đám cưới chuột được trình lên, nhìn lũ chuột dâng quà cho mèo trong tranh viên quan hoàn toàn tỉnh ngộ.
Cuối cùng qua điều tra viên quan coi kho cũng đã phát hiện được có hai trong hai mươi con mèo nuôi tăng cường lần sau, đã dung dưỡng cho họ hàng nhà chuột và giúp cho lũ chuột có điều kiện ăn xén ăn bớt lương thực trong kho. Trị tội hai con mèo này xong nạn chuột trong kho từ đó xem như mất hẳn.
Sau này viên quan đã rút ra một kinh nghiệm quí báu để truyền lại cho các quan coi kho thế hệ sau: Không cần có mèo quí mới bắt được chuột và không phải con mèo nào cũng có sở thích bắt chuột!
(Tạp chí Sông Hương Xuân Tân Mão năm 2011)
Thanh Trắc Nguyễn Văn