Jump to content

vietsnets2

Thành viên
  • Số bài viết

    45
  • Gia nhập

  • Đăng nhập

Bài viết được đăng bởi vietsnets2


  1. Trong một lần tham gia hội thi thể dục thể thao do trường tổ chức. Hai chị em Hà và Nam cùng đạt giải nhất môn chạy cự li 100m nam nữ.

     

    Phóng viên tìm đến phỏng vấn:

     

    - Xin hai em cho biết, ai tập luyện và hướng dẫn cho các em chạy?

     

    - Dạ, hổng có ai tập cho các em hết trơn á!

     

    - Sao các em đều về nhất trong cuộc thi hay quá vậy?

     

    - Dạ... tại vì ngày nào ba em cũng xỉn, mà xỉn vô là ổng rượt cả nhà chạy có cờ. Riết rồi quen nên tụi em chạy nhanh vậy á.

     

    - Nếu má em mà đi thi, má em còn chạy nhanh hơn- đứa em chen vô.

     

    Phóng viên: - ???!


  2. Anh chàng Hoàng, biệt danh Hoàng “súng” (Gọi là súng bởi anh ta thường xuyên “nổ”) ở Tương Mai, Hà Nội vốn là một Don Juan có hạng, nhiều lần anh ta khoe rằng chỉ cần uốn vài tấc lưỡi là các cô gái đẹp đổ rạp như ngả rạ.

     

    Một lần, sau vài chén Vodka anh ta bắt đầu ba hoa bí kíp đưa bạn gái vào nhà nghỉ (một trong số các cô gái này chính là vợ Hoàng “súng” bây giờ). Theo anh ta thì lần đầu đưa được bạn gái vào nhà nghỉ là chuyện rất khó bởi tâm lý phong kiến thâm căn cố đế thường khiến phụ nữ Á Đông họ e ngại, nào là nhỡ gặp người quen, nhỡ người ta đánh giá, v.v… và v.v… nên phải tùy từng trường hợp cụ tỉ (cụ thể và tỉ mỉ) mà có cách ứng phó riêng. Trong trường hợp cô bạn gái nói trên thì Hoàng “súng” kể rằng, khi hai người đang bon bon xe máy trên đường Nguyễn Văn Cừ (con đường có nhiều nhà nghỉ nhất thủ đô ta) bỗng nhiên Hoàng “súng” quay lại thì thầm: “Em ơi, tự dưng anh thèm xem bóng đá quá, bây giờ là trận Barca gặp Man U, nhà anh lại không có truyền hình cáp, ta vào đây xem tí nhé!”. Miệng nói tay làm, Hoàng “súng” rẽ luôn vào nhà nghỉ trong ngõ. Được một lát người ta chỉ còn nghe tiếng Hoàng “súng”: “Thôi, bóng đá xem sau vậy”! Có người đem chuyện này hỏi lại vợ Hoàng “súng”, chỉ thấy cô mỉm cười tinh quái: “Không biết đứa nào lừa đứa nào!”.

     

    *

    * *

     

    Có bồ nhờ thi cử

    Theo một khảo sát sơ… sài của Cười 24H thì nhờ thi đại học mà nhiều thí sinh đã tìm được ý trung nhân. Đợt thi đại học vừa qua là một ví dụ, nhiều cặp đã nên duyên nhờ giúp đỡ nhau trong phòng thi. Cặp thí sinh trùng tên Hà (Quang Hà và Thu Hà), một người ở Ninh Bình, người kia ở Thanh Hóa, họ ngồi thi cùng một bàn ở trường Tài Chính. Trong phòng thi, ban đầu Quang Hà chép bài của Thu Hà, còn Thu Hà thì “quay” bằng phao ruột mèo giấu trong áo ngực, sau thấy giám thị trông chặt quá, họ bèn đổi kiểu bằng cách: Quang Hà nhìn vào áo ngực của Thu Hà để “quay”, còn Thu Hà làm nhiệm vụ cảnh giới giám thị kiêm lật phao cho Quang Hà chép. Tất nhiên kết quả là cả hai cùng trượt vỏ chuối vì anh chàng Quang Hà khi “quay” không được tập trung vào phao cho lắm nên tốc độ rất chậm, gần hết giờ thi mà mới chép được 1/3, thêm nữa phao của Thu Hà chuẩn bị cũng thiếu chuẩn xác. Hiện tại, họ đang hẹn hò cùng ôn thi lớp 13 tại thủ đô vào tháng 9 tới.

     

    *

    * *

     

    Chữa mắt ở Hồ Tây

    Một gia đình có cậu con trai 16 tuổi, suốt ngày chơi game nên thành ra mắt cận thị nặng. Nghe người ta mách nếu mới bị cận thì có thể chữa khỏi bằng cách tập nhìn xa ở nơi thoáng đãng, bố mẹ cậu quyết định cho con ra Hồ Tây chữa mắt. Mấy hôm đầu họ còn dẫn con trai đi, sau đó để cậu tự làm bác sỹ nhãn khoa cho mình. Được nửa tháng, khi cho đi khám lại thì bố mẹ cậu giật mình phát hiện cậu con trai đã hoàn toàn khỏi cận thị nhưng giờ đây lại bị viễn thị tới tận 5 đi-ốp, té ra cậu chàng toàn ra hồ Tây vào buổi chiều tà, mua ống nhòm để “xem phim” của các anh chị thanh niên ở đó diễn. Nhìn xa nhiều quá thành ra viễn thị.

     

    *

    * *

     

    Tư vấn, tư véo

    Ở các thành phố lớn hiện nay, nhiều con phố có trường học trên đó, lúc vào giờ cao điểm bao giờ cũng bị tắc bởi sự lộn xộn của phụ huynh và con em, họ tràn hết xuống dưới lòng đường, xe cộ ngổn ngang khiến cho người nào tình cờ ngang qua đấy bực mình hết chỗ nói. Nhằm giúp chính quyền các thành phố lớn khắc phục chuyện này, một nhóm các nhà tư vấn đã hiến kế rằng: Hãy biến những con phố có trường học này thành những con phố đi bộ, đảm bảo tuyệt đối không còn tắc đường mà còn giúp phụ huynh cũng như học sinh tập thể dục, thể thao… Các con phố khác nếu không có trường học mà vẫn quá đông thì dùng biện pháp quy định và gắn biển đường một chiều. Nói túm lại theo các nhà tư vấn thì biện pháp tuyệt vời nhất vẫn là: Nếu không quản lý nổi thì… cấm!

     

    *

    * *

     

    Tính chất vật lý đặc biệt của “nhân pín”

    Lâu nay ai ai cũng biết rằng cái gì cho vào lửa trước sau cũng mềm ra, dẫu cứng như sỏi đá, sắt thép, gạch ngói… nhưng cứ hễ được lửa nung thì kiểu gì cũng chảy nhũn. Vậy câu hỏi đặt ra là: Liệu trên đời có thứ gì cho vào lửa mà cứng lại? Đó cũng chính là câu hỏi của Cười 24H đã từng đố vài tháng nay mà chưa ai nghĩ ra. Thay cho gợi ý, tin vịt 24H xin kể lại một câu chuyện tiếu lâm sau:

    Có đôi uyên ương nọ mới cưới, họ quấn lấy nhau cả ngày, chẳng cần ăn uống ngủ nghỉ gì sất, qua đêm, suốt sáng, qua trưa, đến chiều… họ chỉ ăn mỗi món “tình yêu” mà không thấy đói. Chập tối, thấy chàng đang nude ngồi com rom bên lò sưởi rực lửa, nàng hỏi:

    - Tình yêu của em! Anh làm gì vậy?

    - Anh… anh… đang hâm lại bữa tối – Chàng trai thẽ thọt đáp.

    Câu chuyện chỉ có thế, nhưng cái kết của nó đã khéo gợi ý cho ta biết rằng, cái gì vào lửa thì cứng lại, vậy đấy! Tất nhiên kết luận này chỉ hoàn toàn mang tính “tin vịt”, các bạn chớ dại dột mà đem thử lửa đấy nhé!


  3. Tác Giả: Trọng Miên

     

     

    Mỗi lần đến thư viện thì tôi lại gặp hắn, như ngồi mãi một chỗ, chăm chú vào cuốn sách để trước mặt. Vẻ lạnh lùng, tóc bơ phờ, và nhất là đôi mắt kỳ lạ của hắn, ai đã nhìn qua một lần thì không thể quên được - đôi mắt tinh anh dị thường bao giờ cũng như nhìn vào một chốn thăm thẳm.

    Một hôm nhân cùng tìm một cuốn sách cổ quái, ít ai đọc đến, chúng tôi thành quen biết. Hai tâm hồn tương ứng xô đẩy chúng tôi lại gần nhau. Thế - người bạn trong thư viện - và tôi thường chỉ có một câu chuyện độc nhất để say sưa nói với nhau là thơ. Từ địa hạt thơ tôi đã đi lần vào trong cuộc đời thân mật của Thế. Anh ở một góc lầu cao, xa thành phố, thường rất ít đi lại với ai.

    Thú say mê nhất của Thế là thơ, triết lý và thuốc lá. Thế hút píp và có hơn mười cái, đủ kiểu to nhỏ, từ cái píp đầu lâu đến cái píp đầu thi sĩ Baudelaire, và không biết anh đã tìm tòi mua được ở đâu những cái píp quý giá như thế. Anh nâng niu píp như người xưa chơi đồ cổ, hơn thế nữa, anh yêu thương chúng như những sinh vật có linh hồn. Một hôm, Thế rủ tôi đi uống rượu và nói một cách thương tiếc:

    - Tôi vừa mất một người bạn thân.

    Sau hỏi ra tôi mới hay rằng vì một cử chỉ vô ý, anh đánh rơi gãy mất một cái píp đẹp.

    Một sự ham thích khác nữa của Thế là chơi đầu lâu. Mấy cái đầu lâu trắng tinh trang hoàng ở phòng mình, Thế đã mua hai cái ở Hà Nội, thời kỳ học ở trường thuốc, một cái mua ở Huế của cụ Ngáo, đao phủ thủ tại kinh đô bán; cái đầu lâu sau này là của một tướng cướp đào lăng vua bị chết chém. Còn một cái nữa, không rõ Thế mua ở đâu, và ngoài ra, hai cái đầu lâu khỉ.

    Những cái đầu lâu ấy nổi bật hẳn trên màu đen của gian phòng, và đây đó treo những bức thư ảnh của các thi sĩ Thế yêu: Edgar Poe, Baudelaire, Byron, Mallarme, Valéry.

    Bạn khác thường của Thế còn có một con mèo đen nhung chỉ thích được vuốt ve nằm trong lòng người và một con quạ. Con quạ toàn đen này Thế đã tập cho nó nói được và chỉ nói một câu như con quạ của Poe: Không có gì nữa hết!

    Người bạn dị kỳ của tôi chỉ sống để mà làm thơ và đọc sách, đi. Nhưng con người phong vận, cốt cách thi sĩ ấy lại không hề đả động tới đàn bà, và tránh nói đến họ. Đó là sự bí mật ở Thế mà tôi vẫn kiếm dịp để tìm hiểu.

    Một buổi tối lành lạnh, tôi đến thăm Thế, vừa lúc anh ngủ dậy, sau đêm thức suốt sáng đọc sách hay viết. Thế sống khác với người thường, ban ngày ngủ và đêm làm việc. Đêm mê say anh như hương thơm tách cà phê đậm.

    Dựa ngửa ra chiếc ghế lót đệm nhung, ngậm píp phì khói tỏa mờ, Thế thì thầm ngâm thơ. Ngồi một bên, tôi yên lặng nhìn đôi mắt xanh sáng của con mèo đen, vuốt qua làn lông mịn màng như nhung. Trong không khí thân mến, tôi khêu gợi đột ngột đến chuyện tình và mơn man dò hỏi tâm sự bạn. Thế ngập ngừng rồi dịu dàng bảo tôi:

    - Tôi không muốn nhắc nhở đến dĩ vãng vì buồn lắm, nhưng anh đã gạn hỏi, tôi không giấu giếm anh nữa, và để cho anh hiểu tôi hơn.

    Thế đứng dậy thổi tắt cây bạch lạp, vì anh vẫn thích nói chuyện trong bóng tối, những lời nói sáng tỏ hơn. Rồi với một giọng nhiều hơi, buồn buồn, Thế bắt đầu nói:

    - Trước hết, tôi cần nói rõ để anh biết về việc bị chôn sống là vấn đề có liên lạc mật thiết đến câu chuyện riêng của tôi sắp kể.

    Bị chôn sống là một sự thật nguy hiểm, ghê gớm, sự nguy hiểm to tát cũng như sự mê tối của loài người. Tôi đã tra cứu, tìm tòi trong y học và đã kinh nghiệm rằng nếu để trí suy xét thì không ai có thể chối cãi được rằng trường hợp rùng rợn này vẫn xảy ra. Có người may mắn tỉnh lại trước lúc chôn để tránh khỏi sự lầm lạc tàn khốc, nhưng ta phải nghi ngại rằng đã biết bao người bị chôn sống mà không bao giờ ai biết đến.

    Cái giới hạn chia hai sự sống và chết rất mù mờ và tăm tối. Ai có thể biết rõ được rằng lúc nào là hết sống và khi bắt đầu chết? Vì trước và sau khi chết, không có một sự phân biệt hiện ra trên người. Mạch máu hay hơi thở ngừng không thể là bằng chứng được. Không có một thời hạn bao lâu để chắc quyết là chết, và trái tim đã ngừng, có thể chịu vài ảnh hưởng trong thân thể rồi đập lại. Sự thực nghiệm ấy khoa học và y học ngày nay đã nói đến. Người chết thật rất chậm, không như ta tưởng. Trong lúc bề ngoài đã chết, kẻ bất hạnh vẫn có thể đang sống. Người chết nào cũng phải qua hai thời kỳ, liên lạc với cái chết và chết thật, nhưng y học còn chứng nghiệm rằng có khi gặp một thời kỳ khác: chết bề ngoài. Thời kỳ này là lúc những cơ quan nhận thấy rõ ở thân thể đều ngừng lại như bộ máy nghỉ chạy rồi trong một khoảng thì giờ qua, vì một nguyên nhân vô hình, người có thể trở lại với sự sống. Những cơ quan trong người đều chia ra các bộ phận riêng, tất cả dù là nương tựa vào nhau, đều có sự độc lập liên lạc. Mỗi bộ phận có thể sống biệt lập với cơ quan có dính líu đến. Cái chết không phải là một sự thay đổi hoàn toàn và chạm đến những bộ máy sống của thân thể. Bởi vậy khi người ta chết, những bộ phận trong người chưa ngưng trệ hẳn, nên rất khó khăn mà phân biệt được rằng cái chết của người này chỉ là bề ngoài, và người kia chết thật. Khoa học cũng phải công nhận rằng những trường hợp này thật khó mà biết rõ ràng được - phần nhiều người đều mặc số mệnh cho sự rủi may - và các vụ chôn sống vẫn xảy ra. Những tiếng kêu gào thảm thiết của người chưa chết hẳn mà đã bị chôn không được ai nghe đến và chúng ta cũng mặc cho số phận mình, nếu bất hạnh một ngày kia tỉnh dậy trong hòm.

    Thế ngừng lại, lấy thuốc cho thêm vào píp, đốt cháy rồi say sưa nói đến câu chuyện của lòng mình:

    - Quãng đời hai mươi tuổi của người thanh niên thường ít ra cũng có một cuộc tình ái điên cuồng mà tốt đẹp, và kỷ niệm ấy bao giờ cũng để lại những ấn tượng sâu sắc trong tâm tưởng: Tâm hồn giàu có tình cảm như chúng ta lại hay gây nên những tình duyên ly kỳ.

    Năm năm trước đây, tôi đang ở trong thời kỳ phát triển của tình cảm thì gặp và yêu một người con gái tên là Bích Trăng. Trăng là một tiếng sét đã làm sôi nổi tận đáy lòng tôi những tình cảm sâu sắc và bền chặt nhất về yêu thương. Trăng có một thứ nhan sắc châu ngọc mà tôi đã mường tượng trong thơ. Với tôi, Trăng là một người yêu có cả tình một người chị, một người mẹ hiền từ của phương Đông. Chúng tôi yêu nhau với tất cả say sưa, nồng nàn của tuổi hai mươi. Mặc dầu giữa Trăng và tôi có những sự cản trở của hai gia đình cổ kính vẫn không thích nhau. Thầy tôi làm quan, trên chức của thầy Trăng. Tính tình cương trực của thầy tôi đã gây nên một sự xích mích giữa hai người, và từ đó cả hai nhà không bao giờ đi lại với nhau nữa.

    Tự buổi đầu, Trăng và tôi cùng biết trước rằng cuộc hôn nhân của chúng tôi sau này khó lòng mà thực hiện được. Nhưng chúng tôi không thể không yêu nhau được và khi người ta yêu... Tôi chăm chú theo đuổi cái địa vị độc lập, chắc chắn mai sau, trở nên một bác sĩ, và khi ấy Trăng cùng tôi sẽ tự do lấy nhau, nếu hai gia đình vẫn không bỏ hiềm khích cũ.

    Thế rồi một hôm đang thời kỳ lưu học ở Hà Nội, tự nhiên tôi thấy nóng lòng, băn khoăn rồi bỗng nhận được dây thép của một người bạn ở Huế cho hay tin Trăng chết. Cái chết đột ngột, dữ dội của Trăng đã làm đảo điên cả người tôi, và tưởng như mình đang mơ.

    Tôi xin phép nghỉ học để trở về Huế ngay chiều hôm ấy. Không muốn cho ở nhà biết, bước xuống xe lửa, tôi lại ngay nhà người bạn. Về cái chết thình lình của Trăng, tôi được hay thêm rằng nàng bị cảm, đau luôn một tuần rồi chết. Và người ta đã chôn nàng sáng ngày.

    Trăng đã chết thật, không còn nghi ngờ gì nữa, không còn gì nữa hết! Tự thâm tâm tôi hét lên một tiếng ghê gớm như làm tan vỡ cả linh hồn: Trăng ơi! Tất cả người tôi vang lên một điệu u trầm, ảo não: Trăng ơi! Hình như trong hồn, trong máu, trong phổi, trong tim tôi lúc bấy giờ đều chứa đựng toàn những mạch tình trìu mến, yêu thương da diết, quấn quít lấy Trăng.

    Tối hôm ấy, tôi ngây dại ra đi trong trăng mờ lạnh. Những tư tưởng điên cuồng nung nấu, sôi nổi cả người, lý trí bị ám hoặc, một ý nghĩ ghê gớm nảy nở và cắm rễ trong hồn tôi. Và như một cơn cảm hứng mãnh liệt, ý nghĩ ấy cứ lấn át, chiếm cứ lấy linh hồn. Tôi cuồng loạn theo uy lực của tình yêu bị kích thích đến cực điểm. Qua bao la, của đêm trăng mờ, tôi mê man theo sự xúc động điên cuồng, lần tìm đến mồ Trăng. ý nghĩ dị thường vẫn bùng cháy như một ngọn lửa: tôi rồ dại muốn nhìn thấy mặt Trăng.

    Đứng trên đồi chôn Trăng, dưới trăng mơ hồ mà trước kia tôi đã cùng Trăng say ngắm, đi qua chốn này, hôn nhau lần đầu tiên, tôi đau đớn ngây ngất khi nhìn thấy gò đất mới đã che lấp Trăng bên những ngôi mả trắng. Cơn bão táp trong não cân lại nổi lên ồ ạt, như một người điên, tôi vác cuốc đem theo mờ loạn đào mồ chôn Trăng. Đất mới đắp còn mềm, dễ bới, tôi say sưa với ý tưởng nhìn lại mặt Trăng, không còn biết gì là mệt nhọc.

    Nhớ lại khi ra đi đã khuya, đến lúc đào mồ Trăng gần đụng hòm thì nghe gà gáy, tôi hoảng hốt vội vã lên vì sợ trời sáng. Gió khuya ở trên đồi nghĩa địa thổi lên từng trận đem tiếng chó sủa trăng ở làng xa với những tiếng mõ canh lốc cốc. Trăng hạ tuần gần sáng càng tỏ rõ, mây đen từng lúc bay qua.

    Tôi mải miết đào, đất bắn khắp mình, quần áo lấm đầy mồ hôi vì nóng, vì cảm động. Đất khỏa ra hai bên người như mở con đường cho tôi đi đến với Trăng. Một tiếng chạm vào gỗ làm cho tôi rung động đến ngây người. Và chẳng bao lâu là tôi cạy mở được nắp hòm. Tôi kéo tung đồ liệm lên, màu vải tang đang còn mới ủ bốc lấy hơi người. Một cảnh tượng đời đời ghi chặt trong trí tôi mỗi khi hồi tưởng lại: nằm thẳng giữa đống đồ khâm liệm màu trắng, dưới trăng lạnh, mặt nhợt nhạt của Trăng có một vẻ thiên tiên lạ lùng. Những ý nghĩ điên cuồng, sôi nổi dịu dần trong trí tôi khi nhìn thấy mặt Trăng. Tôi đưa hai tay run rẩy cầm chặt lấy hai bàn tay Trăng, hai bàn tay cứng lạnh xưa kia đã ve vuốt đầu tóc bơ phờ của tôi. Những giọt nước mắt của tôi từ từ rơi trên má, trên mắt, trên môi nàng. Tôi mê man lặng ngắm Trăng rất lâu, lòng kêu rên những cảm hoài vô tận. Tưởng chừng tôi chỉ muốn ôm xác Trăng về cùng mình, vì không chịu thấu được sự chia ly, hiu quạnh đời đời. Tôi nghẹn ngào gọi tên Trăng trong lúc gió buổi hừng sáng thổi lướt trên đồi. Mặt trăng mờ nhạt tỏa xuống bóng tôi đang gục đầu trên ngực Trăng nằm trong chiếc hòm phá vỡ.

    Trời sắp sáng rồi. Tôi còn phải đậy hòm lại, lấp đất lên. Lần cuối cùng, tôi hôn lên đôi mắt nhắm kín của nàng - than ôi, đôi mắt không bao giờ còn nhìn tôi nữa hết - rồi lấy con dao nhỏ đem theo cắt lấy mớ tóc mịn màng của Trăng. Tôi vẫn tiếc nuối không nỡ rời đi, ôm chặt lấy hai tay nàng. Giờ phút ấy, tôi chỉ muốn trời đất tan sập đi, thành hư không như người trở về với cát bụi.

    Tôi còn ngây ngất trước cảnh tan nát xé dạ, thì lạ lùng thay, tay Trăng như động đậy trên tay tôi. Và, trước sự kinh ngạc của tôi, đôi mắt nhắm cứng của Trăng bỗng từ từ mở ra nhìn tôi. Rồi tự nhiên đôi môi của Trăng hé mở để lộ những răng trắng tinh. Không phải vì tôi quá cảm xúc mà bị mê hoặc đâu! Trăng bắt đầu uốn mình như người tỉnh dậy sau giấc ngủ đầy mệt nhọc. Và đôi mắt Trăng mở trân trân, ngạc nhiên khi nhận thấy mình đang nằm trong hòm, giữa bãi tha ma, và bên nàng lại có tôi.

    Cái ý nghĩ Trăng bị chôn sống thoáng qua trí tôi đánh tan tất cả bỡ ngỡ, hãi hùng.

    Thế châm diêm đốt cái píp đã tắt rồi nói tiếp:

    - Tôi đã đến kịp để cứu Trăng ra khỏi cái trường hợp tàn khốc, ghê gớm ấy. Tôi tin rằng có một sức mạnh thiêng liêng, thần bí đã nhập vào hồn tôi.

    Khi đã gỡ Trăng ra khỏi đống đồ liệm, tôi cởi áo ra, đặt nàng nằm nghỉ cho tỉnh hẳn. Trong lúc ấy tôi nhét đồ liệm vào hòm, đậy nắp lại rồi đắp đất lên, không để lại dấu vết gì để ai có thể nghi ngờ rằng xác chết bị mất trộm hay người chết trong hòm đã sống lại.

    Trời vừa sáng thì tôi đã dìu Trăng về đến nhà người bạn. Trăng kêu khát và đói lắm vì đã ba ngày đêm ngất lịm. Uống sữa vào tỉnh hẳn người, Trăng cặn kẽ kể lại:

    - "Em đang đau bỗng mê man, nói sảng luôn mấy ngày, rồi đến lúc nguy kịch... Có buổi sáng, lý trí trở lại với em một cách thình lình, nhưng thầy thuốc chứng rằng mạch em đã yếu lắm. Em cũng tự biết đến hồi nguy ngập và hấp hối. Thời kỳ cuối cùng, em bắt đầu thấy không đau đớn nữa, mình nhẹ nhàng đi vào một thế giới mơ hồ. Từng lúc em có cảm giác rằng linh hồn được tự do bắt đầu thoát ly. Trong một cuốn sách về y học của anh cho em mượn đọc, em nhớ có nói rằng lúc gần chết, sức mạnh tinh thần của ta không bị đụng chạm gì đến, và ở những người mà tâm tính vẫn giữ được cứng cỏi thì linh hồn được thêm năng lực. Khi cơn bệnh được yên tĩnh đôi chút thì óc được tách ra làm việc như thường. Em đã nhận thấy đúng như thế sau vài lúc mê sảng, hoảng hốt như cuồng tâm.

    "Sau mấy hôm lịm đi, thình lình em bỗng tỉnh trí với tất cả sự sáng suốt. Trong giấc ngủ chết, tuy mình mẩy cứng đờ, không thể cử động được nhưng em vẫn nghe thấy lờ mờ chung quanh. Lúc ngất đi, em còn nghe tiếng đồng hồ đánh mười giờ, rồi như chớp, một sự đau đớn ghê gớm, chưa bao giờ cảm thấy, ồ ạt đến chiếm lấy người em. Cảm giác ấy tới rành rẽ và mau lẹ như một nhát dao đâm suốt qua xương thịt, mà còn khiếp đảm hơn nhiều.

    "Trong đêm đen tối, đột nhiên em nghe đồng hồ đánh năm giờ. Trước hết linh hồn em chịu tất cả những sự khó khăn để thoát khỏi chốn vô ý thức. Rồi ý nghĩ của em lần lượt theo nhau trở lại và như muốn giật lùi. Em cố cử động nhưng không một chân tay nào theo sự sai khiến của lý trí. Em còn ngờ nghệch trước cơn mê lịm của thể xác im lìm thì linh hồn bỗng sôi nổi lên, suy nghĩ một cách mau chóng lạ thường. Trong một chớp nhoáng của tâm thần sáng suốt, em thấy rõ trước sự kinh đảm của người chết. Trên hai sợi dây đưa quan tài xuống địa huyệt, xác mình đụng vào săng, còn ở trên, những người thân yêu vứt xuống nắm đất vĩnh quyết. Và trên hòm, có tiếng nện đất, rồi đắp mộ xong, mọi người xây lưng lại, trở về với cuộc đời. Em tưởng tượng ra dưới tận chỗ ở cuối cùng hết sức chắc chắn và kín đáo, sự lạnh lẽo ghê gớm của bóng tối bất diệt. Em nghĩ đến anh, anh yêu dấu của em ở xa xôi không hay biết gì hết.

    "Em tưởng rằng trường hợp của em không phải là khác thường và có lẽ lúc chết ta vẫn luôn luôn có ý thức, linh hồn còn sáng suốt trong cái thân xác cứng đờ, người chết có lẽ phải biết qua các lúc tẩm liệm. Trong cảnh ngộ hãi hùng ấy, nghĩ đến đêm lạnh đời đời dưới đáy huyệt âm u, linh hồn sẽ tiêu tán theo xác thịt hay là về đâu? Em đau đớn nghĩ đến anh bơ vơ, cô độc, đời anh không có em thì buồn khổ, hiu quạnh biết chừng nào. Thế rồi em ngất đi...."

    Thế kể tiếp:

    - Người nhà Trăng thấy tim nàng ngừng đập, da và môi nhợt nhạt, hai mắt nhắm nghiền, thân thể cứng lạnh, mạch đứng, nên cho là chết thật. Vì cái chết bề ngoài của Trăng rõ ràng như thế, thì không ai có thể nghi ngờ và không vin vào cớ gì để nghi ngờ rằng Trăng chưa chết hẳn. Và sự chôn lầm người còn sống bởi đây mà ra. Chính lúc tôi đào mồ Trăng lên cũng thấy nàng nằm trong một dáng điệu của người chết. Sự may mắn kỳ diệu là Trăng tỉnh ra giấc ngủ chết, cái chết bề ngoài, nhằm lúc tôi phá hòm chôn đựng nàng.

    Sự sung sướng vô cùng của chúng tôi gặp lại nhau trong một trường hợp dị thường như thế, loài người không có thứ tiếng gì để tả nổi.

    Tôi phải giấu giếm việc Trăng được cứu khỏi bị chôn sống, đợi nàng thật lành mạnh rồi chúng tôi bỏ Huế vào Sài Gòn, sống xa lạ hẳn để không ai tìm biết được cuộc tình duyên lạ lùng của Trăng và tôi. Tôi viết một bức thư về nhà nói mình vì thích phiêu lưu nên đã xin làm dưới tầu đi ngoại quốc. Đối với gia đình, tôi thấy có lỗi nhưng tôi biết rõ tính tình cương quyết cực điểm của thầy tôi không bao giờ cho phép tôi lấy con một người mà thầy tôi đã khinh.

    Chúng tôi sống cùng nhau được mười ba tháng thương yêu tha thiết thì Trăng chết, và lần này chết hẳn thật. Trái tim của nàng trước kia đã yếu vì lần chôn sống càng yếu thêm, rồi mỗi ngày thêm nặng, và nàng đã nhắm mắt trong tay tôi.

    Im lặng một lúc, Thế kết luận:

    - Bây giờ anh đã rõ tại sao tôi tránh không muốn nói đến đàn bà. Người ta chỉ một lần yêu... Sau Bích Trăng, đàn bà đối với tôi không có gì nữa hết!

    Lời Thế vừa dứt, trong im lặng, đen tối, con quạ của chàng lặp lại: Không có gì nữa hết!

    Chúng tôi ngồi yên lặng giờ lâu, và trong lắng chìm của bóng tối u huyền, vang ngâm giọng Thế đọc theo nguyên văn bài thơ của nhà thi sĩ Mỹ:

    "Một hôm giữa cảnh đêm khua rờn rợn ta đang mỏi mệt gục đầu trầm ngâm đọc lại mấy cuốn sách cổ kỳ dị không còn ai tìm đến. Trong khi ta lao đao muốn ngủ, thốt nhiên, nghe tiếng động se sẽ, như tiếng ai gõ nhẹ vào cửa phòng ta. Ta lẩm bẩm: "Chắc ai lại thăm gõ cửa phòng ta; chỉ thế thôi, và không có gì nữa hết".

    "à, ta nhớ lại rõ ràng, đêm hôm ấy vào khoảng tháng chạp lạnh lùng; mớ củi tàn xơ xác nằm chơ vơ in bóng trên mặt đất. Ta thì nóng lòng chờ trời mau sáng vì u sầu tràn ngập cả hồn, ta cố khuây lãng trang sách mà không được. Ta buồn rầu tưởng nhớ đến Bích Trăng không còn nữa, nhớ đến nàng yêu kiều lộng lẫy mà thiên tiên kêu gọi là Bích Trăng, chờ dưới trần gian không còn có ai gọi đến tên nàng nữa hết.

    "Tiếng mơ hồ, dìu dịu, rầu rầu của mấy tấm màn điều lao xao thấm đượm, tràn ngập hồn ta những rùng rợn gớm ghê, mà chưa bao giờ ta đã cảm rung như thế, - đến nỗi ta phải nhắc nhở mình luôn cho lòng bớt hồi hộp: "Chắc khách qua đường muốn vào đây tạm nghỉ trọ, chắc vậy chớ không có gì nữa hết".

    "Tâm trí lần lần mạnh dạn lên, rồi tôi không ngập ngừng lâu nữa: "Ông hay bà nào ngoài đó, tôi xin thất lỗi, số là tôi đang chập chờn ngủ thì ông hay bà lại gõ cửa, nhưng tiếng gõ khẽ quá, tiếng gõ cửa phòng nhỏ quá, nên tôi cũng không rõ là có ai gõ thật hay không". Nói rồi tôi mở toang cửa ra - ở ngoài chỉ là bóng tối đen, và không có gì nữa hết!

    "Nhìn sâu vào bóng tối u huyền, tôi đứng lặng giờ lâu, vừa kinh ngạc, sợ hãi, nghi ngờ, tưởng tượng những chuyện lạ lùng mà chưa bao giờ kẻ trần gian nào dám nghĩ đến; nhưng đêm vẫn im phăng phắc, bóng tối quạnh hiu, và chỉ một tiếng lẩm bẩm: "Bích Trăng". Chính tôi đã lẩm bẩm gọi tên nàng và tiếng dội thì thầm "Bích Trăng!" - Chỉ thế thôi, và không có gì nữa hết.

    "Tôi trở vào phòng đóng cửa lại, tâm hồn nóng hực, bỗng lại nghe tiếng gõ mạnh hơn lần trước. Tôi tự bảo thầm: "Chắc có cái gì ở cửa sổ, ta phải tìm ra sự bí mật này. Hãy để cho lòng bớt hồi hộp, rồi tìm ra sự bí mật này" - chỉ là tiếng gió thổi và không có gì nữa hết.

    "Tôi mở cửa sổ ra, thì một con quạ đen lớn, một con thần ô thiên cổ, sột sạt trên cánh cửa bay vào. Nó không tỏ vẻ gì sợ hãi, cứ nghiễm nhiên mà vào với vẻ mặt ông hoàng hay bà chúa, đậu trên cánh cửa phòng tôi, ngay giữa đầu bức tượng vị nữ thần; nó đậu yên đó, và không có gì nữa hết.

    "Vẻ trịnh trọng, oai nghiêm của dáng điệu và nét mặt con chim đen nhánh làm cho tôi đang buồn cũng phải hóa cười. Tôi nói - "Này hỡi quạ, giống chim quái gở tự đời nào từ chốn Hoàng tuyền thăm thẳm đến đây, dẫu cho cái đầu ngươi đã bị cạo gọt, nhưng ta chắc ngươi không phải là một con chim nhút nhát - vậy ngươi hãy nói cho ta biết danh hiệu cao quý của ngươi ở chốn Hoàng tuyền thăm thẳm là gì? " Con quạ nói: "Không có gì nữa hết!" Tôi lấy làm lạ rằng con chim xấu xa kia lại biết nói rõ ràng như thế, tuy câu trả lời của nó không được nhiều ý nghĩa và hợp thời cho lắm; nhưng thử hỏi có bao giờ ai là người đã được trông thấy một con chim trên cửa phòng mình mà xưng danh hiệu là "Không có gì nữa hết".

    "Con quạ đứng chơ vơ trên bức tượng lạnh lùng, chỉ nói một câu đó thôi, hình như trong đó ngụ hết cả tâm hồn tôi lúc bấy giờ. Nó không nói thêm gì nữa hết, nó không rung động đến mảy lông - cho đến khi tôi nghẹn ngào, se sẽ nói: "Bạn bè tâm huyết của ta biết bao người đã bỏ ta mà đi xa rồi; và đến sáng ngày người cũng sẽ bỏ ta mà đi nữa, như những lời nguyện ước cũ". Con chim lại nói: "Không có gì nữa hết!"

    "Giữa im lặng, câu trả lời đúng hợp như thế khiến tôi thất kinh tự bảo mình rằng: Tưởng chừng con chim này chỉ biết nói có thế, nhưng chắc đã học được câu này của một thi sĩ ba đào, bị thần tai họa tàn ác đánh đuổi không ngừng, khiến nên bài thơ nào cũng chỉ quay về một điệp khúc thảm sầu tuyệt vọng: "Thế là hết, không có gì nữa hết!"

    "Nhưng lòng đang buồn tê tái nghĩ đến con quạ cũng phải lấy làm lạ và buồn cười, tôi liền kéo ghế đệm đến trước mặt con chim, bức tượng và cánh cửa; rồi gục đầu trên nhung buồn, tôi ngẫm nghĩ, mơ màng xa xôi để tìm cho ra vì đâu con vật trầm triệu xấu xa, ốm yếu, con thần ô thiên cổ lại đến đây mà kêu: "Không có gì nữa hết!"

    "Trong khi tôi đang trầm ngâm thì con chim với đôi mắt sáng quắc như soi thấu tận đáy lòng; trong khi tôi cố xét đoán nghĩ đến ngàn vạn đường, gục đầu trên làn nhung óng ả dưới ánh đèn, màu nhung tím óng ả dưới ánh đèn, mà xưa kia nàng đã gối đầu nhưng ngày nay không còn nữa, than ôi, không còn gì nữa hết!

    "Đang nhiên không khí hình như bỗng dịu dàng, ngào ngạt hương thơm tỏa ra ở một đỉnh trầm do các vị thiên tiên từ trời hiện xuống nhẹ nhàng lướt qua nệm lót trong phòng. Tôi la lớn: "Hỡi nhà thi sĩ khốn khổ! Trời đã động lòng sai thiên tiên đem xuống cho ngươi ly rượu quên sầu đỡ tiếc thương nhớ đến Bích Trăng. Vậy thì ngươi hãy uống đi, uống đi ly rượu quên sầu, nhớ chi mãi đến Bích Trăng mệnh bạc!" Con quạ nói: "Không có gì nữa hết!"

    "Hỡi giống tiên tri quái gở kia! Chim hay là quỷ nhưng vẫn là tiên tri, ngươi do ác thần sai đến hay là bị bão táp phiêu dạt lại đây! Nhưng ngươi đã đến chỗ trầm luân khổ ải, nơi hoang lương rùng rợn ám ảnh này, thì ta xin ngươi thành thật nói cho ta biết rằng ở miền Cực Lạc có chăng, có chăng hương vị để quên được hết u sầu? Nói đi, ta van người làm ơn nói cho ta biết với!. Con quạ nói: "Không có gì nữa hết!"

    "Hỡi giống tiên tri quái gở kia! Chim hay là quỷ nhưng vẫn là tiên tri, dưới bầu trời ngươi với ta cùng sống, cùng thờ một đấng Thượng đế, xin ngươi hãy nói cùng tâm hồn sầu khổ vô hạn này rằng một ngày kia ở trên Thiên đàng vời vợi, ta có còn lại được âu yếm người con gái thanh tiết mà thiên tiên đã gọi là Bích Trăng, âu yếm một người con gái yêu quý lộng lẫy mà thiên tiên gọi là Bích Trăng! Con quạ nói: "Không có gì nữa hết!"

    "Tôi dựng đứng người hét lên: "Thôi thôi câu nói này là dấu vĩnh quyết giữa người và ta, dầu ngươi là chim hay là quỷ! Ngươi hãy trở về trong gió bão, chốn Hoàng tuyền thăm thẳm, ngươi đừng có để lại một mảnh lông đen nào của ngươi như là ghi sự láo xược, nguyền rủa đất trời của ngươi. Hãy để mặc ta sầu thảm một mình, ngươi hãy rời khỏi bức tượng ở phòng ta ! Ngươi đừng ở lại đây mà đâm xé trái tim ta nữa! Hãy đi mau, ngươi đừng để cái bóng đen nghì nghìn thu thiên cổ in hình lên cửa phòng ta!" Con quạ nói: "Không có gì nữa hết!"

    "Nói thế rồi nó vẫn luôn luôn đứng yên trên bức tượng nhợt nhạt của vị nữ thần, ngay trên cửa phòng tôi. Hai con mắt của nó giống đôi mắt hung thần đang nghĩ ngợi; ánh đèn trôi chảy trên mình chiếu bóng nó xuống đất - và tâm hồn ta trong cái bóng là là như nằm chết đó; không biết bao giờ bay lên được nữa - không bao giờ nữa hết!"


  4. Dưới đây là một truyện ngắn giá trị của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Nhung, mô tả những diễn biến rùng rợn của một chuyến vượt biên, trong đó tác giả là nạn nhân. Truyện được viết dưới dạng tự thuật, nên lôi cuốn từ đầu đến cuối, khiến người đọc vô cùng hồi hộp, như được sống lại những kỷ niệm hãi hùng của ngày xưa vượt biên.

    Ghe chòng chành giữa dòng nước, tôi sợ hãi ngồi bám chặt mạn thuyền, mắt láo liên nhìn trời đêm sáng lờ mờ ánh trăng mười chín. Chúng tôi ngồi dồn đống trong khoang thuyền. Hai tên đàn ông to người chèo ghe gõ nhẹ trên mui báo hiệu đã đến nơi tạm an toàn, chúng tôi có thể cử động đôi chút. Người chèo mũi vén tấm lá che mui nhìn vào.

    "Bây giờ mình phải đi bộ một khoảng, tui dẫn hai người một lần. Chia ra để khỏi lộ. Mấy người khác cứ ngồi đợi đến phiên, nhớ đừng nói chuyện lớn tiếng."

    Hắn dẫn hai người đàn bà ngồi sát cửa mui đi trước. Cả đám ngồi đợi ẩn nhẫn. Tim tôi chưa hết hồi hộp đập thình thịch thể như bất cứ người nào ngồi gần cũng đều có thể nghe được nhịp ấy. Phong nắm tay tôi. Tay Phong đẫm mồ hôi và lạnh. Tôi phải ngồi bệt và khom lưng, hai đầu gối co đụng cằm, gọn lỏn trong lòng Phong. Khoang ghe quá chật cho mười người ngồi lèn nhau, phía ngoài còn tấn mấy buồng chuối mùi nhựa nồng chát. Bên trái tôi, cha mẹ Phong dúi sát nhau. Một bé trai độ bốn, năm tuổi, bị uống thuốc ngủ, nằm im lìm trong lòng cha nó. Bà vợ ngồi kế bên, chân trái đạp chân tôi nhưng hình như bà không biết và tôi cũng không thể dời chân đi nơi khác. Đành chịu. Người con gái ngồi kế có lẽ là em gái bà, mặc bà ba đen như gái quê, mặt từa tựa nét.

    Khí trời đêm hơi lạnh nhưng bên trong khoang, nóng hầm hơi người. Hình như cái nóng hậm hực ấy tăng gấp bội vì trộn lẫn với nỗi căng thẳng bập bùng ngập ngụa không gian. Tôi lén nhìn đồng hồ giấu trong ngực áo. Khoảng 2g15 sáng. Tôi thì thầm nơi tai Phong "Hơn hai giờ sáng rồi anh." Phong gật nhẹ đầu. Người đàn ông chèo lái ngồi im như pho tượng. Đôi khi ánh mắt của hắn lấp lánh nhẹ dưới ánh trăng khi chớp. Cái mũi dài mang nét khoằm khiến mặt hắn lộ đầy vẻ gian ác nhưng nụ cười nở rộng với hàm răng thưa làm giảm bớt ấn tượng xấu nơi người đối diện. Hắn mặc áo bà ba đen, tay áo xắn quá cùi chỏ.

    Người đàn ông đưa hai người đàn bà lội bộ băng qua hàng cây thấp trở lại. Hơi thở của hắn nóng hôi hổi phà ngay mặt tôi khi thò đầu vào khoang kêu người đàn ông ẵm đứa con ngủ mê mệt. Người chồng bò ra đằng lái, vác đứa bé trên vai như vác bị gạo mò mẫm bước lên bờ. Vấp phải vật gì trên bờ đất, ông chúi nhủi suýt té, tay cố giữ thằng bé, người lảo đảo bước quàng xiên lòm khòm rồi mới đứng thẳng lên được.

    Tên đàn ông dẫn đường mặc áo sơ mi màu nâu đen, quần tây nhàu nát ống nhỏ túm hơi ngắn trên mắt cá, có chỗ sờn, đôi dép mỏng. Hắn ta tương đối trông được hơn người ngồi lái. Với nước da tái, môi thâm vì thuốc lá nhưng lại vẽ nên một nụ cười thật đẹp với lúm đồng tiền bên trái, kẽ răng đóng nhựa thuốc. Đôi mắt mí to với hàng mi rậm, duy có ánh mắt của hắn là không thẳng thắn, còn ngoài ra hắn dễ dàng lấy cảm tình của người xa lạ với giọng nói trầm và chậm.

    Tôi và Phong chưa bao giờ gặp hai người đàn ông này. Chuyến đi này chúng tôi qua trung gian bởi người bạn thân giới thiệu. Người bạn đó đã đến Mã Lai an toàn, chính vì vậy mà tôi và Phong mới tin tưởng nơi người trung gian này. Hơn nữa, chuyến đi có cả gia đình người thân gì đó của người trung gian cùng đi, như vậy thì không có gì để chúng tôi lo ngại. Thường là chắc ăn, người trung gian mới dẫn gia đình đi sau khi đã mối lái nhiều lần có vàng có tiền làm của hoặc manh mối bắt đầu bị lộ. Ba mẹ Phong và tôi phải xuống Cần Thơ, giả đi thăm bà con. Tôi mặc hai bộ đồ trên người, giấu theo ít vàng và nữ trang. Phong mặc quần áo nhăn nhíu không ủi. Mẹ Phong thì mặc bà ba quần thâm. Ba Phong thì vận đồ rách, vá chùm vá đụp mấy chỗ, chân mang dép rách quai cột nối bằng cọng kẽm. Tất nhiên là không dễ gì qua mắt người miệt quê đó nhưng hình như họ cảm thông (hay tội nghiệp) trước sự trá hình không mấy chỉnh nên tôi thường bắt gặp ánh mắt ái ngại nhìn mà không dám hỏi vài lần suốt đường đi.

    Đến nơi, cả bốn được dẫn đến một căn nhà nằm dựa mé sông chờ đến tối mới xuống ghe nhỏ theo sông ra cửa biển nơi có ghe lớn đợi sẵn. Trong nhà có độ hơn mười người khác đợi sẵn khi chúng tôi đến rồi chia nhóm theo ghe. Tôi dặn Phong tìm cách đi chung với người trung gian, bảo đảm hơn. Phong gật nhưng gia đình người đó cả thảy là tám, thêm hai người thì vừa đủ cho một chuyến. Nhưng tôi lẫn Phong đều không muốn đi tẻ riêng thành ra đành phải chờ chuyến chót, mười người, hơn mười giờ tối.

    Thoạt đầu, ngồi chen chúc trong khoang, tôi muốn ngộp thở với hơi người và mùi bùn non lẫn mùi nước đọng hôi hám nơi đáy ghe. Hai người chèo bắt chúng tôi khom lưng gần như nằm mọp xuống, tấn bên ngoài dằn bên trên, mấy buồng chuối xanh ngắt sau khi đậy bao bố tời dơ bẩn lên đầu mọi người. Đường đi may mắn yên tĩnh không có chuyện gì xảy ra tuy rất chậm và kéo dài như không bao giờ đến nơi.

    Người đàn ông dẫn đường trở lại, kêu bà vợ và cô em gái của bà cùng đi. Tôi chợt ngửi phải mùi nồng tanh tưởi nơi áo hắn khi hắn nghiêng người khều vai bà vợ. Bỗng dưng tôi nghe lợm giọng không hiểu tại sao. Cái mùi thật lạ lùng. Bóng tối trong khoang không cho phép tôi nhìn rõ mặt hắn. Mùi tanh đến lạ. Hơi thở của hắn cũng nặng nề hơn. Tôi thì thào với Phong sau khi hắn đã đi.

    "Anh có nghe mùi gì không?"

    "Không. Mùi gì?"

    "Có mùi tanh tanh kỳ lắm... "

    Phong bâng quơ qua chuyện.

    Mùi bùn đó mà."

    Cũng khá lâu người đàn ông dẫn đường mới trở lại. Có thể hắn đi không lâu lắm nhưng khi chờ đợi thì năm ba phút dễ biến thành năm ba giờ. Chỉ còn bốn người trong khoang. Hai tên đàn ông bàn tính nho nhỏ trên bờ. Tôi bỗng nghe gai ốc nổi đầy người. Tôi nắm chặt tay Phong. Mồ hôi tươm ướt lưng. Người đàn ông đẹp trai kêu chúng tôi ra khỏi khoang. Hắn nói, giọng khoan thai.

    "Bây giờ tui dẫn ông bà đi, hai người một. Để khỏi mất thì giờ, hai người đi với anh Ban, hai người đi với tui. Tụi tui đi hai đường nhưng đường nào cũng dẫn tới chỗ ghe lớn. Đi đông nhiều tiếng động dễ bị lộ. "

    Rồi không đợi phản ứng của người nào hết, hắn hất hàm người mũi khoằm tên Ban, đẩy cha mẹ Phong về phía đó. Quay nhìn hai đứa tôi, hắn cười, hàm răng lởn nhởn dưới ánh trăng, bóng đen lúm đồng tiền nổi rõ trên má, rồi hắn quay lui bắt đầu đi về phía rừng cây thấp. Phong nắm tay tôi đi theo hắn. Rừng cây tối mờ dù là rừng thưa, bóng lá đen ngòm trên đường lồi lõm. Tôi vấp té loạng choạng nhiều lần, đi chậm hẳn lại.

    Chợt một nhánh cây đập vào mặt đau điếng, tôi khựng lại, giằng tay khỏi tay Phong rồi đỡ nhánh cây cúi người lom khom. Bỗng dưng, tôi nghe thấy... không chắc mình nghe đúng, nhưng tứ chi chai cứng. Thứ âm thanh nhọn như tiếng mèo gào giữa khuya. Tim tôi đập nhịp cuồng. Tôi quờ quạng tìm tay Phong. Chàng đứng sát tôi, chợt tôi cảm thấy cả người mệt mỏi và thỏng dài. Người đàn ông dẫn đường quay nhìn hai đứa tôi. Bóng tối mờ nhưng tôi vẫn thấy được ánh mắt kỳ lạ của hắn. Bỗng nhiên nỗi sợ hãi ùa tới tràn ngập người tôi với sự im lặng kỳ lạ của người dẫn đường không thúc hối khi thấy chúng tôi khựng lại. Hắn không hề kêu chúng tôi nhanh bước. Thời gian đứng khựng và cả ba đứng im như chờ đợi phản ứng của nhau. Chợt Phong kéo ngược tay tôi chạy trở lại hướng vừa rời đi lúc nãy. Tôi chạy cuống cuồng theo tay kéo mù loà. Rừng cây như mê hồn trận, chúng tôi chạy bất kể mọi thứ.

    Rồi cả hai cũng trở lại được bờ sông nơi ghe cặp bến. Người đàn ông tên Ban đang cúi khom lục lọi chi nơi bóng đen nằm im bên chân hắn. Tôi đứng sựng kêu không ra tiếng. Miệng lưỡi dính thành một khối nghèn nghẹn. Bóng đen dưới chân hắn là mẹ Phong, nửa trên loã thể, tư thế co quắp, mặt úp xuống bùn. Ban hình như cũng không ngờ sự có mặt của tôi và Phong. Hắn đờ người, tay còn cầm sợi dây chuyền vàng lòng thòng. Trong khoảnh khắc chúng tôi nhìn hắn, nhìn cái búa bửa củi vất bên chân. Tôi không thấy máu vì bóng đêm làm nhoè bẩn mọi thứ. Nỗi sợ hãi dâng lấp trí óc. Ý nghĩ lướt thật nhanh trong đầu. Tôi đã hiểu tại sao chúng muốn dẫn từng hai người một. Tôi sực nhớ đến người dẫn đường. Đầu óc hoảng sợ nhưng vẫn còn sáng suốt để nghe rõ tiếng chân chạy đuổi và tiếng la của hắn đâu đó "Ê Ban, coi chừng tụi nó chạy. Ban! Ban! Tụi nó chạy rồi!" Phong vụt chạy về chỗ neo ghe. Tôi chạy theo tay níu của Phong đến sát mé nước, chân vấp vật gì. Tôi ré lên như đạp phải giòi. Nhìn xuống, ba Phong nằm nửa người vùi dưới nước. Phong khựng lại vì tiếng la của tôi rồi đẩy tôi ra sông. Tôi sặc sục, nước mới ngang ngực. Phong hét vào tai tôi.

    "Lội mau lên, lội ra giữa sông."

    Tôi bơi hối hả, tay chân nặng chình chịch vì hai bộ đồ ướt nước. Tôi quay cuồng tứ phía, không rõ mình bơi về hướng nào mới đúng. Tiếng người la hét sau lưng nghe chói tai đến độ hãi hùng. Một tràng đạn bắn vãi quanh tôi và Phong. Chàng đè đầu tôi ngụp xuống nước. Không mấy lâu, tôi ngộp thở hất tay Phong trồi lên hớp không khí. Súng nổ liên hồi như sát mang tai. Tôi luýnh quýnh đập tay chân loạn xạ, chưa đầy mấy phút đã mệt lả. Tôi càng ráng trồi lên chừng nào thì lại càng chìm xuống nhanh chừng nấy. Tôi lặn hụp lên xuống như người sắp chết đuối. Có lẽ nhờ vậy mà tôi tránh được đạn bắn xối xả chung quanh. Phong khi lặn kéo tôi hụp xuống, khi nổi đẩy tôi trùi tới. Tôi bơi tới tấp với cảm tưởng mình nổi ì một chỗ. Đầu óc tôi rối loạn nhưng hình như vẫn tỉnh táo, rất tỉnh táo để thấy ánh trăng mờ trên cao, cây cối đứng im nơi bờ, bóng nước lấp lánh quanh mình, hơi thở hào hễn, cơn mệt muốn đứt hơi và mấy bóng đen trên bờ với loạt đạn dữ dội. Tôi bơi như máy, hơi thở dần ngắn với nước tuôn vào mũi mồm sặc sục. Biết mình không đủ sức, tôi thả ngửa để Phong vịn vai đẩy đi. Hình như chúng tôi đã ra được giữa sông. Tôi nhìn vào bờ, chỉ thấy dạng cái ghe, hai bóng đen tàn ác nhoè lẫn trong bóng đêm nhưng ánh lửa nháng với tiếng nổ vẫn hiện hữu. Tôi đạp chân phụ sức với Phong, mắt nhìn thẳng lên lòng đêm có trăng sao đầy đủ. Trời đất có đó nhưng hình như bịt tai im lặng trước hành động dã man. Tôi nhẩm cầu những đấng tối cao mà tôi có thể nghĩ đến trong nhịp tim hỗn loạn.

    Tiếng súng bỗng im. Sự im lặng hãi hùng đè chụp lấy tôi. Tiếng đập nước vùng vẫy của chúng tôi bỗng trở thành tiếng động duy nhất rõ mồn một trong đêm. Tôi lật sấp người lại tiếp tục bơi, bờ bên kia vẫn còn xa thăm thẳm. Có bơi mới thấy con sông không nhỏ như tôi tưởng khi còn ngồi trên ghe. Phong nhìn lại rồi nói qua hơi thở đứt quãng.

    "Tụi nó chèo theo... bơi lẹ... lên em... May ra mình... thoát."

    Câu nói của Phong lại được đệm bằng tiếng súng nhưng rời rạc hơn lúc nãy. Tôi muốn bịt tai để đừng nghe thứ âm thanh dữ dằn chở đầy gai nhọn đâm thẳng tim óc. Tôi nhìn lui, không hiểu sao trong lúc bấn loạn, trí óc vẫn tiếp tục có lúc minh mẫn để thấu suốt những thứ không dính dáng gì hết, quanh mình. Chiếc ghe trôi lừ lừ ra giữa sông thật nhanh. Lửa đỏ loé quanh. Tôi nghe được tiếng giầm quậy nước lẫn với tiếng súng mỗi lúc thưa hơn. Tiếng lủm chủm của đạn rơi không còn nghe gần đâu đây nữa mà vạt xa xa về phía bờ bên phải. Phong kề tai thì thào.

    "Tụi nó không thấy mình. Em bơi nhẹ dưới nước trôi lần vào bờ, đừng gây tiếng động mạnh. Khi tụi nó bắn thì mình bơi nhanh hơn một chút."

    Đám lục bình nhẩn nha trôi đâu đó làm hai tên đàn ông lầm lẫn. Chúng la hét lẫn nhau.

    "Mày bắn lục bình không hà, Ban! Ê. Đ.m. tụi nó trôi hướng này sao mày cứ bắn hướng đó hoài vậy? Đ.m. giết có hai đứa mà cũng không xong, biết làm gì ăn đây mậy?"

    "Câm cái miệng của mày lại. Đứa nào để xẩy? Hả? Mẹ cha nó, tao bắn đúng chỗ, chắc tụi nó chìm rồi. Không tin thì thôi. Đ.m, bỏ cho rồi. Sống chết kệ mẹ tụi nó. Về cho xong, trời gần sáng rồi, làm cả đêm, mệt chết mẹ!"

    Mọi thứ vụt im. Không có tiếng chèo lẫn tiếng chửi thề. Tay Phong nắm cứng vai tôi trong khoảnh khắc rồi buông. Tôi chúi đầu sát mặt nước, tay chân cố khuẫy thật nhẹ nhưng vẫn mang cảm tưởng nặng chịt lào xào khuyấy nước. Im lặng nặng như tấm màn sũng nước phủ đè lên tâm trí. Tim tôi đập rối rít, mạch máu nhảy theo nhịp tim hào hễn, tai tôi nghe được tiếng bình bịch của tim mình tưởng như ai cũng đều nghe ra. Chợt có người dúi chân tôi xuống. Tôi hơi giật mình khi chân đạp phải lớp sình mềm. Phong đứng, mặt ngửa chừa mũi thở, cả đầu dìm gần hết dưới nước. Tôi bắt chước Phong, đỡ mệt vì chân chạm đáy sông nhưng phải đổi chân chống vì lớp sình mềm khiến chân chuồi nghiêng không vững. Được một lát, tôi ngẩng nhìn vừa lúc bóng đen nơi ghe lên tiếng.

    "Đằng kia kìa. Đó. Đ...đ... tụi nó vừa hụp xuống. Chỗ này nè. Mày bắn chỗ đó coi."

    Phong nắm tay tôi kéo hụp xuống nước. Nghe được câu nói của người trên ghe nên tôi kịp chuẩn bị để hít một hơi không đến nỗi chịu ngộp lâu. Đạn bắn tung toé sát nơi tôi đứng. Phong dò dẫm bước đi dưới nước. Tôi bước theo mò mẫm, chân đạp sình loạng choạng nhằm nơi trũng sâu làm tôi hốt hoảng bíu chặt tay Phong. Miệng há ra bất ngờ khiến nước ùa vào mồm, tôi ngột ngạt trồi đầu lên thở. Trước mặt, đám lục bình kẹt nhánh cây chết dồn đống bên bờ. Tôi truồi sâu vào đám lá, chỗ nước cạn ngang bụng nên ngồi chồm hỗm dưới nước. Bóng ghe đi ngang thật rõ. Tiếng nói chuyện vang vang.

    "Kệ mẹ tụi nó, về cho rồi. Mày cất đồ chưa?"

    Giọng trầm khoan thai trả lời như không bị ảnh hưởng chi hết với hỗn loạn máu me vừa rồi.

    Rồi, hỏi hoài! Xét hết mấy cái thây rồi. Trừ khi nào họ nuốt vô bụng thì tao chịu chớ... Ờ, hay là mình quay lại mổ mấy cái thây đàn bà. Tụi nó có khi nuốt hột xoàn..."

    Giọng kia bẳn gắt hơn. "Sao hồi nãy hổng nói? Mẹ nó. Xì. Đ.m, gì cũng mày. Đợi xong rồi mới nói. Xẩy hết hai đứa... Gần sáng rồi, mổ miết gì nữa. Đ. m.."

    Tiếng nói nhỏ dần theo dạng ghe loãng dần trong đêm tối. Phong đứng dậy, lần mò trượt lên trượt xuống với lớp sình nơi bờ rồi mò lên bờ đất. Tôi đạp sình nhão nhoẹt len chảy qua mấy kẽ chân, theo Phong lên chỗ có đất cứng. Bờ đất đầy rễ chằng chịt của thân cây chết, không rõ cây gì. Tôi lại vấp chân đau điếng nhưng cơn đau không đủ nồng độ để tôi nhận biết lâu hơn. Ngồi bệt xuống, tôi lần mò ngực áo tìm đồng hồ. Ánh lân tinh mờ ảo. 4g20 sáng. Tôi nói với Phong, hơi khựng lại khi nhận ra mình lạc giọng.

    "Gần bốn rưỡi rồi anh. Giờ tính sao đây?"

    Phong cởi áo vắt nước không trả lời. Tôi cởi bớt một bộ đồ bên ngoài cố vắt cho ráo rồi phơi đại trên mấy nhánh cây gần đó. Hơi lạnh thấm qua lần áo ướt còn lại trên người khiến tôi nổi ốc. Cả người tôi run từng cơn theo phản xạ cơ thể. Tôi ngồi bó gối, hai tay ôm chân co ro. Phong choàng tay qua vai tôi cho ấm. Hai đứa chúi vào nhau. Trí óc tôi dần dần tỉnh và tôi cố tránh không nghĩ đến những gì vừa xảy ra.

    Rừng cây thưa thớt không một bóng nhà hay bóng đèn. Sao thật sáng và thật nhiều. Tiếng ếch nhái ễnh ương đâu đó nổi lên thật bình yên như không có chuyện gì xảy ra. Nước mắt tôi rơi chầm chậm nhiểu trên tay mới hay. Cơn sợ hãi lắng xuống, giờ chỉ còn lạc lõng khốn cùng sau cơn bão tàn khốc. Tôi mang cảm tưởng vừa rỗng không vừa đầy ắp đến độ muốn nôn. Không biết tôi nên nói gì, làm gì. Sau con giông tàn bạo, sực thấy mình không là gì cả, tay chân dư thừa, đầu óc đầy rẫy những hình ảnh chết chóc và cảm tưởng mình rất mỏng manh dễ bị xúc phạm thì lấp đầy cả người.

    Giọt nước mắt đầu rơi xuống, khơi dậy trùng dương trong tôi. Tôi khóc ngon lành như chưa bao giờ được khóc. Trí óc lần mò trở lại xác người vấp phải nơi mé nước, sợi dây chuyền vàng đong đưa nơi tay gã đàn ông cúi mình trên cái xác trần. Hoá ra, tim tôi hụt nhịp, những người chung ghe đã chết. Tôi nhớ đứa bé trai ngủ mê vì thuốc. Cô gái trẻ thì thầm với tôi "Bồ em ở Texas. Ảnh hứa sẽ đón khi em tới đảo. Mấy năm rồi em chỉ đợi có dịp này. Tưởng sẽ không bao giờ gặp rồi chứ. " Giọng cười khẽ vui sướng đầy hy vọng của cô. Giờ thì thật là không bao giờ gặp. Tôi gục đầu ủ rũ với nước mắt. Phong ngồi im lặng lẽ. Chúng tôi đã gặp phải lũ cướp cạn tàn ác. Lũ cướp cùng màu da cùng tiếng nói với mình. Tôi thường nghe nói đến hải tặc Thái lan nhưng chưa nghe nói đến lũ cướp cùng màu da tiếng nói với mình. Giờ thì tôi hiểu, nạn nhân chết cả, lấy ai kể lại câu chuyện thương tâm nơi bờ sông vắng. Biết bao bờ sông vắng đã chứng kiến những cảnh tượng tương tự? Tôi lau nước mắt trên tay áo còn ẩm ướt, nằm lăn ra đất. Phong nằm theo, gối đầu tôi lên tay chàng. Tôi sờ soạng mặt Phong trong đêm tối mờ, ngón tay tôi ướt khi lướt ngang mắt. Tôi vùi mình trong lòng Phong, cảm kích và đau đớn vô vàn.

     

    o O o

     

    Bà ngoại Phong mất khoảng sau hai giờ sáng cùng ngày hôm ấy. Dì Sáu cho chúng tôi hay mấy ngày sau, khi hai đứa mò về đến nhà. Bà mất cùng ngày chúng tôi bị nạn. Lúc hai giờ, bà còn đòi dì Sáu rót cho tách trà. Sau đó, dì Sáu về giường của mình. Đến sáng thì bà đã chết cứng, hai chân thò ra ngoài như sửa soạn xuống giường, tay phải níu chặt thành giường, mắt mở hé.

    Phong ngồi ôm đầu nghĩ ngợi. Chập sau Phong hỏi.

    "Dì có chắc là sau hai giờ không?"

    "Chắc. Dì cho ngoại uống nửa tách trà. Lúc để tách xuống bàn sực thấy đồng hồ gần hai giờ chớ dì có tính coi giờ đâu mà nhớ."

    Dì Sáu là em út của mẹ Phong. Dì lớn tuổi nhưng không con. Chồng dì còn ở trại học tập nên dì không đi với chúng tôi, vả lại không ai trông nom bà ngoại, đã hơn bảy mươi lăm già yếu nhiều bệnh tật. Dì giống mẹ Phong nhiều nét nhưng khô khan cằn cỗi hơn. Mặt dì sưng húp vì khóc nhiều.

    Lúc mở cửa thấy hai đứa tôi, dì oà khóc như trẻ nhỏ. Thấy trở về, hiểu ngay là không thoát, phần mới chôn mẹ một mình nên dì tủi thân. Đến khi biết cha mẹ Phong tử nạn, dì khóc thảm thiết hơn. Phong chỉ ngồi yên nhìn tôi và dì Sáu, mặt chàng chai cứng với giận dữ và oán hờn.

    Tối hôm đó, Phong ngồi nơi giường ngoại, vụt nói một câu lạ.

    "Mình thoát được là nhờ ngoại!"

    Tôi nhìn Phong không hiểu. Dì Sáu hỏi.

    "Sao? Con nói sao?"

    Phong chậm rãi kể, mắt nhìn mông lung.

    "Lúc Ngà giật tay con đứng lại, tự nhiên con thấy bà ngoại. Thấy như thế nào thì con không biết, chỉ biết là thấy mà trong người không hề thắc mắc tại sao. Bà ngoại xua xua tay nói. Chạy đi con, lội qua bên kia sông. Lẹ lên. Chạy đi con! Con nghe rõ ràng giọng thúc hối nóng lòng của Ngoại. Con đang hoang mang chưa biết làm gì thì lại nghe bà nói. Mẹ mày chết rồi. Chạy mau lên con ơi. Rồi như có gì ám, con lôi tay Ngà chạy về phía bờ sông theo lời Ngoại. "

    Tôi nghe lạnh nơi sống lưng. Tôi đã không kéo tay Phong đứng lại vô cớ, rõ ràng có nhánh cây đập nơi mặt đau như trời giáng nên tôi đứng lại không suy nghĩ. Khi mặt trời lên, Phong nhìn và không thấy vết bầm hay trầy trụa nào trên mặt tôi cả. Điều này khiến tôi ngạc nhiên vì cái đau xé da thịt kia không thể nào không để lại dấu vết trên mặt. Còn tiếng gào, thứ tiếng đau đớn của một con thú bị nạn. Thứ âm thanh chỉ có thể tạo được bởi cơn đau tận cùng xương tuỷ. Phong đã không nghe tiếng gào nào hết khi giật tay tôi quay lui chạy ngược về hướng cũ. Không dám suy tưởng nhiều hơn, tôi chỉ giản dị cho rằng mẹ Phong đã tìm cách cứu chúng tôi bằng tiếng gào mà bà đã không kịp thoát thành tiếng. Tôi đã nghe được thứ âm thanh xé rách màn đêm chọc thẳng óc mình, đã ngửi được mùi máu trên áo kẻ giết người. Nếu không có nhánh cây quật mặt, tôi đã không dừng lại và đã tiếp tục ngoan ngoãn đi theo tên dẫn đường gian ác. Nếu không có tiếng gào, có lẽ tôi vẫn tiếp tục đi không chút ngờ vực. Tiếng gào và cái đau của nhánh cây quật mặt, cả hai đều thật, thật như nỗi hãi hùng của cuộc thảm sát ghê rợn nơi bờ sông vắng. Tôi đã cảm thấy được tất cả mọi thứ bằng mọi giác quan trên người. Có thể, nhánh cây làm tôi đau nhưng không để lại dấu vết, nhưng còn tiếng gào, tôi phải giải thích làm sao khi Phong không hề nghe có tiếng gào nào hết. Hai đứa tôi đã được báo động cùng một lúc bằng hai hình thức khác nhau. Và nhờ hành động vụt chạy bất thần khiến tên dẫn đường không kịp trở tay. Nếu không, nếu không... tôi vẫn thường tự hỏi, nếu không, nếu không, chuyện gì sẽ xảy ra và tôi sẽ làm gì nếu gã đàn ông không gờm tay với mình giả như tôi và Phong cùng rơi vào tình trạng sống chết dưới tay hắn? Đây là nỗi ám ảnh không biết đến khi nào tôi mới được quên dù đã yên ổn xứ người nhiều năm sau đó.


  5. Đây mùa thu tới

     

    Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,

    Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;

    Đây mùa thu tới - mùa thu tới

    Với áo mơ phai dệt lá vàng.

     

    Hơn một loài hoa đã rụng cành

    Trong vườn sắc đỏ rũa mầu xanh;

    Những luồng run rẩy rung rinh lá ...

    Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.

     

    Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ ...

    Non xa khởi sự nhạt sương mờ ...

    Đã nghe rét mướt luồn trong gió ...

    Đã vắng người sang những chuyến đò ...

     

    Mây vẩn từng không chim bay đi,

    Khí trời u uất hận chia lỵ

    ít nhiều thiếu nữ buồn không nói

    Tựa cửa nhìn ra, nghĩ ngợi gì.


  6. Ngày mai anh đi...

    Vâng !

    Em không muốn nói gì sao?

    .....Nó im lặng, ngả đầu vào lưng anh. Nói gì nhỉ? Nó nhếch mép, nói thầm trong miệng. Nó đã quá quen với sự vắng mặt của anh. Bây giờ anh có không ở gần bên nó cũng chẳng sao.

    Em thích Hương chứ?

    .....

    Sao em không nói?

     

    Cô ấy hả? Cũng được.

     

    Hợp với anh chứ?

     

    Cũng chưa biết. Em mới gặp. Anh?

     

    Hả? Anh hả....

    Anh không trả lời. Tựa cằm lên đầu gối. Một chút suy tư, hình như hơi thất vọng.....

    Tại sao anh chọn cô ấy?

    Vì... cô ấy chấp nhận tất cả thói hư tật xấu của anh..

    Còn em thì không?

    ....Không phải thế.

    Đêm. Hương dạ lan khẽ rùng mình vì giọt sương trong vắt. Khu vườn tĩnh lặng đến độ nghe được tiếng con dế trên đám lá khô. Trăng giữa hè chảy tràn trên lớp lá biêng biếc thành như dải lụa tơ mịn.

    Nó phủi quần đứng dậy. Giả bộ đưa tay che miệng, vươn vai buồn ngủ.

    Thôi, em mệt rồi. Anh cũng đi ngủ sớm đi. Mai còn lên đường.....

    Anh xoay lại, níu tay nó.

    Em không buồn sao?

    Buồn? Nó nhếch mép. Vẫn cái điệu nhếch mép cố hữu, nó không bỏ được.

    Miễn là hợp với anh. Anh thấy vui. Thế là đủ.

    Nó để mặc anh ngồi đó. Anh cứ nhìn theo đến khi bóng nó mất hút.

    Nó leo lên giường. Đêm nay trăng sáng quá, rọi xuyên vào phòng nó ngủ, vờn vẽ lọ hoa cúc trắng cùng cái ảnh anh và nó chụp chung trong công viên. Nó nhoài người, úp cái ảnh xuống. Một cái gì nhói qua lồng ngực.

    Gối êm quá. Chưa bao giờ nó thấy cái gối gấu Teddy mềm như thế này. Nó dúi mũi xuống, nựng nịu con gấu "Tối nay chị sẽ ngủ thật ngon bé ạ. Mấy đêm rồi chị mất ngủ". Nhưng nó trằn trọc, mắt cứ mở thao láo. Có lẽ do trăng sáng quá. Nó cứ nằm thế, cửa sổ mở toang, sương đêm lành lạnh....Mãi mà không ngủ được.

    Nó choàng dậy. Giật mình. Với lấy cái áo khoác lanh trắng mỏng. Bước chân xuống thềm nhè nhẹ. Anh vẫn ngồi đấy, quay về hướng cửa sổ phòng nó. Bất động.

    Đi ngủ đi anh...Đừng ngồi đây nữa. Sương xuống...Hại người lắm. ...

    Đôi mắt đờ dại, ủ dột ngước nhìn nó...như hóa đá vì thấm cái lạnh của đêm.

    Em ngủ được không?

    Dạ. Có!

    Có. Ngủ được sao? Em ác lắm!

    Bất giác nó rùng mình. Lạnh thế. Một giọt sương đêm vừa rơi xuống cánh tay áo khoác mỏng. Thình lình, anh đứng dậy, nhanh như một con sóc.

    Không! Anh không thể mất em....Anh....anh không quên em được!

    Chưa kịp định thần nó đã bị anh ghì cứng trong vòng tay của mình. Anh cao lớn, còn nó thật nhỏ bé. Anh hấp tấp, hôn như mưa gió lên mặt nó. Nó co rúm người, đẩy anh ra.

    Đừng anh! Chúng mình là bạn thôi....

    Là bạn. Bạn thôi sao?

    Vâng.

    Nó đứng lặng im. Lạnh lùng. Môi mím chặt đến gần bật máu. Anh đã xúc phạm lòng tự trọng của nó....Anh đã có người con gái khác. Chả lẽ anh lại muốn biến họ thành kẻ thứ hai như nó... Nó không chấp nhận.....

    Anh cười. Cười...đủ để nó nhận ra có một giọt nước mắt lặng lẽ rơi...

     

    - - -

     

    * * *

    tác giả Thùy Ninh.


  7. -Em thích anh.

    Nó đã thốt lên 3 từ đó trong vòng 3 giây.

    ***

    Cô ta nói gì cơ? Cô ta thích tôi ư? Tôi và cô ta chỉ vừa mới quen

    nhau trong vòng 3 tuần. À mà không, có 2 tuần tôi bận vết luận văn.

    Nói đúng ra thì cô ta đeo đẳng tôi trong 1 tuần 1 ngày...

    ***

    Anh ấy có vẻ rất ngạc nhiên trước câu nói của ta.Không sao...không sao...ta luôn gây bất ngờ như vậy mà.Thế mới gọi là cá tính.Dù sao ta cũng đã quen anh ấy được 3 tuần 1 ngày hẳn hoi rồi chứ lị...

    ***

    Một tiền duyên rất chi là...!!!

    Nó- 1 cô tiểu thư xinh xắn học lớp 12, tóc lúc nào cũng được búi thành củ hành trên đỉnh đầu,tính khí rất mạnh dạn, tự nhiên (nếu không muốn nói là vô duyên-theo cách nói của ai đó)-đang 1 tay ôm 2 bao snack,một ty cầm cốc coca-miệng nhai hỗn độn,quá hỗn độn snack và coca – hở miệng một chút là hát vang, đợi bạn. Bỗng có một con gì đó bay và đôi mắt “soi gương được” của nó (theo cách nói của nó). Thực sự là rất ngứa và đau nhưng nó vẫn cứ 2 tay ôm cái giang sơn của mình mà không chịu rời...haiz...z...z...Một cô gái...

    Hắn-1chàng thanh niên tuấn tú , lạnh lùng ,đặc biệt rất ghét những gì luộm thuộm, vòng vèo (chùng chình-chả thế mà hắn ghét bài Bến quê) và mang tính “ô mai chua” (theo cách nói của nó)-học ĐH năm 2-đang đi bộ trong công viên. Bỗng...

    -Anh ơi anh! Nó mặc dù miệng đang nhai ngồm ngoàm nhưng vẫn cố với miệng ra gọi hắn.

    Trên đời này có cả trăm người đàn ông, trong công viên cũng vậy nhưng hắn vẫn quay lại (có tật giật mình mà!) và thấy nó đang nhìn mình(thở phào nhẹ nhõm-hắn là đàn ông).Với cái bản tính thờ ơ với mọi việc,hắn quay ngoắt định đi mặc dù biết rõ ràng cô gái kia đang gọi mình. Trai đẹp là chảnh-khẩu hiệu của nó-vậy nên nó đã chuẩn bị sẵn cặp mắt rất chi là “tởm” (nói theo lối văn học “sến” thì là :đôi mắt ướt át long lanh đẫm lệ tỏa ra những tia nhìn ấm áp quá mức làm người ta phát...buồn nôn...-thật tôi ngiệp em gái quá !Mới nhỏ đã điên) nhìn hắn.Hắn đành miễn cưỡng sải từng bước dài về phía “người đàn bà biểu lộ tình cảm quá nhiệt tình kia”,buông 1 từ hất hàm:

    -Gì?

    -Em...Anh có thể xem em trong mắt em có con gì trong mắt em rồi lấy ra giúp em được không? (tôi không biết nói gì hơn ngoài việc tủi thân cùng nước mắt tuôn trào với kiến thức hạn hẹp giở cuốn sổ nhỏ ra ghi:trong tiếng Việt, 1 câu có thể lặp lại chủ ngữ 4 lần.)

    -Vậy tại sao cô không đật những đồ trên tay cô xuống rồi tự lấy đi? Hắn nhíu đôi lông mày có thể ép chết 1 con mằn thắn khuyến mãi thêm đôi mắt như nhìn món thịt lợn thối phản bác.

    -Em thấy mắt anh sáng như đom đóm thế mà không có thủy tinh thể à ?Bởi vì thứ nhất:tay em bố snack đã bẩn.Thứ 2 :Em không có gương soi và thứ 3:anh đang rãnh.

    Rõ ràng nó suy luận rất logic.Nhưng sau khi vặn vẹo 1 hồi , hắn mới chịu cúi xuống lấy con gì đó trong mắt nó.Đương nhiên là có phần bực tức và miễn cưỡng , lấn át 2 thứ đó là sự nhanh nhẹn quá mức như thể hắn đang tự dặn mình rằng con bé này bị điên hay mắc bệnh lao gì đấy-phải tránh xa...

    Xong rồi.

    -Em cảm ơn anh.Nó rối rít...Anh ăn không? Nó đưa giang sơn của mình ra

    Hắn bỏ đi thẳng chẳng buồn quăng lại một lời lạnh lùng.

    Nó mỉm cười.(Chú thích:nó là 1 người “đặc biệt” , vậy nên nó nói 1 thì nên hiểu là 10 –trong trường hợp này “mỉm” có nghĩa là rộng tới tận mang tai)

    Theo tôi,đây là một tiền duyên ...vô duyên ...có lẽ là để mở đầu cho một chuyện tình có1-0-2...

    ***

    Nhưng theo ai đó, 1 chuyện tình...đáng ghét ! (Hay còn gọi là đần độn- nói đến đây ta tự hào rằng nước Nam ta có vốn từ rất phong phú).Tại sao trong cả biển người cô ta lại chọn tôi ?Ấn tượng đầu tiên của tôi về cô ta là sự lười nhác và luộm thuộm. Tại sao cô ta không chịu để bao snack va lon coca xuống rồi tới vòi nước cạnh đó rửa chứ? Có lẽ cô ta sợ mất ăn-1 con pig. Đúng, lí lẽ của cô ta rất logic nhưng những vấn đè mà cô ta đưa ra hoàn toàn có thế giải quyết-đó là hàm hồ. Tôi học ngành luật, và nếu đưa ra tòa ,tôi hoàn toàn có thể thắng một cách “như ăn kẹo” nhưng ích gì,ai đời một luật sư lại đi cãi với một con pig mù luật – thật ra nói như vậy cũng hơi quá đáng nhưng khác gì “đàn gảy tai trâu”.Vậy nên tôi đành nghiến răng làm theo cái lí sự cùn của cô ta. Còn một điều nữa, khi tôi lấy con gì gì đó trong mắt của cô ta , cô ta đã nhìn tôi chằm chằm.Về nhà soi gương thấy mặt mình đâu có dính gì (Mặt mày sáng sủa mà sao ngu thế ? Đâu nhất thiết phải dính gì mới được nhìn). Một cô gái ngỗ ngược và bất lịch sự. Tôi không biết nhưng tôi cảm thấy rằng có ai đó đang cười sau lưng tôi...

    ***

    Nhưng theo ai đó -1 chuyện tình đáng yêu...!!!

    Ấn tượng đầu tiên của ta về anh ấy là thằng hách dịch. Ta không chịu đế giang san non nước của ta xuống là để phòng tình huống xấu nhất cơ mà. Có thể gió sẽ thổi bay snack và làm đổ lon coca (Trời lặng gió)-Hay một tên cướp chẳng hạn, sẽ giật lấy đồ ăn (thanh thiên bạch nhật-an ninh tốt-cướp cũng chả thèm đâu).Tại sao anh ấy không hiểu rồi còn nhìn ta với ánh mắt “trứng lộn” đó nữa chứ...haiz..zz...Sao trời xanh chẳng hiểu thấu lòng ta...???(Xin lỗi , lâu lâu lên cơn vậy thôi chứ không bị thần kinh đâu). Với lại lí luận của ta rất logic mà, thế mà anh ấy vặn veo đủ thứ rồi mới chịu lấy con gì gì đó trong mắt ta, cái đó làm giảm đàn ông của anh đi đấy. Hây...hây...TA LÀ ĐỆ NHẤT VÔ ĐỊCH..KAKA ...gương kia ngươi ở trên tường-thế gian ai được hàm hồ như ta...kakaka...

    Thật sự thì khi anh ấy dí sát mặt vào ta, ta mới cảm nhận được tóc mình đang cháy và tim mình đang ngừng đập.Ta nhìn anh ấy một cách rất chăm chú-1 chàng trai rất khôi ngô, đặc biệt là đôi mắt: lạnh ,sâu và có sức hút đến kì lạ.Sét đánh trúng ta rồi !!! Ta không phải là đứa hay mơ mộng như đám bạn suốt ngày chỉ biết tiểu thuyết tình yêu rồi Justin rồi Rain...nhưng giờ thì ta tin vào tình yêu sét đánh rồi.

    Khi anh ấy vừa đi...Ta đã mỉm cười ... “rất duyên”.Sao ta cười tỏa nắng như thế mà anh ấy không quay lại nhìn một cái, thật là bất công. Thôi nhưng không sao , ta cười một cái thì đến sông núi cũng đổ rầm chứ huống gì là anh ấy, anh ấy thích ta thì còn gì là kế hoạch

    ching phục tác chiến nữa(Cũng phải nói thêm :nhan sắc ta cũng chỉ sánh ngang với Thúy Kiều thôi, chẳng nhiều lắm đâu).

    Mọi chuyện chỉ mới bắt đầu thôi...

    ***

    Mọi chuyện chỉ mới bắt đầu thôi...!!!???

    ***

    Điên cái đầu mất. Cái gì mà “hữu duyên thiên lí năng tương ngộ” – cô ta đã nói như vậy. Duyên ư? Duyên kiểu gì mà ra khỏi ki túc xá đã thấy cô ta đứng đợi? Duyên kiểu gì mà ra đường luôn thấy cô ta theosau? Duyên kiểu gì mà mới gặp 1 lần , đứng từ tầng trệt nhìn lên tầng 9 đã thấy? Cô ta có mặt ở mọi lúc mọi nơi và luôn thường trực một nụ cười nham nhở. Làm sao cô ta biết tôi và tìm thấy chứ? Cô ta đeo đẳng dến nỗi tôi phải đóng kín cửa suốt 2 tuần để yên tĩnh viết luận văn. Thật là khó chịu. Nhưng một cây hoa hướng dương mọc giữa rừng thông băng tuyết. Rồi cô ta sẽ chết vì thiếu ánh mặt trời. Tôi không tin là mình thua cô ta.

    ***

    Anh ấy càng ngày càng hấp dẫn ta... Haha... Càng lạnh lùng ta càng thích. Sau 3 tuần 1 ngày...

    ***

    Sau 1 tuần 1 ngày dai dẳng đeo bám... Và giờ cô ta thốt lên 3 cái từ đó một cách không ngượng mồm ư?

    - Cô thích tôi?

    - Vâng

    - Cô thừa biết tôi không có cảm giác gì với cô.

    - Vâng.

    - Rồi sao?

    - Cho em 3 ngày. Nếu sau 3 ngày anh không thích em thì em từ bỏ.

    - Không theo tôi nữa?

    - Vâng.

    - Được thôi

    ***

    Phi vụ được thực hiện...

    ***

    Thực sự thì sức đeo bám của cô ta rất kinh khủng. Nó có thể so sánh với một con đỉa. À mà không đỉa đã là gì. Cô ta suốt ngày hắn tin gọi điện, toàn những tin dù không sến thì cũng ngây ngô kgoong chịu nỗi-nếu không muốn nói là ngu ngốc. Mới 2 ngày mà bộ nhớ lãn của tôi và di động rồi. Mà tôi chẳng hiểu sao mình lại để cô ta trong đầu nữa. Dù tôi không trả lời lại tin nào nhưng cô ta vẫn cứ nhắn. Tôi có lạnh lùng quá không? Có lẽ cái sai duy nhất của tôi là để cô ta lầm tưởng rằng tôi đang nghe cô ta và kích thích tiềm năng nói của cô ta. Cô ta đã dạy cho tôi 1 bài học đắt giá rằng ra đường nghe tiếng gọi thì đừng bao giờ quay lại, nhất là tiếng đàn bà.Ừm, mà dù có lạnh lùng hay không thì chắc chắn tôi sẽ không bao giờ thích loại con gái như cô ta. Như thé để khi chia tay cô ta đỡ đau khổ. Tính ra thì mình vẫn còn lương tâm.

    ***

    Anh ấy thật sự rất lạnh lùng. Ta đã nhắn cả trăm tin mà anh ấy chẳng thèm nhắn lại một cái.Có phải sợ tốn tiền không? Theo ta được biết thì nhà anh ấy giàu mà. Thật là mất mặt quá! (Ngươi mà cũng biết mất mặt ư?) Nhưng không sao...có công mài sắt có ngày nên kim mà... À, mà còn một vấn đề nữa, tại sao ta đã cười cả trăm lần mà anh ấy vẫn không đổ. Tại sao? Hehe... Chắc là đang muốn giữ thể diện đây mà, làm gì có ai cưỡng lại được sức quyến rũ của ta chứ...kaka...(???????)

    ***

    Sau 3 ngày...


  8. Chuyện tôi sắp kể với bạn là chuyện tên Đức, kẻ chuyên sống bằng nghề cho vay nặng lãị

    Hắn có khoảng vài trăm con nợ. Vài người trong số đó vì quá tuyệt vọng, vì không chịu nổi lãi suất kinh hồn của hắn, đã đi đến chỗ tự tử để tự giải thoát khỏi bàn tay đẫm máu của hắn. Số người bị lãi mẹ đẻ lãi con làm tán gia bại sản cũng không ít.

    Các nạn nhân của hắn nguyền rủa hắn một trăm ngàn lần, hắn vẫn tỉnh bơ và vui cười ngoác cả miệng với họ miền là đừng có bớt số "phân" của hắn. Lạ thay, lời nguyền rủa thứ một trăm ngàn lẻ một đã kết thúc đời hắn một cách hết sức kỳ lạ.

    Tôi nợ hắn hai triệu đồng, hắn tính tôi một số lời tóe máu, nhưng ác hại hơn cả là hắn lại coi tôi như một bạn thân... Điều này làm tôi bực mình, vì là bạn thân, tôi phải về hùa với hắn để dửng dưng trước những giọt lệ khóc than, những lời van xin của các nạn nhân của hắn.

     

    - o O o -

    Sáng hôm đó tôi thấy hắn ngồi ở bàn giấy, trước mặt hắn là một người trẻ tuổi, nước da tái mét, nhưng rất đẹp traị

    Người tuổi trẻ đang năn nỉ: "Bác Đức ơi, tôi thật không thể trả nợ bác ngay được, nhưng tôi van bác, xin đừng vội siết nợ. Mẹ tôi đang đau, nếu bà biết bị đuổi khỏi nhà, chắc bà chết mất. Bác làm phước cho tôi gán bức tranh nàỵ Đây là tác phẩm quí giá nhất của tôi và tôi mong sẽ để đời; tôi đã vẽ đi vẽ lại cả trăm lần mà vẫn chưa thật vừa ý, và cũng chưa hoàn tất hẳn. Tôi cảm thấy như vẫn còn thiếu một cái gì đó. Chưa biết rõ là cái gì, nhưng rồi tôi sẽ tìm thấy và sẽ hoàn tất tác phẩm tuyệt vời nàỵ Xin bác tạm nhận tranh này để trừ vào món nợ của tôi".

    Đức cười gằn. Thấy tôi, hắn gọi tôi vào và chỉ cho xem bức tranh khổ trung bình đang đặt dựa vào tủ sách. Xem tranh tôi phục quá; ít khi tôi gặp một bức tranh đẹp như vậỵ Tuy đề tài rất tầm thường: một người tráng sĩ, tay vung một lưỡi gươm, đằng sau là khói lửa từ một kinh thành đang cháỵ

    Thấy tôi thích, nhà họa sĩ nghèo cho biết anh đã nằm mơ thấy mình là người tráng sĩ trong khói lửa đó từ lâu lắm, bây giờ coi như vẽ gần xong mà anh vẫn chưa quyết định đặt tên cho bức họa...

    "Ông thiếu tôi "hai cây rưỡi" vàng, ông Trọng Cư", Đức bổng lên tiếng. "Nhưng bức tranh của tôi giá trị có thể gấp đôi!". "Có lẽ, nhưng phải trong cả trăm năm nữa, tôi đâu có sống tới lúc đó!".

    Tôi chợt nhận thấy ánh mắt hơi có vẻ chịu của Đức. Hắn phán: "Thôi được, tôi thương cậu lắm nên mới tạm nhận và gia hạn cho cậu ba tháng nữa phải trả đủ cho tôi số vốn, số lãi coi như đổi tranh".

    Trọng Cư nói như muốn khóc: "Bức tranh để đời của tôi mà chỉ được số tiền lãi thôi saỏ Nhưng thôi, cũng được vì bây giờ tôi không lựa chọn gì được."

    Người họa sĩ buồn bã bước ra cửa, Đức còn nói với theo: "Khi trở lại thanh toán, nhớ đặt tên cho bức tranh nhé!"

    Bức tranh sau đó được treo lên tường ngay sau bàn giấy của Đức.

     

    - o O o -

    Ba tháng qua mau như gió thoảng. Trọng Cư không kiếm được tiền trả.

    Chàng cầu khẩn, van xin, hứa hẹn đủ điều nhưng không lay chuyển nổi lòng Đức, tên vua cho vay nặng lãị Ngày thừa phát lại mang "giấy tống xuất" lại căn nhà của họa sĩ nghèo, viên chức này thấy hai mẹ con nhà họa sĩ nằm chết cong queo trên chiếc võng duy nhất, bên cạnh một nồi chào gà.

    Trên bàn có một lá thư gởi cho tên Đức: "Tôi đã hứa đặt tên cho tranh, vậy tên nó là TUỐT GƯƠM TRẢ HẬN".

    Đức không hài lòng, hắn bảo: "Tên bức tranh này không hay, hơn nữa bây giờ thằng họa sĩ ngỏm rồi, trả hận bằng cách nàỏ"

    Hắn không biết rằng hắn vừa thốt lời thách thức quỷ thần!

    - o O o -

    Một buổi sáng lại chơi, tôi thấy Đức có vẻ bồn chồn nóng nảỵ

    - Này, cậu nhìn bức tranh xem có thấy gì lạ không?

    Thấy tôi trả lời "Không" hắn có vẻ hài lòng và giơ tay vuốt trán, tôi chợt thấy trán hắn ướt đẫm mồ hôị

    - Tôi thật là hay tưởng tượng, cậu có biết không, tôi hôm qua tôi khó ngủ quá nên thức dậy đi ra văn phòng. Đêm qua sáng trăng, căn phòng được chiếu sáng, cậu biết tôi thấy cái gì không? Tôi bổng thấy như tay tráng sĩ trong tranh động đậy, động đậy... rồi khiếp quá, tôi có cảm tưởng như hắn thò tay ra muốn nắm lấy cổ tôi...

    Tôi bảo: "Anh khùng quá, làm gì có chuyện kỳ quái đó! Nếu thấy không thích thì lấy dao rạch quách bức tranh là xong!"

    - Xong sao được, ai đền tôi "hai cây rưỡi" vàng đây, rồi còn bao nhiêu là phần trăm lời nữa!

     

    - o O o -

    Ba ngày sau, tên Đức mà tôi gặp không còn là tên Đức quen thuộc với nụ cười ngoác tận mang taị Hắn già đi ít ra vài chục tuổị Hắn run rẩy nhìn tôi bằng đôi mắt lạc thần: "Trời ơi, quỷ quá ông ạ. Đêm qua thằng tráng sĩ bước ra hẳn khỏi tranh để chực chém tôi, nhìn xem kìa, nhìn xem kìa thanh gươm bây giờ NẰM NGANG trong khi lúc trước nó được giơ lên! Nhìn xem! Ghê rợn quá!"

    Tôi thấy lạnh xương sống. Mình cũng điên như hắn chăng? Thật phi lý, nhưng sao thanh gươm bây giờ đây lại NẰM NGANG trong tay người tráng sĩ thật!

    - o O o -

    Tôi thúc Đức đem rạch nát ngay bức tranh, nhưng óc biển lận của hắn đã thắng cả sự sợ hãị Hắn không tin tranh có thể hại hắn thật.

    - o O o -

    ... Đức đã chết.

    Người ta tìm thấy thi thể hắn ngồi chết ở trên ghết, cổ bị đứt gần lìa khỏi người; lưỡi gươm chém vạt cả vào thành ghế.

    Tôi sợ hãi liếc mắt nhìn lên tấm tranh: lưỡi kiếm vấy máu tới gần cán.

    Kết Thúc (END)


  9. Văn học cung đình.

     

    Chúng ta biết đến một nền kiến trúc cung đình và kiến trúc dân gian Thăng Long, một nền âm nhạc cung đình và âm nhạc dân gian Thăng Long. Vậy có thể nói đến một thứ văn học cung đình và văn học thành thị Thăng Long không? Và nếu có thể thì ta sẽ phải mô tả như thế nào hai dòng, hai kiểu văn học đó? Từ điểm nhìn về hai dòng văn học như thế liệu ta có được nhận thức mới nào về bức tranh văn học dân tộc? Với bài viết này, chúng tôi cố gắng phác họa một số ý tưởng bước đầu.

     

    Nếu xét không gian sinh tồn và phát triển của văn học Thăng Long, một đô thị kiểu phương Đông thời trung đại, nơi có thành và có thị, hiển nhiên ta có quyền nói đến hai loại văn học, hai dòng văn học là văn học cung đình và văn học thành thị. Trong những thế kỷ đầu tiên từ khi nhà Lý dời đô về Thăng Long, khi mà phần “thị” - chợ hãy còn rất nhỏ bé, chắc chắn phần Hoàng thành bao bọc trong nó triều đình của các triều đại Lý, Trần là không gian chủ yếu của Thăng Long. Những nhân vật văn hóa chủ yếu ở Thăng Long trong quãng thời gian ấy là các ông vua, là hoàng tộc, là quan lại, quý tộc và những lớp người có liên hệ mật thiết với các vương triều như thiền sư, nho sĩ. Tạm thời, còn rất ít hoặc chưa có những kiểu nhân vật khác của giai đoạn sau như thương nhân, thợ thủ công, sĩ tử từ các miền quê lai kinh ứng thí, các trí thức nho sĩ, những ca nhi, ả đào, v.v… những kiểu nhân vật chủ yếu sinh tồn và có một đời sống văn hóa riêng trong khu vực bên ngoài Hoàng thành, trong phần thị - chợ (Kẻ Chợ). Ra đời tại Thăng Long trong bối cảnh như thế, các tác phẩm văn học dễ dàng và trên thực tế mang tính chất cung đình.

     

    Khái niệm “văn học cung đình” được dùng để chỉ các sáng tác văn học của vua chúa, quan lại quý tộc và các trí thức Nho sĩ, thiền sư xuất hiện trong không gian cung đình hay có mối liên hệ mật thiết với mọi hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa… của triều đình, mang đậm điểm nhìn của một triều đình về con người và thế giới. Với một giới thuyết đơn giản như vậy ta đã thấy văn học Thăng Long ở hình thái ban đầu của nó chính là văn học cung đình. Không gian vật lý cho sự ra đời của không ít bài thơ là không gian cung đình. Lý Nhân Tông với bài thơ khen tặng thiền sư Giác Hải và đạo sĩ Thông Huyền - hai người đã trổ tài thần thông biến hóa trong sân điện trước sự chứng kiến của nhà vua - là một sáng tác cung đình chính thống xét từ không gian ra đời và điểm nhìn tác giả, một ông vua có quyền tối thượng yêu cầu và khen ngợi ngay cả thiền sư và đạo sĩ, đồng thời sự khẳng định địa vị xã hội của Phật giáo, Đạo giáo cũng gắn liền với sự thừa nhận của triều đình(1). Những gì vua tôi Lê Thánh Tông xướng họa để lại Quỳnh uyển cửu ca đích thị là văn học cung đình. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1495, tháng 11, vua Lê Thánh Tông thấy hai năm được mùa liên tiếp, đặt các bài ca vịnh để ghi điềm lành. Nội dung gồm những bài về đạo làm vua, khí tiết bề tôi, vua giỏi tôi hiền, nhớ bậc anh tài kỳ tuấn và đùa viết vội thành văn, nhân gọi là Quỳnh uyển cửu ca thi tập. Bình Ngô đại cáo soạn bởi Nguyễn Trãi và Chiếu cầu hiền soạn bởi Ngô Thì Nhậm, đều ra đời ở Thăng Long, cũng là văn học cung đình. Chúng đáp ứng những yêu cầu của một triều đình vào những thời điểm lịch sử quan trọng, thực hiện chức năng quan phương chính thống. Bình Ngô đại cáo thực ra có chức năng thuyết phục/ khẳng định quyền tức vị hợp hiến hợp pháp của một người tài đức như Lê Lợi song vốn không xuất thân từ dòng dõi quý tộc nhà Trần, vào một thời điểm lịch sử hết sức khẩn trương, khoảng trống quyền lực cần được lấp đầy để ổn định tình hình đất nước. Chiếu cầu hiền mà Ngô Thì Nhậm viết nhân danh Quang Trung lại thể hiện nhu cầu bức thiết về sự cộng tác/ hợp tác của đội ngũ nho sĩ Bắc hà với triều Tây Sơn. Các bài thơ, phú, văn sách, bất kể bằng chữ Hán hay chữ Nôm… làm trong các kỳ thi tại kinh đô Thăng Long - nếu ta có thể xem đó là một loại sáng tác văn học - là văn học cung đình. Đề thi cho các thể văn đều liên quan đến đường lối trị quốc (ví dụ chế trị bảo bang - về chính trị và giữ nước), giáo dục đạo đức (ví dụ Giới sắc bách tư - Răn dạy trăm quan), những vấn đề lấy từ trong kinh điển nho gia… rèn tập cho sĩ tử năng lực giải quyết những vấn đề quốc kế dân sinh của quốc gia. Hiện mảng văn học này đã được nghiên cứu từ góc độ văn bản học Hán Nôm nhiều hơn là về phương diện văn học sử(2). Nhưng một sáng tác gọi là văn học cung đình có thể ra đời ở một không gian ngoài kinh đô, ở một địa điểm xa Thăng Long chứ không nhất thiết phải ra đời trong chốn cung đình. Dù là ra đời ở đâu, các sáng tác văn học cung đình thường mang những diễn ngôn của các triều đại; hiện thực và cảm xúc phải được trình bày từ góc nhìn của người đến từ cung đình. Đó là trường hợp bài thơ Thượng hoàng Trần Nhân Tông viết tại hành cung Thiên Trường vào năm 1289, sau cuộc chiến tranh cuối cùng chống Nguyên - Mông, bộc lộ cảm xúc của người đứng đầu một triều đại đã trải qua những trận chiến khốc liệt chống ngoại xâm, nay bốn biển đã quang, bụi đã lắng/ Chuyến đi này hơn hẳn chuyến đi năm xưa. Bài Nghệ An hành điện (Hành cung ở Nghệ An) của Trần Minh Tông làm tại Nghệ An, có câu Sinh dân nhất thị ngã bào đồng (Nhân dân hết thảy đều là ruột thịt của ta) cũng thể hiện cái nhìn, cách nghĩ của người cung đình.

     

    Đánh giá mảng văn học cung đình cũng cần chú ý đến sự đa dạng. Có những tác phẩm văn học cung đình có giá trị tư tưởng cao khi một triều đại phong kiến đang lên, vua tôi, quan lại quý tộc thực hành đường lối thân dân. Những vấn đề của cung đình khi đó, trên những nét cơ bản thống nhất với vấn đề của nhân dân, của dân tộc. Song khi vua tôi ca tụng lẫn nhau, ca tụng triều đại vua thánh tôi hiền thì sáng tác của họ khó tránh khỏi công thức, nhàm chán, thậm chí có sắc thái xu nịnh. Hoàng Sĩ Khải (thế kỷ XVI) tung hô “vạn tuế” cảnh tượng thái bình thời vua Lê chúa Trịnh: Đời sinh chúa thánh tôi hiền/ Giúp tay tạo hóa sửa quyền âm dương…Bốn mùa ước những mùa xuân/ Trị dài Trịnh chúa Lê quân muôn đời,... nhưng rồi cả vua Lê và chúa Trịnh cũng không thể “muôn năm” được. Hay Phụng thành xuân sắc phú của Nguyễn Giản Thanh ca tụng Thăng Long dưới triều đại Lê Uy Mục cũng mang chất tụng ca tương tự - điều này lại càng đáng suy nghĩ nếu ta liên hệ đến sự suy thoái của nhà Lê ở đầu thế kỷ XVI. Cuộc “bút chiến” giữa Nguyễn Huy Lượng theo Tây Sơn (Tụng Tây Hồ phú ) và Phạm Thái chống Tây Sơn (Chiến tụng Tây Hồ phú) về thực chất có thể xếp vào văn học cung đình. Hồ Tây trong mắt hai người là một ẩn dụ riêng về chế độ Tây Sơn, cả kẻ ca ngợi và người lên án đều thể hiện thái độ chính trị qua việc tả cảnh Hồ Tây.

     

    Nhưng thực tế sáng tác của nhiều tác giả lại không dễ gì đưa vào cái khuôn chật hẹp của khái niệm “văn học cung đình”. Thơ ca của nhiều nhà nho cho thấy tâm sự của người có khi thân ở cửa khuyết nhưng tâm lại để ở nơi thôn dã, núi non. Ngay trong một thi tập, có bài mang chất cung đình song có bài lại có chất thôn dã. Giới nghiên cứu văn học Trung Quốc xem những sáng tác của ẩn sĩ được coi là văn học điền viên hay văn học nông thôn (hương thổ văn học) chứ không phải văn học cung đình hay văn học thành thị. Những trường hợp như sáng tác của Chu An hay Nguyễn Bỉnh Khiêm sau khi dâng sớ xin chém bọn nịnh thần không được đã lui về ẩn dật, hoặc thơ Nôm của Nguyễn Trãi khó gọi là văn học cung đình. Về lý thuyết, đây là sáng tác của những người tuy có quan hệ mật thiết với triều chính rồi bất như ý mà lui bước, trở về điền viên vui thú và giữ gìn nhân cách đạo đức thì tâm tư suy nghĩ của họ trực tiếp hay gián tiếp vẫn hướng về nơi cửa khuyết. Song thực tế, cái nhìn hiện thực và tâm tư tình cảm của họ đã thuộc về dòng văn học ẩn dật, văn học nông thôn. Nhưng bàn về văn học nông thôn hay văn học điền viên, văn học hương thổ không thuộc phạm vi quan tâm của bài viết này

     

    Văn học thành thị.

     

    Chúng tôi dùng khái niệm “văn học thành thị” để chỉ mảng sáng tác ra đời trong không gian “Kẻ Chợ”, phản ánh những vấn đề của đời sống thị dân, văn hóa thị dân, nhìn cuộc sống và con người theo quan điểm thị dân. Tác giả của văn học thành thị có thể là nhà nho, là thương gia, là phụ nữ chứ không nhất thiết đây phải là sáng tác của những thương nhân hay thợ thủ công, hay là ả đào. Cho đến nay, chưa rõ có thợ thủ công nào làm văn thơ hay không. Và ta chỉ thấy khá ít ỏi trường hợp xuất xứ từ gia đình thương nhân như Nguyễn Hữu Chỉnh, từ ả đào như Hồ Xuân Hương(7) làm thơ. Phần lớn tác giả của mảng văn học thành thị vẫn là nhà nho, và cũng không thiếu người trong số họ có quan hệ mật thiết với triều đình. Nguyễn Gia Thiều là cháu gọi chúa Trịnh Cương bằng cậu ruột; Nguyễn Du có cha làm Tể tướng, anh trai làm Tham tụng của triều Lê Trịnh. Nhưng sáng tác của họ đã rất khác văn học cung đình của khoảng 5 thế kỷ đầu tiên. Điều căn bản là văn học thành thị phải có điểm khác văn học cung đình. Về sự kiện ta có thể đọc được trong Lịch triều tạp kỷ ghi chép năm 1718: “Phủ liêu vâng mệnh truyền cho quan dân cả nước: “Phàm các sách vở gì có quan hệ đến việc giáo hóa ở đời thì mới nên khắc in và lưu hành. Gần đây, những kẻ hiếu sự lặt lượm càn bậy những truyện tạp nhạp và lời quê kệch bằng quốc âm, không biết phân biệt nên hay chăng, cứ khắc vào ván gỗ, in ra để buôn bán. Việc đó đáng nên cấm chấp. Từ nay về sau, hễ nhà nào có chứa chấp các ván in sách và các sách in nói trên thì cho phép viên quan đi ốp làm việc ấy được lục soát, tịch thu, rồi tiêu hủy hết cả”(8). Có mấy thông tin đáng chú ý từ tư liệu lịch sử ngắn ngủi này: 1) Ở Thăng Long khi đó đã xuất hiện những truyện hay thơ quốc âm không có quan hệ với giáo hóa; 2) Chúng được khắc in để buôn bán kiếm lời (một kiểu thị trường sách với qui mô nào đó); 3) Phủ chúa (phủ liêu) cơ quan quyền lực cao nhất thời Lê - Trịnh lên án tình trạng trên và có biện pháp cụ thể nhằm chấn chỉnh như khám xét, tịch thu, tiêu hủy. Những thông tin này gợi cho chúng ta nghĩ đến một nền văn học thành thị Thăng Long đã tồn tại khá rõ nét cho đến năm 1719. Đến năm 1760, Nhữ Đình Toản khi diễn ra Nôm 47 điều giáo hóa năm 1633 đã diễn âm thêm nội dung của lệnh cấm năm 1719 nói trên. Điều đó chứng tỏ dòng văn học thành thị vẫn tiếp tục phát triển mà nhà Chúa không thể ngăn chặn được.

     

    Văn học thời này có đặc điểm gì khiến cho giới chính trị cung đình quan tâm đến vậy? Nếu giải thích là các sáng tác này được viết bằng chữ Nôm, mà nôm na là cha mách qué thì chỉ là suy diễn, hoàn toàn không chính xác. Nhiều chúa Trịnh làm thơ nôm, có khi trong cùng một ngữ cảnh, viết đồng thời hai bài một chữ Nôm, một chữ Hán tức coi giá trị hai thứ chữ như nhau. Chẳng hạn năm 1718, chúa Trịnh đã làm một bài thơ Đường luật chữ Hán và một bài thơ Nôm ban cho Nguyễn Công Hãng và Nguyễn Bá Tông đi sứ sang nhà Thanh, năm 1719, khi Đặng Đình Tướng dâng sớ xin về trí sĩ, Trịnh Cương cũng ban cho hai bài thơ khen, một bài chữ Hán, một bài chữ Nôm(9). Có cách giải thích khá phổ biến một thời cho rằng các tác phẩm bị cấm này có tính chất chống phong kiến mạnh mẽ. Nhưng lối giải thích xã hội học như vậy cũng không ổn, vì không có nhà Nho nào chống lại Nho giáo cả.


  10. l.Shirley và Abe, một cặp vợ chồng giàu có nổi tiếng keo kiệt ở New York chuẩn bị ra ngoài ăn tối. "Anh yêu, a nghĩ em nên mặc bộ váy Channel hay Gucci nào?", Shirley hỏi.

     

    Abe đáp:

     

    - Ôi, bộ nào cũng được mà em.

     

    Vài phút sau:

     

    - Anh yêu, anh nghĩ em nên đeo cái đồng hồ Cartier hay Rolex?

     

    - Ai mà để ý đến đồng hồ hả em!

     

    Vài phút nữa.

     

    - Anh yêu, em nên đeo chiếc nhẫn kim cương 5 carat có mặt hình trám hay cái nhẫn 6 carat có mặt hình tròn?

     

    - Shirley à, anh thực sự không quan tâm đến việc em mặc những gì. Nhưng nếu em không nhanh lên thì chúng ta sẽ lỡ mất giờ giảm giá 5% cho 100 thực khách đến đầu tiên đấy.


  11. Bob Andy để chiếc xe đạp trước bậc thềm và bước vào nhà.

    - Có phải coi con đó không ,há Bob?

    - Dạ con đây,mẹ Ơi.

    Bob chạy xuống bếp, nơi mẹ cậu,một phụ nữ trẻ tóc đen mảnh mai, đang nhồi bột bánh chiên.

    - Công việc ở thư viện có tốt không? con?

    - Không chê vào đâu được, Bob trả lời.

    Để kiếm thêm ít tiền túi, Bob làm việc ở thư viện thành phố vài giờ trong tuần, cậu sắp xếp các quyển sách và làm phiếu. Công việc kgông phải lúc nào cũng thích thú lắm.

    - Hannibal, bạn con, có gọi điện - Bà Andy vừa nhồi bọ6t vừa nói. Cậu ấy có nhắn lại cho con.

    - Nhắn gì hả mẹ? Mẹ nói nhanh đi !

    Nghe tên Hannibal,Bob nhảy phốc dậy.

    - Mẹ có ghi lại trên giấy, mẹ Bob đáp. Mẹ sẽ đưa cho con ngay khi tay mẹ sạch bột.

    - Có thế mẹ nhớ Hannibal nhắn con gì không? Lỡ Hannibal cần con đến ngay.

    - Lời nhắn bình thường thì mẹ không bao giờ quên. Nhưng lời nhắn của Hannibal lúc nào cũng quá kỳ quặc... Mẹ không thể nào nhớ nỗi.

    - Phải Hannibal thích từ ngữ kỳ lạ- Bob công nhận. Bạn ấy đọc quá nhiều sách đến nỗi, có lúc,thoạt nghe, không thể nào hiểu bạn ấy nói gì.

    Bà Abdy phản đối:

    - Con nói chuyện buồn cười thế. Hannibal là đứa con đặc biệt nhất mà mẹ biết. Chắc mẹ sẽ không bao giờ quên cách cậu ấy tìm lại được chiếc nhẫn đính hôn của mẹ.

    Đúng vậy, vài tháng trước, bà Andy làm mất chiếc nhẫn có đính hột kim cương. Hannibal jones đã phỏng vấn bà thật tỉ mỉ về những gì bà đã làm trong ngày bị mất chiếc nhẫn. Sau đó,cậu ta bình thản ra phòng? bếp phụ và thò tay phía sau một hàng keo cà chua hộp: chiếc nhẫn đã lăn vào đó trong khi bà Andy nấu chín những keo khác.

    - Mẹ vẫn còn ngạc nhiên làm thế nào mà cậu ấy đoán ra được là chiếc nhẫ nằm chỗ đó. Mẹ của Bob nhận xét.

    - Hannibal không bao giờ đoán: cậu ấy lý luận. Mẹ không thể ưa cho con lời nhắn của Hannibal ngay bây giờ, hả mẹ?

    - Mẹ cho ngaỵ? à còn cái chuyện gì mà mẹ đọc? trong báo ngày hôm qua kìa? Bộ Hannibal? trúng được chiếc xe Rolls thuê trong một tháng hả?

    - Dạ phải,mẹ ạ. Đó là cuộc thi do một công ty cho thuê xe tổ chức. Có một cái lu chứa đầy hạt đậu khô đặt sau cửa kính cửa hàng, và phải đoán ra số hạt đậu. Người nào đưa ra con số gần sát nhất so với con số đúng sẽ được quyền sử dụng chiếc xe Rolls có tài xế trong ba mươi ngày ! Hannibal đã thực hiện những phép tính để tính ra tổng thể tích của cái lu, thể tích trung bình của các hạt đậu v.v... Và cậu ấy đã thắng ! Mẹ Ơi, mẹ cho con lời nhắn của Hannibal nhé?

    - Mẹ đưa d8ây- bà Andy đáp và bắt đầu lau taỵ Mẹ không biết Hannibal sẽ làm gì với chiếc xe Rolls và tài xế nhỉ?

    - Mẹ biết không- Bob nói, chúng con dự dịnh...

    Nhưng mẹ cậu không nghe nữa.

    - Lời nhắn đây- bà thông báo:" Cửa xanh số một. máy in đang quay ".

    - Ồ ! Con cám ơn mẹ !.

    Bob đã bước ra tới cửa. Mẹ cậu vừa kịp gọi lại:

    - Con nói cho mẹ nghe, lời nhắn như thế này có ý nghĩa gì hả con? Có phải viết bằng mật mã không?

    - Ồ không phải đâu mẹ ạ. Đây là một bài viết thông thường nhất. Dạ ,con đi đây.

    Rồi cậu leo lên xe đãp đi đến Thiên Đường buôn bán đồ cổ.

    Máy chỉnh hình mà Bob? phải đeo ở chân, từ khi cậu bị gãy chân trong một lấn thử leo núi, gần như không làm phiền cậu khi đạp xe, nên cậu nhanh chóng rời khỏi trung tâm thành phố và không trục trặc gì đến mục đích? chuyến đi của mình.

    Chính Hannibal đặt ra cái tên Thiên đường buôn bán Đồ cổ. Trước kia chỗ đó tên là Hiệu đồ cũ. Chính tại nơi này, ông Jones, chú của Hannibal bán đủ loại đồ vật hỗn tạp. Việc thay đổi tên cửa hàng đã rất có lợi cho ông: bây giờ, ở mấy chục cây số quanh vùng, người ta đến Thiên đường buôn bán đồ cổ để làm áp phe.

    Bob vượt qua cổng chính- một cổng sắt vĩ đại mua ở nhà biệt thự lân cận - và chỉ dừng lại? xa hơn ba trăm mét, ngay trước góc, nơi tranh tường có vẽ một? cảnh biến giận dữ và chiếc buồm sắp chìm đắm. Bob nhảy xuống đất trước hai tấm ván nơi Hannibal đã tự làm cho mình một cửa vào bí mật đặt tên là cửa xanh số 1. Trong mắt của một con cá đang bơi giữa hai làn nước cò giấu một nút ấn. Bob ấn ngón trỏ vào đó: các tấm ván xoay đi.

    Bob đẩy xe đạp vào và đóng cánh cửa mật lại.

    Hiện, Hannibal đang ngồi trong chiếc ghế bành đu cũ kỹ và đang dùng hai ngón tay bóp chặt môi dưới, điều này luôn? là dấu hiệu của một hoạt động trí óc dữ dội. Còn bạn của cậu, Peter Crentch, thì đang cho chạy cái máy in nhỏ, trước kia hư hỏng, nhưng được Haninibal vá víu thành công.

    máy in kêu kích cắc, Peter, cao lớn tóc đen, đang cho vào máy in những tấm carton trắng vuông mà cậu rút ra ngay sau đó.

    Như vậy là Bob nói đúng: không có gì bí mật trong lời nhắn của Hannibal và lời nhắn chỉ có nghĩa: máy in đang chạy; hãy đến gặp mình ngay bằng cách đi qua cửa xanh số 1.

    Bob cất xe đạp vào góc xưởng; Peter ngừng chạy máy in và đưa cho Bob 1 tấm carton vừa mới in.

    - Cậu xem này! - Peter nói.

    Đó là 1 tấm danh thiếp, loại "làm ăn". Trên đó có thể đọc:

    Ba Thám Tử Trẻ.

    Điều tra các loại

    Thám tử trưởng: Hannibal Jones

    Thám tử phó: Peter Crentch

    Lưu trữ và nghiên cứu: Bob Andy

    - Được đấy! - Bob la lên. Có thể nói là lịch sự. Vậy cậu vẫn đeo đuổi ý nghĩ của cậu, hả Hannibal?

    - Chúng ta đã định thành lập hãng tình báo từ lâu rồi - Hannibal nghiêm trang đáp. Nay mình đã trúng được chiếc Rolls để sử dụng thoải mái trong 30 ngày, thì ta có thể dễ dàng lao đi tìm những bí ẩn để làm sáng tỏ. Vậy, đến đâu hay đó! Chúng ta chính thức trở thành 3 thám tử trẻ.

    - Là thám tử trưởng, mình sẽ có trách nhiệm hiệu chính chiến lược mọi vụ thao tác. Là thám tử phó, Peter sẽ lo về mọi hành động cần có tính lực sĩ. Còn cậu, Bob à, vì hiện cậu đang bất lợi để theo dõi những kẻ khả nghi, để vượt rào,v.v... cậu sẽ chịu trách nhiệm về nghiên cứu tìm kiếm ở thư viện và cập nhật hồ sơ lưu trữ của chúng ta.

    - Mình cũng đang làm ở thư viện, cho nên như thế hoàn toàn phù hợp - Bob tán thành.

    - Vào thời đại ta, Hannibal nói tiếp, bất kỳ công việc điều tra nào cũng đòi hỏi nghiên cứu tìm tòi sâu sắc. Nhưng tại sao cậu nhìn danh thiếp chuyên nghiệp của chúng tả với nét mặt như thế? Hay nội dung không vừa ý cậu?

    - Mấy dấu chấm hỏi ấy - Bob nói - Để làm gì vậy?

    - Mình biết thế nào cậu cũng hỏi - Peter nói. Hannibal đã dự kiến là cậu sẽ đặt câu hỏi này. Hannibal khẳng định là mọi người sẽ đặt câu hỏi này.

    - Dấu chấm hỏi - Hannibal giải thích, là biểu tượng phổ biến... của câu hỏi. Bởi vì chúng ta sẳn sàng trả lời những câu hỏi có thể đặt ra, dĩ nhiên dấu chấm hỏi phải là nhãn hiệu chế tạo của tạ Cũng dĩ nhiên là ta có 3 dấu chấm hỏi bởi vì chúng ta có 3 người.

    Bob tưởng Hannibal đã kết thúc bài phát biểu nhưng cậu con trai thông thái chỉ mới bắt đầu.

    - Ngoài ra - Hannibal nói tiếp, những dấu chấm hỏi này sẽ gợi lên sự quan tâm của công chúng. Người ta sẽ tự hỏi về ý nghĩa của chúng, y như cậu vừa mới hỏi. Như vậy người ta sẽ nhớ rõ về chúng ta hơn. Những ký hiệu bí ẩn này sẽ quảng cáo cho chúng ta; mà bất kỳ vụ làm ăn nào cũng cần đến quảng cáo để thu hút khách hàng.

    - Hết xảy - Bob nói và đặt danh thei61p trở lại chồng nơi Peter đã lấy. Bây giờ chúng ta chỉ còn thiếu 1 cái gì đó để điều tra.

    Peter ra vẻ có thần cảm.

    - Cậu lầm rồi, Bob ạ. Chúng ta có 1 bí mật.

    Hannibal ngồi thẳng người lên, trông cậu đỡ béo mập hơn.

    - Chỉnh lại! Hannibal can thiệp. Chúng ta chưa có, nghĩa là chúng ta biết về sự tồn tại của bí mật, nhưng chúng ta chưa được thuê để làm sáng tỏ nó. Có 1 trở ngại nhỏ.

    - Vấn đề gì? Bob hỏi, hết sức chăm chú.

    - Ông Alfred Hitchcock đang tìm 1 ngôi nhà có ma cho bộ phim sắp tới - Peter giải thích. Ở trường quay, ba nghe nói như thế.

    Ông Crentch thật sự làm việc ở Hollywood, nơi ông lo về các xảo thuật.

    - Một ngôi nhà có ma hả? Bob nhíu mày hỏi. Nhưng đâu có điều trạ Có liên quan gì đến chúng ta?

    - Chúng ta có thể tìm hiểu xem 1 ngôi nhà nào đó thật sự có ma hay không. Dù có hay không, thì cũng sẽ là quảng cáo cho chúng ta, và thế là nhóm của ta được lăng xê!

    - Có thể, nhưng ông Hitchcock chưa bao giờ yêu cầu bọn mình làm việc cho ông ấy. Bob phản đối. Đó là cái mà cậu gọi là "trở ngại nhỏ" đó hả?

    - Vấn đề chỉ là thuyết phục ông ấy dùng đến dịch vụ của ta - Hannibal đáp. Mà chúng ta sẽ làm hết sức mình để thuyết phục.

    - Tất nhiên. Bob nói mỉa mai. Chúng ta sẽ xếp hàng từng người 1? bước vào phòng làm việc của 1 trong các đạo diễn danh tiếng nhất thế giới, rồi nói ông ta: "Xin chào ông chỉ. Ông chủ cần người hả?".

    - Các chi tiết thì hơi sai nhưng ý chung thì gần đúng. Hannibal trả lời. Mìnnh đã gọi điện cho ông Hitchcock để thỏa thuận về 1 cuộc gặp.

    - Và ông ta trả lời chịu gặp cậu sao - Peter ngạc nhiên hỏi.

    - Không - Hannibal công nhận nhưng không bối rối. Nói thật thì cô thư ký không cho mình nói chuyện với ông ấy.

    - Hứa hẹn quá há! Peter nhận xét.

    - Còn hơn nữa, chị ấy doa. sẽ kêu công an đến bắt tất cả bọn mình nếu bọn mình thử đi gặp ông ấy. Hannibal nói rõ. Các cậu biết không, thư ký tạm thời của ông Hitchcock hóa ra là 1 cô gái ở thành phố Rocky thân thương của ta, và chị ấy học cùng trường chúng tạ Chắc chắn 2 cậu nhớ. chị ấy tên là Henrietta Larson.

    - Henrietta Phá Đám! Làm sao mà không nhớ được! Peter la lên.

    - Khi cần phá quấy những đứa nhỏ hơn chị ấy, thì chị ấy còn tệ hơn cả giám thị, Bob nói thêm. Nếu Henrietta Larson là thư ký của ông Hitchcock, thì bọn mình có thể đành chịu thua không lo bất cứ cái nhà có ma nào cả. Cả hổ cũng hải sợ 1 cô gái như thế.

    - Những trở ngại, Hannibal đáp, đã được phát minh ra để ta vượt quạ Sáng mai ta sẽ đến Hollywood trong chiếc xe ô tô của ta, và ta sẽ đến thăm ông Hitchcock.

    - Để cho Henrietta gọi công an theo dõi bọn mình à? Bob phản đối. Mình thì sáng mai làm việc ở thư viện.

    - Vậy thì Peter sẽ cùng đi với mình. Mình sẽ gọi điện thoại ngay cho công ty thuê xe để báo là ngày mai mình cần xe Rolls từ lúc 10 giờ. Còn cậu, Bob ạ, vì trước sau gì cậu cũng ở thư viện, cậu tìm trong báo và tạp chí cũ cho mình thông tin về...

    Hannibal viết nguệch ngoạc vài chữ phía sau 1 tấm danh thiếp vừa mới in và đưa cho Bob. Bob đọc:

    - " Lâu Đài Kinh Hoàng"

    - Được, Babal ạ! Bob nói. Tuân lệnh cậu!

    Ba thám tử trẻ bắt đầu làm việc. Hannibal hài lòng nhận xét:

    - Các cậu hãy lôn luôn mang theo danh thiếp bên mình: danh thiếp sẽ là quốc thư cho các cậu. Còn ngày mai thì việc ai nấy làm!

     

     

    Sành điệu là ăn đặc sản, mua thời trang hàng hiệu, đi du lịch Sapa, sài điện thoại Vertu, Laptop Mac


  12. Em là hạt cát trong biển đời sâu thẳm

    Tri thức kia là cả một đại dương

    Rất nhiều ngã, chẳng thể chọn một con đường

    Thầy chỉ lối, mở ra nhiều cánh cửa

     

    Em là tia nắng trong ban mai chan chứa

    Rọi vào đâu để thấy có ích hơn?

    Thầy nâng đỡ cho cánh chim đang lớn

    Chăm sóc thêm cho hoa nở khắp vườn

     

    Ngày đến trường em chờ nghe giọng nói

    Những nét hoa và dáng bước ung dung

    Màu nắng kia lẫn quyện vào màu ngói

    Mái trường xưa – bao kỉ niệm đà từng …

     

    Sự nghiệp trồng người – chuyện thầy luôn trăn trở

    Em giờ đây nguyện tiếp sức cùng thầy

     

    Hạt mầm sẽ nở thành cây

    Màu xanh rồi sẽ lấp đầy hành tinh

    Công lao dù có vô hình

    Thầy cô tâm huyết lặng thinh vì người


  13. Trong màn đêm u tối, lạnh lẽo dọc bờ biển không một bóng người, xuất hiện hình dáng của một thân hình khá lực lưỡng với chòm râu dài với dáng đi có vẻ mệt nhoài, buồn chán của kẻ nghiện rượu. Lão ngư dân với độ tuổi chừng bốn mươi đến năm nay này đã về hưu quân sự lâu rồi, giờ đến những người con của lão. Bước hết nổi, lão ngồi bệt xuống mặt cát phẳng, êm dịu. Nhìn ra biển, một màu đen sâu thẳm, lác đác vài ánh đèn của một số chiếc thuyền ra khơi vào ban đêm. Gió bây giờ thổi mạnh lắm, đã mạnh còn mang theo hơi lạnh của khoảng thời gian giáp đông. Trên tay, lão ngư dân cầm một chai rượu gần cạn. Lâu lâu, cứ thể mà lão nốc từng ngụm rượu nên cả người lão nóng ran, khác xa với không gian giá lạnh bên ngoài. Và trong lòng lão cũng vậy, nó sùng sục một ngọn lửa đang cháy bỏng trong trái tim, một nỗi nhớ, một nỗi lưu luyến về những ai đó…

    Ngày xưa, lão có một người vợ rất xinh đẹp, lúc đầu, cả hai đều làm nghề ngư dân, sau chính quyền kêu gọi nên đã vào quân đội tham gia kháng chiến. Vợ lão thì làm ở đơn vị quân y, còn lão thì làm nhiệm vụ ở tiền tuyến. Sau một thời gian, gia đình lão ngư dân được nghỉ phép về nhà, và thật bất ngờ thay, người vợ sanh cho lão đến hai người con sinh đôi. Thế là gia đình lão được nghỉ ở nhà để chăm sóc, nuôi dạy chúng. Sau đó, vợ lão còn sinh cho lão thêm bốn đứa con, tổng cộng cả thảy là sáu đứa, sáu đứa đều là con trai. Thời gian cứ thế thấm thoát trôi đi, cả sáu người con trai đều đã lớn và đi nghĩa vụ quân sự. Hai vợ chồng thì đã đứng tuổi nên chẳng còn được tham gia quân đội nữa. Trong lúc chia tay với những đứa con, người vợ đã khóc đến đỏ cả hai con mắt trông thật tội nghiệp, lão thì chỉ biết buồn buồn, không nói gì. Và rồi sau đó, hai vợ chồng già lại tiếp tục làm nghề ngư dân, kiếm sống qua ngày. Cuộc sống tuy cực khổ nhưng hạnh phúc ấy cứ tiếp diễn đến một ngày có thư gửi từ chiến trường về báo rằng tất cả sáu người con của lão đều đã hi sinh. Vừa nghe được cái tin sét đánh ấy, vợ lão đã bị ngất nhưng lão đâu biết rằng cơn ngất ấy là do bị tăng huyết áp đột ngột và đã cướp đi sinh mạng của bà từ đấy. Thế là mất hết, lão chẳng còn biết trời đất là gì nữa. Hàng xóm láng giềng đều nhìn lão với một ánh mắt thông cảm, thương xót. Có nhiều người đã qua nhà lão để an ủi nhưng lão đều phủi tay đuổi về. Biết lão chẳng có họ hàng xa, nhiều gia đình ngư dân gần đấy đã gom góp được một số tiền tặng lão. Lão nhận và để đấy, chẳng ai biết lão sẽ làm gì.

    Ngày qua ngày, tháng qua tháng, năm qua năm, râu lão giờ đã dài xuống vì không được cạo trong nhiều năm, tóc lão cũng dài và bạc trắng, khuôn mặt thì nhăn nhúm lại, một phần vì đau khổ, buồn bã, một phần vì tuổi tác, lão chỉ còn giữ lại cái vẻ lực lưỡng năm nào mà thôi. Bây giờ, không vợ, không con, không họ hàng, lão chỉ còn biết sống một mình kiếm sống qua ngày. Buổi sáng, lão đi lên “tảng đá lớn” – khu vực vừa cao, vừa dốc, vừa nguy hiểm nên không ai tới – vác thêm chiếc cần câu dài thật dài, một xô nước biển và một mớ mồi câu để câu cá vì lão giờ không còn đủ sức để ra khơi nữa. Lão cứ thế ngồi câu cá từ sáng đến tối. Về nhà, lão đem tất cả số cá câu được đi ướp muối để dành cho sáng hôm sau luộc hoặc nướng để làm thức ăn cho cả ngày hôm sau. Thoạt đầu nghe thì thấy cuộc sống an nhàn thiệt, chẳng phải suy nghĩ, chẳng phải lo âu gì hết, cứ thế mà tiếp tục sống. Nhưng thật ra, sống như thế lợi thì ít mà hại thì nhiều. Số cá mà lão câu được đâu phải do lão sắp đặt trước mà là do ông trời sắp đặt cho lão ấy chứ. Vì thế có hôm câu được nhiều cá thì đem số cá dư ra ngoài chợ bán mua gạo. Nếu ít thì ăn ít, thậm chí có ngày lão chẳng câu được con nào nên cả ngày hôm sau lão phải nhịn đói. Quả thật vất vả!

    Ngoài cả buổi đi câu cá như thế, hàng đêm, lão còn giành hàng giờ của mình để tâm sự với biển. “Sống gần biển quả thật hạnh phúc biết bao!”, lão quan niệm như thế vì trên bãi biển vắng người, lão có thể nói, có thể hét thật lớn, có thể tâm sự với biển những suy nghĩ của mình mà không sợ ai nghe thấy cả. Gió thổi mạnh mà mềm mại như muốn xoa dịu nỗi đau của lão, lão cảm nhận được như thế. Tiếng sóng biển rì rào như một bản nhạc hòa tấu du dương bất tận đưa lão đến những giấc mơ hay những quá khứ tươi đẹp, có khi đến những thiên đàng mà lão từng mơ đến. Biển thật tốt biết bao, làm bạn với biển là cả một niềm vinh dự lớn đối với lão. Có đôi lúc biển nổi sóng to giữa đêm kèm theo gió rất mạnh và mưa lớn, lão tưởng chừng như mình hoặc ai đó đã làm gì đấy làm biển tức giận, khi ấy lão sợ lắm, chỉ biết nhốt mình trong nhà. Nhưng sau cơn mưa, sóng lặng, biển êm, và cũng vào buổi tối, lão lại ngồi đấy, trên bãi cát mịn và cùng tâm sự với biển. Nhưng lão không bao giờ đi gặp biển một mình cả, lão còn mang theo chai rượu, những chai rượu mà lão sử dụng từ ngày này qua ngày khác, hết chai này lại mua chai khác, lão sử dụng tiền quyên góp của người dân để làm việc đấy. Có rượu vào, một cảm giác tê dại, đê mê, sảng khoái, cả người lão nóng lên thật mê hồn. Rượu như một chất xúc tác để lão có một tâm trạng sảng khoái hơn để trò chuyện với biển. Đôi khi, nhờ rượu mà lão còn thấy được hình bóng của vợ và các con mình xuất hiện trên biển, đang vẫy chào và mỉm cười với lão. Khi ấy, lão thật sự hạnh phúc. Nhưng gió đã thổi và kéo lão ra trạng thái nửa thực nửa mê ấy. Cuộc đời câu cá và tình bạn giữa lão với biển vẫn còn tiếp tục còn mãi.

    Nhưng cũng vì hành động khác thường ấy của lão đã thêu dệt lên hàng chục câu chuyện ma khác nhau xung quanh ngôi nhà và khu vực lão đang ở. Vì ban đêm, mỗi lần người dân trong vùng đi ngang qua khu vực lão ở, họ đều thấy nhà lão sáng nên tưởng lão đang ở bên trong nhưng lại còn thấy một bóng đen cứ mập mờ mập mờ ngay bờ biển sau nhà, từ đó mọi người cứ tưởng đó là ma, và cũng đồng nghĩa với việc lão bị nghi ngờ là bị ma ám. Mọi người đều xa lánh lão, chẳng ai muốn đến gần lão và nhất là nơi ở của lão vì cũng sợ bị ma nhà lão ám.

    Lúc đầu, khi biết được mọi người nghĩ thế về mình, lão tự cười một mình mà ra nước mắt, sau đó lại xuất hiện một nỗi buồn man mác. Nhưng đã là bạn của biển một thời gian dài thì mãi mãi vẫn là bạn, không thể tách rời được. Và đêm nay cũng vậy. Sau khi ngổi bệt xuống cát, tu từng ngụm rượu vào cổ họng, lão ngâm vài câu thơ rồi cũng lại tâm tình cùng biển. Nhưng mọi ngày, sau khi tâm sự xong, lão thường về nhà ngủ, hôm nay lại khác. Bởi vì gió biển mát lạnh một cách lạ kì kèm theo bản nhạc du dương khác thường của sóng, lão không thể nào về nhà mà nằm ngủ tại bờ biển. Sáng hôm sau, người dân làng chài tụ tập đông đúc bên chỗ lão nằm và bàn tán xì xầm. “Trời ơi, vậy là tối hôm qua cái hồn ma đó đã dẫn ổng tới đây rồi đó hả, ghê quá!”, “Đã bảo rồi mà, thế nào cũng có ngày này, linh hồn mỗi lúc một rùng rợn!”, “Chắc đây là hồn của mẹ con lão dẫn lão ra đây nhảy múa rồi ngủ quên luôn ở đây chứ gì!”,… Bỗng nhiên, lão mở mắt ra. “Ối ối! Kẻ bị ma ám tỉnh giấc rồi kìa, chạy thôi!”, “Á! Chạy mau bà con”, mọi người tá hỏa chạy túa ra khắp nơi, lão ngồi dậy, chẳng biết gì hết. Tin đồn lan rộng mỗi lúc một nhanh, càng lan càng mãnh liệt vì còn được thêu dệt nên nhiều tình tiết rùng rợn khác làm người người ai nấy đều khiếp sợ. Đến tai của trưởng làng, sự việc này được thêm khắc đến nỗi giống như có khoa học chứng minh là đúng vậy. Vốn là một người không ưa chuyện ma quỷ mà lại rất thương dân, một phần vì câu chuyện này được thêu khắc, cải biên lại quá thực tế nên trưởng làng đã quyết định đuổi lão ngư dân ra khỏi làng và cho lão một miếng đất ở một nơi ở mới xa thật xa. Đến ngày ông trưởng làng cùng mọi người đến nhà lão để đuổi lão đi thì chỉ thấy một căn nhà nhỏ trống hoắc, chỉ còn những vật dụng linh tinh mà không thấy lão đâu cả. Mọi người hùa nhau chạy xuống bờ biển tìm kiếm nhưng cũng chẳng thấy đâu. Lão đã biến mất thật rồi. Đến bây giờ, trưởng làng cùng người dân mới thật sự sợ hãi và vội vã đốt căn nhà của lão ngư dân, ngôi nhà đã từng được cho rằng bị ma ám. Cũng từ ngày hôm đó, mọi người không thấy bóng ma lởn vởn ở bờ trên bờ biển vào mỗi tối nữa. Nhưng chuyện lão biến mất vẫn còn là một bí ẩn không thể giải thích và nó đã trở thành một câu chuyện ma nổi tiếng của làng chài ven biển này.

    Đến năm 1975, khi đất nước được giải phóng, tôi cùng các chiến sĩ về lại quê hương, làng chài quen thuộc ngày nào và lại được nghe kể truyện về ông lão ngư dân ấy. Nghe kể xong, tôi bán tín bán nghi, không biết thật giả ra sao nhưng tôi tin rằng chuyện lão biến mất là có thật chứ còn lão bị ma ám là chuyện hoang đường, vô khoa học, có lẽ do hiểu lầm. Cho đến một ngày nọ, tôi nghe tin rằng có người phát hiện xác của lão ngư dân năm xưa trên một ngọn đồi nhỏ các làng chừng vài cây số. Tôi thầm mừng cho lão vì có lẽ oan khuất của lão đã được giải thì phát hiện bên cạnh lão có một bức di chúc viết rằng: “Gia đình tôi có hai anh em sinh đôi, tôi có một người vợ và sáu đứa con sinh sống ở đây đã lâu lắm rồi, còn đứa em của tôi cùng vợ nó đã bị chết ở chiến trường Việt Bắc đã lâu lắm rồi. Hiện giờ tôi có một gia tài lớn mà không có ai để trao lại nên xin giao hết cho trại trẻ mồ côi địa phương. Nơi cất giấu nó ở…”. Tôi đọc xong di chúc cùng ông trưởng làng, cả hai cùng đứng lặng người, nhìn nhau, mồ hôi toát ra. Và bí ẩn về lão ngư dân vẫn chưa kết thúc…


  14. Một đôi uyên ương mới cưới đến nghỉ trăng mật trong một trang trại ở vùng quê. Ông chủ trang trại khá tốt bụng, tạo điều kiện tối đa cho đôi bạn trẻ tận hưởng hạnh phúc.

    Đến mỗi bữa ăn, ông ta đều ra trước sân gọi với lên căn gác nơi hai người đang trọ nhắc họ xuống dùng bữa.

     

    Sáng nọ, vừa nghe tiếng gọi, chàng trai thò đầu ra và trả lời không cần ăn sáng. Đến trưa sau khi người đàn ông gọi, chàng trai lại ở trần thò đầu ra cửa sổ trả lời:

    - Chúng cháu không cần ăn đâu, chỉ sống bằng quả của tình yêu thôi.

     

    Ông chủ trang trại càu nhàu:

     

    - Không ăn cũng không sao, nhưng ăn quả tình yêu thì nhớ đừng có lột vỏ ném xuống sân. Sáng đến giờ đã mấy con vịt của tôi mắc ngẹn vỏ quả tình yêu của anh chị rồi đấy.


  15. Bà Phạm toan từ chối vì bà không muốn cần có ai phụ giúp mà trái lại bà rất thích hoạt động một mình trong bầu không khí trong lành tại đây. Tuy nhiên trước hình ảnh tiều tụy của cậu bé với đôi tay buông xuôi và đôi mắt trõm lơ, bà hơi ngập ngừng:

    - Con bà coi bộ còn nhỏ quá, và hình như nó cũng không được mạnh khoẻ lắm...

    Người đàn bà giơ tay ngắt lời:

    - Năm nay nó đã được mười sáu tuy coi nó có vẻ nhỏ hơn tuổi của nó. Như tôi đã nói, nó rất mạnh khỏe chứ không yếu đuối như hình dáng của nó đâu. Tôi bảo đảm là bà sẽ không có điều gì than phiền. Mẫn là một người giúp việc rất giỏi.

    Năm ngàn đồng một ngày đối với bà Phạm không nghĩa lý gì và bà nghĩ rằng nếu cho cậu bé này phụ giúp bà một tay, bà sẽ có cơ hội cho cậu ta ăn uống đầy đủ. Nghĩ thế, bà Phạm bèn đáp:

    - Được thôi! Mỗi ngày cháu Mẫn có thể tới đây vào lúc mười giờ sáng và đi về vào lúc năm giờ chiều. Tôi sẽ cho cháu ăn trưa luôn.

    Rồi bà Phạm quay sang phía cậu bé:

    - Sao Mẫn, cháu thấy như vậy có được không?

    Mẫn không trả lời khiến bà Phạm tự hỏi không biết cậu ta có nghe bà nói hay không vì cậu ta vẫn đứng yên cúi đầu, không hề ngước mắt. Mẹ của Mẫn ra hiệu cho bà Phạm bước ra xa với bà rồi bà thầm thì:

    - Thưa bà, tôi không muốn con tôi phải đi đi về về vì nhà chúng tôi ở cách đây khá xa. Nó có thể ngủ trong căn chòi nhỏ đàng kia và xin bà đừng bận tâm gì về việc cho nó ăn uống. Tôi sẽ đem đồ ăn tới cho nó mỗi ngày. Nó ăn uống khó khăn lắm. Tôi biết nó muốn ăn món gì và sẽ lo cho nó. Mỗi lần tôi tới, xin bà cho tôi năm ngàn đồng.

    - Thế còn cháu Mẫn thì sao? Nếu cháu ấy làm việc cho tôi, tôi phải trả tiền cho cháu mới phải!

    Người đàn bà lắc đầu:

    - Thưa bà, bà không hiểu. Tôi cần tiền để nuôi mấy đứa nhỏ ở nhà. Ba của cháu Mẫn mất rồi và bây giờ chỉ có mình nó là người có thể làm việc được để nuôi gia đình. Nó muốn làm việc để giúp đỡ tôi và bà sẽ không ân hận khi nhận cho nó giúp việc. Nó rất siêng năng, làm việc không biết mệt và không bao giờ than phiền bất cứ điều gì cả.

    - Thôi được rồi. Nhưng tôi nghĩ rằng có lẽ nó không nên ngủ ngoài lều, để tôi sửa soạn một phòng trong nhà dành cho nó. Nhà tôi rất rộng!

    - Thưa bà không sao đâu. Nó không cần ngủ trong nhà đâu. Nó khó ngủ lắm và tôi không muốn nó làm phiền bà. Nó ngủ trong cái chòi tranh kia là tốt nhất.

    Thế là ngày hôm sau Mẫn tới làm việc cho bà Phạm. Chẳng bao lâu, bà Phạm nhận thấy những gì mẹ cậu ta nói với bà hoàn toàn đúng. Mẫn không bao giờ than phiền cũng như không bao giờ tỏ ra mệt mỏi. Mỗi buổi sáng dù ông bà Phạm dậy sớm tới đâu đi nữa, Mẫn đã đang làm việc hăng say, khi thì cho gà vịt, cho cá ăn khi thì làm vườn... Dần dần bà cho Mẫn làm một vài việc vặt trong nhà và bất cứ việc gì bà sai cậu ta, không bao giờ bà phải nhắc lại lần thứ hai. Một hôm, bà nói với ông Phạm:

    - Thằng bé Mẫn nó giỏi thật! Nhưng nó không giống một đứa con trai mà giống như... một cái máy vậy. Ông có biết là nó không hề nói một lời nào với tôi hay không? Nó cũng không bao giờ nhìn tôi mà chỉ luôn luôn nhìn xuống đất.

    Ông Phạm càu nhàu:

    - Hừ! Tôi chỉ biết một điều là nó làm cho tôi nổi da gà. Có thể nó bị câm hay sao đó. Và theo ý tôi, có thể tâm trí nó không được bình thường cho lắm.

    Bà Phạm lắc đầu:

    - Không thế đâu, tôi thấy nó rất thông minh. Tôi chỉ có cảm tưởng như nó là một kẻ mộng du, làm việc trong khi đang ngủ...

    Ông Phạm ngắt lời:

    - Ờ, thì... giá thuê mướn như vậy cũng được... À, mà không được! Chỉ có năm ngàn đồng một ngày quả là không thể chấp nhận được khi nó làm việc thật siêng năng. Mình cho nó lên mười ngàn đồng đi. Tôi không bực bội gì vì sự hiện diện của nó, nhưng để coi việc tăng lương có khiến nó phản ứng gì hay không.

    Bà Phạm thì không nghĩ rằng Mẫn để ý tới vấn đề tiền bạc vì cậu ta không bao giờ đụng chạm tới. Mỗi ngày, sau buổi trưa cậu bé ngưng làm việc, đứng yên một chỗ nghiêng đầu như nghe ngóng. Chỉ mấy phút sau mẹ cậu xuất hiện từ sau hàng cây dâm bụt dầy đặc, mang đồ ăn trên một cái gà-mên đậy kín tới cho cậu. Bà ta chờ tới khi bà Phạm trả tiền rồi mới dẫn con tới lều và ngồi chờ trong khi con bà ăn uống. Bà Phạm nói với chồng bằng một giọng bất bình:

    - Tại sao bà ta lại không chịu để tôi cho nó ăn uống? Tôi đã thấy món ăn bà ta đem tới cho nó, trông giống như một loại cháo lỏng. Đó không phải món ăn thích hợp cho một đứa bé làm việc vất vả như vậy. Tôi thấy hình như nó còn ốm hơn khi vừa mới tới đây nữa.

    Ông Phạm hoàn toàn đồng ý. Xương mặt của Mẫn bây giờ lộ ra rõ rệt. Khi cậu cúi xuống, những đốt xương sống hiện lên thật rõ sau làn vải áo. Bà Phạm cố gắng một lần nữa khi gặp mẹ Mẫn:

    - Tôi muốn cho cháu Mẫn ăn đồ nóng hàng ngày. Nếu không, tôi không thể để nó tiếp tục làm việc như hiện tại. Nó mỗi ngày một gầy yếu. Tôi sợ rằng nó có thể bị bệnh hay làbị suy dinh dưỡng.

    Một nét hoảng hốt hiện lên trong đôi mắt người đàn bà:

    - Thưa bà, bà không hiểu đâu. Mẫn giống y như cha nó. Nó không ăn được những món ăn của bà và của tôi. Nó không thể ăn muối được. Cơ thể của nó không chịu đựng được muối. Xin bà cứ để mọi việc diễn tiến như hiện tại và xin cho cháu nó tiếp tục làm việc với bà. Nó là đứa con duy nhất mà tôi nhờ cậy được. Nếu không có số tiền mà nó kiếm được ở đây, mấy em nó ở nhà sẽ chết đói hết cả.

    Bà Phạm đành phải nhượng bộ:

    - Thôi được. Nó có thể tiếp tục làm việc với tôi. Phải nhìn nhận rằng nó làm việc rất giỏi nhưng nó có vẻ không được vui lắm khi ở với chúng tôi. Nó không bao giờ cười và cũng không bao giờ nói một lời với tôi hoặc nhà tôi.

    Người đàn bà nhún vai:

    - Thưa bà, điều đó không có nghĩa gì hết. Mẫn là đứa trẻ rất khác người. Nó không có cùng sự xúc cảm như những đứa trẻ khác. Nó chỉ biết một việc duy nhất là giúp đỡ tôi và các em nó. Xin ông bà đừng thắc mắc gì về nó. Nó luôn luôn làm những gì nó muốn. Xin hãy để yên cho Mẫn…

    Tuy nhiên bà Phạm vẫn tự hỏi “Có phải đó là việc Mẫn muốn làm hay không?”. Rồi một buổi tối hôm đó bà đứng ở cửa sổ phòng ngủ nhìn ra căn chòi tranh nơi Mẫn thường ngủ. Cậu bé không ngủ mà ngồi ngay ở cửa, hai tay bó gối nhìn ánh trăng không chớp mắt. Bà nói lớn:

    - Chắc có điều gì lạ lắm thì phải.

    Ông Phạm đang ngái ngủ lên tiếng:

    - Bà nói cái gì thế?

    - Thằng Mẫn đó. Tôi đứng theo dõi nó đã nửa tiếng đồng hồ. Nó ngồi yên như phỗng đá vậy. Với những việc nó làm ban ngày, đáng lẽ nó đã phải ngủ từ lâu rồi. Nhưng mà không, nó vẫn ngồi bó gối ngoài kia kìa.

    Ông Phạm vừa ngáp vừa tiến tới bên vợ:

    - Đáng lẽ tôi phải cho bà biết điều này từ lâu rồi. Tôi thấy nó vẫn luôn luôn ngồi đó suốt đêm. Theo tôi biết, nó hình như không bao giờ ngủ. Thú thực với bà, tôi thấy thằng bé này có vẻ ma quái quá! Nhưng thực ra nó đâu có làm gì phiền ai đâu!

    Bà Phạm không nói nhưng biết rõ rằng Mẫn đã khiến bà lo nghĩ rất nhiều. Sáng hôm sau, hình dáng cậu bé khiến bà cảm thấy bất nhẫn. làn da xanh xao của Mẫn bây giờ đã trở thành vàng khè, bóng loáng. Xương trán và xương má của Mẫn như lộ rõ ra. Bà còn lo lắng hơn nữa khi thấy Mẫn có vẻ chậm chạp hơn và mệt mỏi hơn thường lệ. Bà hỏi:

    - Sao, cháu thấy không được khoẻ trong người có phải không?

    Mẫn không đáp lại, lặng thinh cúi đầu đi qua trước mặt bà. Cảm thấy bứt rứt, bà Phạm nói với chồng:

    - Ông coi nó kìa. Tôi nghĩ rằng nó bị bệnh. Nó di chuyển như một ông già vậy.

    Ông Phạm chăm chú nhìn Mẫn đang cắt cỏ một cách chậm chạp:

    - Bà nói đúng. Sao da nó bị đen nhiều chỗ thế nhỉ?

    - Tôi không biết nhưng chắc chắn một điều là nó bị thiếu dinh dưỡng quá độ. Tôi không cần biết mẹ nó nói những gì và tôi sẽ chuẩn bị một vài món ăn ngon lành và bổ dưỡng cho nó. Rồi ngày mai ông đưa nó lên tỉnh gặp bác sĩ xem sao.

    Nghĩ rằng có lẽ Mẫn thiếu chất protein, bà Phạm bèn làm món súp khoai tây, cà rốt, sườn heo, hột gà, còn thêm một ly sữa tươi và một cái bánh ngọt. Xong xuôi bà gọi Mẫn vào, đưa cậu ta vào phòng ăn và nói thật ngọt ngào:

    - Cháu mau ngồi vào bàn đi. Tôi sửa soạn một bữa ăn thật đặc biệt cho cháu vì hôm nay là đúng ba tháng cháu làm việc với tôi. Đây là một dịp kỷ niệm dành cho cháu.

    Mẫn cắn một miếng, rồi một miếng nữa. Cậu nhai miếng sườn heo chầm chậm trước khi nuốt. Rồi cậu ta từ từ đứng lên. Bà Phạm lên tiếng với vẻ lo lắng:

    - Sao vậy? Cháu chưa ăn xong mà muốn đi đâu vậy?

    Nhưng Mẫn đã đi ra ngoài rồi. Bà Phạm chạy tới mở tung cánh cửa. Mẫn đã đi tới hàng cây bao quanh mảnh đất với những bước chân thật dài. Bà Phạm lớn tiếng gọi nhưng Mẫn vẫn không hề nhìn lại. Ông Phạm cầm tay vợ:

    - Thôi cứ để nó yên. Chắc là nó muốn đi về nhà. Có lẽ mẹ nó nói đúng. Đáng lẽ bà không nên cho nó ăn những món đó.

    Đêm hôm đó bà Phạm trằn trọc suốt đêm. Hôm sau khi trời mới tờ mờ sáng bà đã dậy, ra vườn đi tới đi lui. Đúng như bà lo ngại, Mẫn đã không quay trở lại. Tuy nhiên ngay trước buổi trưa, mẹ cậu ta tới nơi, tiến thẳng tới trước mặt bà Phạm, khuôn mặt bà ta đanh lại:

    - Bà đã làm việc đó phải không? Bà cho nó ăn sau khi tôi đã dặn bà không được làm như vậy. Bà cho nó ăn cái gì thế?

    - Thì... tôi cho nó ăn súp khoai tay và sữa tươi, là những thứ đồ ăn cần thiết cho Mẫn.

    Người đàn bà rên lên:

    - Súp khoai tây! Trời ơi! Bà cho nó ăn muối rồi!

    Rồi bà ta rít lên the thé:

    - Bà điên rồi hay sao? Tại sao bà không để nó được yên?

    Bà Phạm có vẻ bối rối:

    - Tôi rất tiếc nếu đồ ăn của tôi khiến cho cháu Mẫn bị bệnh.

    Đột nhiên bà Phạm đổi giọng giận dữ:

    - Nhưng... nó thiếu ăn tới độ gần chết đói ngay trước mắt tôi. Tôi không thể nhắm mắt làm ngơ được. Tôi sẽ trả tiền thuốc men và sẽ nhờ một bác sĩ săn sóc cho nó.

    Người đàn bà kia im lặng trong một phút trước khi lên tiếng bằng một giọng khá buồn bã:

    - Thưa bà, xin bà vui lòng đi theo tôi để xem những gì bà đã làm cho con tôi.

    Người đàn bà quay lưng. Bà Phạm đi theo bà ta xuyên qua cánh rừng trước khi tiến tới một chân đồi. Khoảng nửa tiếng sau, hai người tới một túp lều xiêu vẹo nơi ba đứa nhỏ đang ngồi yên ngoài cửa. Khi bà Phạm ngưng lại, người đàn bà nắm tay bà tiếp tục kéo lôi đi. Bà Phạm hỏi:


  16. Thanh niên trong thời chiến thì dù muốn hay không cũng phải đi lính, không bên nầy thì bên kia. Thiệt cũng vậy. Anh ở miền Nam , làm lính Việt Nam Cộng Hoà, nói nôm na là lính chế độ cũ hay lính nguỵ như bây giờ người ta thường gọi.

     

    Không biết có phải vì vóc dáng thư sinh gầy yếu, mắt kính cận hay là nhờ chạy chọt mà Thiệt được điều động về ngành quân nhu, làm nhân viên hành chính tài chính cho đơn vị . Và cũng không biết Thiệt đã làm lính được bao lâu , nhưng khi chuyển đến đơn vị đóng gần vành đai phi trường Đà Nẵng thì anh ta đeo lon trung sỉ, một vợ, hai con. Thời buổi chiến tranh mà được làm lính văn phòng thì số dách, lại thêm được cô vợ khoẻ mạnh, to béo như vỏ sĩ su-mô thì khỏi lo tốn tiền thuốc thang hoặc bị mấy tay sĩ quan gạ gẫm.

     

    Đơn vị quân nhu mới thành lập, lính tráng chưa quen thân nhau. Doanh trại cũng mới dựng ít nhà dành riêng cho bộ chỉ huy , nhà kho và lính bảo vệ. Lính văn phòng chưa có nhà ở, thoạt đầu còn phải thuê nhà dân , sáng đi , tối về như công chức.

     

    Thiệt ở nhà thuê hơn một tháng thì khu gia binh dành cho sĩ quan và lính văn phòng được khởi công trên khu đất cách doanh trại chừng nửa cây số. Khi xe ủi đến san lấp bãi hoang đầy lau lách, buị cây dại và ao hồ để tạo măt bằng thì người ta phát hiện được rất nhiều mô đất nhỏ như cái rá mà người ta nghi là những nấm mồ hoang. Hỏi dân địa phương thì họ bảo đó là những mả hời, có tiếng là linh thiêng. Người quanh vùng chẳng mấy ai lai vảng đến đó vì người ta đồn rằng ban đêm có ma hời tụm lại xoả tóc khóc tỉ tê. Những người lính công binh dù sợ nhưng cũng phải làm. Họ mời thầy cúng, thuê người bốc được dăm bảy bộ hài cốt , bỏ vào tiểu, đem chôn một nơi khác. Cũng chỉ bốc được những mồ nào còn nấm , chứ những cái tàn rồi, bằng phẳng với mặt đất, thì chẳng biết còn bao nhiêu.

     

    Rốt cục thì khu gia binh cũng được dựng xong. Các sĩ quan ưu tiên chọn lựa. Chỉ có một mình Thiệt là hạ sĩ quan nên phải nhận lô sau cùng. Lính công binh nói lô đất ấy có nhiều mả hời, nhưng Thiệt đành phải chịu. Thiệt dắt vợ con vào ở, dấu nhẹm chuyện mả mồ.

    Thế nhưng chưa đầy một tuần thì có chuyện kỳ quặc xảy ra. Nửa đêm Thiệt đang ngủ với vợ thì giật mình thức giấc vì những tiếng động lạ. Thoạt đầu là tiếng ly chén chạm nhau, sau đó là tiếng bàn ghế di chuyển như có ai đang dọn nhà, tiếng chân chạy trên mái tôn, tiếng rên rỉ, tiếng thở hì hục. Thiệt thức dậy bật đèn tìm kiếm nhưng không tìm thấy ai, chỉ có mấy chú chuột chạy kêu chút chít. Mọi vật vẫn ở yên vị trí , không hề di chuyển. Những đêm tiếp theo, không đêm nào mà không xảy ra chuyện tương tự. Thiệt đã từng tham gia trận mạc từ lúc còn binh nhì nên chẳng mấy sợ , nhưng cô vợ quá khiếp hãi nên dứt khoát đòi đi thuê nhà ở hoặc phải về quê. Quê Thiệt thuộc vùng giải phóng nên không thể về, còn thuê nhà thì không có tiền vì số tiền dành dụm đã dùng sạch vào việc mua sắm đồ đạc trong nhà. Lại còn nợ đơn vị mấy tháng lương. Ngược lại ở trong khu gia binh chẳng tốn một đồng xu tiền điện nước, lại được an toàn. Thiệt tạm thời xin cho vợ con vào ngủ trong văn phòng, còn mình thì ngủ ở nhà. Lính tráng mà sợ quái gì ma mũi.

     

    Được một tuần thì Thiệt có vẻ kiệt sức, mặt mày hốc hác vì mất ngủ. Đêm nào cũng phải thức dậy vì tiếng động lạ rồi nằm chong đèn đến sáng , không thể chợp mắt. Có lúc anh phải xin nghỉ ốm đi viện, nhưng sợ mất việc, phải đổi ra tiền tuyến nên cố gắng đi làm.

     

    Thiệt báo cáo chuyện nhà mình với đơn vị trưởng và được cấp trên điều động một binh nhì đến giúp việc văn phòng ban ngày, ban đêm thì về nhà ngủ với Thiệt.

     

    Trong thời gian ấy, đơn vị có hai sĩ quan người Mỹ đến làm cố vấn, ỏ lại trong doanh trại. Một người biết tiếng Việt trọ trẹ ngỏ ý muốn dạy tiếng Anh cho vợ Thiệt để làm thông dịch. Vợ Thiệt đã học gần hết phổ thông nên cũng biết đôi chút tiếng Anh. Được học tiếng Anh với người Mỹ chính gốc là một cơ hội rất hiếm nên cả hai vợ chồng Thiệt đều ô-kê.

     

    Ban ngày vợ Thiệt ở nhà, ban đêm vào học tiếng Anh trong doanh trại nên chẳng mấy chốc vợ Thiệt nói tiếng Anh như gió và được cử làm thông dịch viên cho đơn vị. Hai người Mỹ đi đâu cũng có vợ Thiệt cặp kè. Đôi khi họ đi công tác vài ba ngày mời về. Người ta tiếng vào tiếng ra, đồn đãi bậy bạ nhưng Thiệt không có ý kiến gì bởi đồng lương vợ Thiệt kiếm được khá lớn, chẳng bao lâu có thể trả xong nợ và mua nhà riêng. Lúc ấy Thiệt sẽ không cho vợ làm thông dịch nữa. Hơn nữa lúc ấy chắc sẽ có sĩ quan thông dịch được cử đến, có làm người ta cũng không cho.

     

    Lúc Thiệt được thăng chức thượng sĩ cũng là lúc biết vợ mình có bầu. Mấy người vợ lính to nhỏ rằng không biết Thiệt ngủ với vợ lúc nào mà cô ta có bầu. Chuyện đó chỉ có hai vợ chồng họ biết, làm sao người ngoài biết được. Không ban đêm thì ban ngày chủ nhật. Làm tình kiểu lính thì đánh nhanh, thắng lẹ, chớ có như dân thường đâu. Hồi Thiệt còn ở quân trường, mỗi lần chủ nhật vợ đến thăm, hai người kéo nhau ra bãi tập , che tấm pông-xô là xong. Hơn nữa, vợ chồng Thiệt vẫn vui vẻ hạnh phúc, chẳng mấy khi to tiếng. Người khác lại bảo rằng vợ Thiệt to béo, khoẻ mạnh thế kia thì nếu có chuyện gì Thiệt cũng không dám hó hé. Nó quật một cái thì rồi đời! Sắp đến ngày vợ sinh thì Thiệt cũng đặt cọc một ngôi nhà hai tầng giữa trung tâm thành phố. Người sĩ quan Mỹ tố bụng đã nhường cho Thiệt chiếc xe Jeep lùn của anh ta trước khi về nước. Chẳng mấy thượng sĩ có được xe riêng. Thiệt lấy làm hãnh diện khi chở vợ đi khám thai hàng tháng . Sau khi mua được nhà cho vợ con ở, Thiệt sẽ đi về bằng chiếc xe nầy.

    Đến ngày vợ sinh thì Thiệt lấy xe chở vợ đi bệnh viện. Thiệt được nghỉ phép ba ngày để lo cho vợ con.

     

    Sau ba ngày thì Thiệt một mình lái xe về. Không nói không rằng, anh ta rinh tất cả đồ đạc trong nhà ra đường và lấy xe cán bẹp. Lúc ấy vào sáng sớm, sắp tới giờ làm việc. người lính gác doanh trại hớt hãi chạy đi báo sĩ quan đơn vị trưởng : Thưa đại uý, em thấy thượng sĩ Thiệt hai tay cầm hai quả lựu đạn đi vào văn phòng, dáng vẽ căng thẳng .

     

    Khi viên đại uý dẫn lính đến đến thì phòng hành chánh tài chánh đã bị khoá chặt cửa bên trong. Tiếng Thiệt la to : Các người đi đi, nếu không thì chết cả đám bây giờ.

     

    Ngay khi mọi người vừa kịp nằm xuống khì hai tiếng lựu đạn nổ rầm rầm. Văn phòng bay tốc mái và người ta tìm thấy Thiệt chết ngay tại chỗ.

     

    Người ta đi kiếm vợ Thiệt nhưng chị ta đã bỏ đi khỏi bệnh viện, chẳng biết về đâu.


  17. Vô tâm

     

    Tác giả: Nguyễn Lưu Huỳnh

    Ngày còn nhỏ, tôi thường nghe dì dượng kể về chuyện tình của họ. Một tình yêu thật đẹp được tô điểm bằng những tình khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn mà cả hai người đều rất thích.

    Hôm vào nhà sách, thấy tuyển tập nhạc Trịnh Công Sơn, tôi mua ngay gởi tặng dì dượng. Người bạn gái đi cùng bỗng hỏi:

    - Ba mẹ anh thích gì? Sao anh không mua tặng họ?

    Tôi chợt giật mình. Tôi có vô tâm lắm không khi tôi cũng chẳng biết ba mẹ tôi thích điều gì nhất.


  18. Song Vũ.

    Chị yêu anh vì vẻ lãng mạn và coi thường vật chất. Chị xa anh cũng vì lẽ đó. Nhân chứng của cuộc tình là chiếc xe đạp, nó chở đầy kỷ niệm của một thời yêu nhau.

    Mười năm xa cách, anh lao vào cuộc mưu sinh và có một gia sản ít ai bằng.

    Tình cờ anh gặp chị tại nhà, nhìn thấy chiếc xe đạp ngày xưa, chị hỏi: anh còn giữ nó? Anh nghẹn ngào: anh làm ra những thứ này mong đánh đổi những gì anh có trên chiếc xe đạp ngày xưa.

    Luật lệ

    Hoài Như

    Bé Vi 3 tuổi. Bé đã nói được rất sõi và rất thích tìm hiểu mọi sự việc xung quanh mình. Ngày ngày đưa đón con đi học, người mẹ thường giải thích cho con về luật lệ giao thông khi qua ngã tư. Một hôm, bé thắc mắc:

    - Sao chú kia không dừng lại khi đèn đỏ hả mẹ?

    ...

    Có khi bé góp ý:

    - Đèn đỏ mà. Sao mẹ chạy luôn vậy? Mấy chú công an phạt mẹ thì sao?

    - ...

    Một hôm, mẹ dừng lại ngay ngã tư đèn đỏ. Bé giục:

    - Không có các chú công an. Chạy luôn đi mẹ!


  19. Bia ôm

     

    Một anh nông dân vào quán bia ôm. Sợ đắt tiền anh ta gọi:

    - Chủ quán, cho 2 suất bia không ôm

    - Anh yên tâm ở đây chúng tôi không tính tiền ôm

    - Vậy thì cho 2 suất ôm không bia!!

Footer title

This content can be configured within your theme settings in your ACP. You can add any HTML including images, paragraphs and lists.

Footer title

This is an example of a list.

Footer title

This content can be configured within your theme settings in your ACP. You can add any HTML including images, paragraphs and lists.

Footer title

This content can be configured within your theme settings in your ACP. You can add any HTML including images, paragraphs and lists.

×
×
  • Create New...