-
Số bài viết
691 -
Gia nhập
-
Đăng nhập
-
Nổi bật trong ngày
1
Bài viết được đăng bởi Kieu Anh Huong
-
-
KHOẢNG TRỐNG
Thành phố Newyooc – một sáng tháng 5
Nơi tôi đứng chỉ còn là một khoảng trống
Khoảng trống của niềm tin,
Khoảng trống không thể lấp đầy…
Dẫu đôla, Phố Uôn chưa bao giờ thiếu !
Chúng tôi, những cựu chiến binh Việt Nam,
Đến từ bên kia, bán cầu –
Lặng lẽ đặt vào khoảng trống này
Một nén trầm của Trường Sơn
(từng quặn đau trong lửa napan huỷ diệt !)
Xin được sẻ chia cùng nhân dân Mỹ
Nỗi đau thương này.
Lời con tim muốn nói
Trái chín của hoà bình
Không thể gieo từ “cường bạo”…!
Giữa bạt ngàn những “binhđinh” chọc trời
Tôi chợt nhớ về phố nhỏ Khâm Thiên, Hà Nội
Nơi đó, vẫn còn một khoảng trống
Khoảng trống không bao giờ liền vết..
Và trong sương khói, hư vô, thành kính !
Tám mươi triệu người Việt Nam
Vẫn luôn nhớ về những ngày tháng chạp,
Năm một chín bảy-hai !
Thành phố Newyooc – một sáng tháng 5
Nơi tôi đang đứng sẽ mãi vẫn là một khoảng trống…
Newyooc, 5/2004
Hà Nội, 09/2004
-
GỬI MỘT NGƯỜI
Tặng Phương
Chiều một mình qua phố
Chợt, mênh mang nỗi buồn…
Phố đông người qua lại
Nỗi buồn càng nhiều hơn
Cô đơn càng nhân thêm !
Trong dòng đời vội vã
Ánh mắt nào lướt vội
Nhìn ta, chút hững hờ ?
Ước chi trong nắng xế
Ta gặp lại dáng xưa
Ước chi trên phố cũ
Bóng người thương hiện về…
Bây giờ em ở đâu
Tình xưa còn, quên - nhớ
Tóc nhuốm màu sương gió
Mà tình có phôi pha ?
Chiều một mình qua phố
Chợt, mênh mang nỗi buồn…
Người xưa đi, đi mãi
Để riêng ta, một mình !
Hà Nội 12.2005
-
NHỮNG DÒNG CHẢY VÔ THƯỜNG !
Sắc sắc, không không !
Hư hư, thực thực...
Tôi đắm mình vào dĩ vãng
Tìm lại khởi nguồn xa xưa
Đâu những giọt xăng
Đâu những giọt dầu
Tháng năm đang lặng thầm tuôn chảy...
Dòng sông La quê tôi
Bắt đầu từ ngàn Sâu, ngàn Phố
Bắt đầu từ rất xa...
Qua bạt ngàn, nương dâu, bãi mía...
Dòng sông Hồng quê em
Bắt đầu từ Sơn La, Tạ Bú
Cũng bắt đầu từ rất xa ...
Đỏ ngầu hạt phù sa thương nhớ
Lặng thầm bồi đắp nên quê ...
Sắc sắc, không không
Hư hư, thực thực ...
Có ai tắm được hai lần ...
Khi dòng sông đang chảy
Có ai đốt được hai lần ..?
Khi giọt cay, giọt đắng..
Đang cháy lên
Trong những động cơ cao tốc
Sắc sắc, không không !
Hư hư, thực thực ..
Mẹ tôi cầu kinh, niệm phật.
Tôi đắm mình vào dòng chảy cuộc đời
Thấy rất rõ ông bà, tiên tổ
Thấy rất rõ những ngày xa, xưa ...
Thấy rõ cả ngày mai, ngày kia
Những giọt phù sa ngầu đỏ
Những giọt xăng, giọt dầu
đã hoá sương sa
Luân hồi, hoàn vũ...
Có hữu danh, vô thực
Có hữu lợi, vô luân
Có đỏ đen, may rủi
Có đố kỵ, tầm thường...
Và có cả những điều rất thật
Những khát khao vô thường
Cháy lên thành tâm thức
Hãy cho nhau nhiều hơn !
Sắc sắc và không không ?
Hà Nội 20/02/2002
-
Thêm một nhà thơ chiến sĩ
Phạm Tiến Duật
Kiều Anh Hương kém tôi hơn chục tuổi nhưng vào chiến trường Miền Nam chỉ sau tôi ba năm. Nhưng trước sau mà làm gì, chính Kiều Anh Hương nói thế, cao thấp mà làm gì, chỉ có trái tim bè bạn/ mới nhận ra nhau/ giữa cuộc đời thừơng. Đúng là như vậy, những người chiến sĩ cùng một chiến trường ngày nào, bây giờ gặp nhau giữa chốn ồn ào, liệu còn nhận ra nhau ? Cái áo xanh ngày nào không còn. Không còn khói bụi bám trên tóc, trên vai. Cả màu xanh sốt rét nữa. Thoáng đấy mà đã mấy chục năm trôi qua. Tất cả có thể sẽ thành quá khứ nhưng trái tim đồng đội ngày nào thì vẫn vẹn nguyên :
Tôi thắp lên thơ tôi một nén trầm
Để nhớ về bao đồng đội
Họ đã sống một thời sáng choang quả cảm
Không sợ đói nghèo
Chỉ sợ không được đi đánh giặc
Chiến trường hơn mọi bài ca !
Bây giờ lớp người sinh sau năm 1975 đọc những dòng trên đây không hoàn toàn dễ hiểu, đặc biệt là hai dòng cuối của đoạn thơ trên. Phải lắng nghe lại nhịp tim của cả một dân tộc một thời mới thấy sự giản dị đến ghê người trong cảm xúc của cả một cộng đồng của thời bom lửa ấy. Phải nhớ lại, đọc lại những lá thư từ tuyến đầu Tổ Quốc với tội ác chồng chất của giặc Mỹ và những cỗ máy chém lưu động của những tháng năm đau thương ấy.
Vâng, trước khi đọc thơ của một tác giả nào đó, với tôi, cần có hai thứ : một chén nước trà và một chút quá khứ của tác giả.
Kiều Anh Hương ( tên thật là Kiều Đình Kiểm ) sinh ngày 26 tháng 7 năm 1953, quê ở xã Đức Hồng, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Tôi đã qua lại và đã có những năm tháng ở Hà Tĩnh mà không nhớ được Đức Hồng là ở vùng nào. Cái vạt đất Đức Thọ-Can Lộc là vạt đất có Huy Cận, có Xuân Diệu mà tôi có lần đã lần tìm trong mưa để xem làng xóm quê hương những người mà tôi trân trọng. Đức Thọ là huyện sớm có nghề buôn bán và cũng là huyện giàu có của Hà Tĩnh mà không thấy dấu vết trong mỗi ngôi nhà. Nghèo, rất nghèo. Chỉ có lạ một nỗi là câu hát dân gian, từ trẻ con đến người lớn ai cũng thuộc. Có lẽ Kiều Anh Hương cũng đã được lớn lên trong bầu không khí dân gian kỳ lạ ấy của quê mình.
Bây giờ thì anh đã là một kỹ sư hoá dầu. Tôi không biết một chút nào về công việc của anh. Rằng trị số ốctan trong loại xăng này thì thế nào mà độ bốc hơi trong loại xăng kia thì thế nào ? Không, tôi nghĩ rằng điều duy nhất trong nghề nghiệp sau chiến tranh liên quan đến thơ của chính tác giả cũng là quá khứ. Chỉ khác một điều là quá khứ của cacbon ép qua bao thiên niên kỷ thì thành than đá, thành xăng dầu mà quá khứ của chiến tranh ép qua thời gian cũng biến thành thơ. Hai thứ đều cháy được, một đằng cháy thành lửa có ngọn mà một đằng cháy chìm.
Suốt từ năm 1971, Kiều Anh Hương tham gia nhiều trận đánh ác liệt ở vùng đất nóng bỏng Quảng Trị về dải đất dài đông và tây Thừa Thiên Huế. Những trận mở màn của thời kỳ mà khi ấy gọi là Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt bắt đầu từ năm 1972 ở Trị -Thiên tôi cũng có mặt ở đó. Và cũng chỉ từ năm 1972 thôi, đường Trường Sơn-đường Hồ Chí Minh mới có thể lật cánh sang đông và mới thực sự có tuyến Trường Sơn Đông mà tôi nói trong thơ từ mấy năm trước đó. Kiều Anh Hương và các đồng đội của anh đã góp công mở rộng tuyến đường mang tên Bác.
Nhưng, Trường Sơn, Trường Sơn ơi !
Mãi còn đó nỗi đau
Những chồi non quặn mình trong lửa độc
Ta kiêu hãnh
Đi tới tận cùng của ngày toàn thắng
nhưng mỗi khi nhớ về những cánh rừng
trụi lá
Chĩa lên trời xanh như triệu triệu cánh tay
Khẳng khiu đen đủi
Có khi nào lòng ta chợt hỏi
Rừng ơi, người có trách ta ?
Cái lạ trong những dòng thơ ấy là có chứa sự day dứt dành cho tương lai. Phải có tấm lòng nồng nàn yêu mảnh đất mẹ hiền của nghìn đời đến mức độ nào mới có thể nhìn núi non của thời bom lửa như vậy.
Tôi đọc Kiều Anh Hương và tôi khép tập sách lại mà tự hỏi ; tại sao bây giờ mình mới đọc người chiến sĩ này. Mà thực ra Kiều Anh Hương đã từng có giải thưởng văn học ngay trong chiến tranh. Năm 1973, truyện ngắn của Kiều Anh Hương đã nhận giải của Văn Nghệ Quân Giải Phóng Trị Thiên Huế. Và thơ nữa, anh từng nhận giải cao nhất của Văn nghệ Thành phố Huế trước giải phóng, ấy là chưa nói đến một lĩnh vực khác là sáng tác âm nhạc.
Ca khúc của Kiều Anh Hương đã tới với nhiều người và đã có giải thưởng, cả trong và ngoài quân đội. Nhưng ở vào thời kỳ thị trường này rất khó lắng nghe nhau. Ngày nào chỉ gọi một tiếng đồng đội đã nghe thấy, bây giờ ồn ào quá, gọi năm bảy tiếng mà bạn bè vẫn không nghe. Trong đời thường cũng vậy, mà trong sáng tác cũng vậy, nghe điệu mà tâm hồn chiến sĩ của anh đã run rẩy trong nhịp đập của tôi. Tôi reo lên rằng, thế là, lại thêm được một nhà thơ chiến sĩ.
ở chiến trường về
Tôi chẳng thể nào tin
Hạnh phúc lớn, chưa kịp lau nước mắt
Mẹ và Em lại...
Tôi trích không hết câu. Xin bạn hãy đọc nốt trong bài thơ Thời Hậu Chiến.
Phải là người của hôm nay mới đau cái đau của những gì mà cả chặng đường dài Đất Nước lo toan. Cái điều tôi muốn ghi nhận ở đây là nghệ thuật thơ, kỹ thuật thơ, mà làm gì khi đã có tâm hồn ? Không, không thể không nói vì đó là điều cuối cùng và quan trọng nhất. Hê-ghen nói : " Hình thức là cái đầu tiên và là cuối cùng để con người ta gặp được Thượng đế. " Có dầu mỏ mà không có giàn khoan thì làm sao có thể khai thác được. Kỹ thuật trong thơ giống như cái giàn khoan trong ngành dầu khí vậy.
Giữa rừng, sương vẫn giăng đầy
Xế chiều nắng mới rắc đầy lối đi
...
Mồ hôi đẫm ướt ba lô
Súng quàng vai, lá nhấp nhô điệp trùng.
Lục bát trong " ở rừng " như vậy là đạt được độ nhuần nhuyễn.
Tôi thấy Kiều Anh Hương rạt rào trong thể bốn chữ :
Cái hầm chênh vênh
Trên đèo chênh vênh
Của ba chiến sĩ
Mở đường công binh..
Nhưng cái mạnh của anh là thơ chuyển thể và thơ tự do. Có thể nhận xét rằng, từ tâm hồn đến con chữ, Kiều Anh Hương đã có được một cuộc hành trình tỉ mỉ. Tất nhiên, không có một sự vật nào là toàn bích hoàn toàn. Nhưng tôi hoàn toàn tin rằng trên con đường vất vả của nghệ thuật, Kiều Anh Hương sẽ còn có nhiều đóng góp mới với tư chất của một nhà thơ chiến sĩ.
Tháng bảy năm 2001
Phạm Tiến Duật
-
1. KHÓC MẸ
Dẫu ngàn lần không đợi
Nhưng Mẹ ơi định mệnh đến kia rồi ?
Khi nỗi đau, Mẹ không còn biết được
Là khi trái tim con máu chảy tơi bời !....
Xin hãy để con nhìn Mẹ lần cuối cùng
Gió lạnh, đồng sâu, nỡ nào con bỏ lại
Dẫu vẫn biết, Mẹ về cùng tiên tổ
Có đâu xa mà nước mắt tuôn, rơi...
Có phải không hỡi Mẹ kính yêu ơi !
Mẹ đã giận mình con, nhiều, nhiều lắm
Khi tuổi thơ đến trường, ham chơi không học
Khi đánh giặc trời xa, chậm cánh thư về ..?
Khi đất nước thanh bình,
Mẹ thầm nhắm “một người”
Nhưng con chẳng chịu vâng lời “thăm hỏi…”
Để Bà hát ru, để Ông bồng cháu
Để mái nhà thêm vui, tiếng trẻ bi bô...
….
Mẹ càng giận nhiều hơn,
Khi vợ chồng chúng con,
Ngày nào “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt”;
Tiếng bấc, tiếng chì..
Vò nát trái tim khô ?...
Ôi, có nỗi đau nào hơn nỗi đau này đây
Vậy là nợ Thái Sơn còn đó !
Ta mất Mẹ,
Chính là khi ta cần có Mẹ nhiều nhất
Để mênh mông hờn giận vỗ về ...
Nhưng đành thôi, cho con được cúi đầu
Lạy tạ, trước hương hồn của Mẹ
Mẹ ơi, Mẹ có nghe con khóc
Không chỉ bằng nước mắt ngày xưa !
Hà nội tháng 10/1997
2. GẶP MẸ TRONG MƠ
Dẫu vẫn biết, chỉ là giấc mơ thôi
Mà sao, con vẫn thầm khao khát
Mong hằng đêm, luôn được gặp lại Mẹ...
Phút khắc khoải đợi chờ,
như chưa từng lâu hơn thế
Con ùa về phía Mẹ hư vô !
Con ngắm nhìn bóng Mẹ mờ xa...
Muốn được xà vào vòng tay khô, gầy yếu
Mà sao, bàn chân không thể tới
ở phía kia, sương giá giăng đầy !
Mẹ ơi, có thật Mẹ vẫn còn ?
Mẹ chỉ hoá thiên thần trong giây lát
Nên hằng đêm Mẹ vẫn về nâng giấc ngủ
Cho chúng con bớt lạnh giá, cô đơn ?
Để hằng đêm, căn nhà ta được ấm hơn
Có bóng Mẹ bồng bềnh trong mộng...
Có tiếng trở mình, mỗi khi mất điện
Tiếng phe phẩy, quạt nan, gió lùa...
Có tiếng khóc hờn, cháu thức gọi bà
Tiếng tích tắc đồng hồ, đo màu đêm sâu thẳm...
Tiếng cối trầu, miết vào cay đắng
Cháy lên thắm đỏ, môi cờ...
Con bỗng giật mình, chợt hiểu một điều
Bấy lâu rồi, Mẹ luôn cô quạnh
Ngôi nhà rộng, càng thêm hụt hẫng
Khi hằng đêm, Mẹ ngóng đợi con về…
Nhưng chúng con, nào hay biết gĩ
Chuyện mưu sinh, tối ngày mải miết
Đâu biết được, Mẹ chờ cơm từng bữa
Đâu biết được, đất trời đang trở gió…
“Mẹ già như chuối chín cây...” !
Hoá ra, tất cả vẫn như ngày xưa !
Chỉ có khác - Bây giờ,
Chính chúng con, phải hằng đêm khắc khoải
Mong ngóng từng phút, từng giây,
Để được gặp lại Mẹ
Dẫu chỉ là trong giấc mơ thôi !..
Hà Nội, ngày giỗ Mẹ 13/10 Quí Mùi 2003
3. MẸ
Một đời nghèo đói, tha hương
Mồ hôi chan bát cơm thường, nhạt tênh...
Gánh rau lửng sáng, từ đêm
Gầy hao, dáng Mẹ tảo tần bán mua
Oằn cong, gánh nợ bốn mùa
Một đời Mẹ trả hết chưa. Cơ hàn ?
Chợ đêm, nơi đó vẫn còn
Khoảng không tĩnh lặng, xoáy tròn dấu xưa…
Bây giờ, hơn cả ước mơ
Nhà lầu, cơm áo... đủ vừa, mười mươi
Bây giờ, con cháu nên người
Mong sao chín suối, ngậm cười, Mẹ vui !
Hà Nội tháng 7.2004
-
BỐN MÙA
Thu sang đã được mấy ngày
Lòng còn vương vấn ngất ngây, nắng hè
Thiên thanh, bỗng nhớ tiếng ve
Nấu sôi trời đất, chiều quê, chạnh lòng…
Rượu khan, giã bạn mấy tuần
Ngẩn ngơ, lòng những bần thần, quên say…
Hè ơi, tạm nhé, chia tay
Phượng hồng cháy đỏ, bao ngày vấn vương!
Hết thu rồi sẽ sang đông
Người ơi còn chút lửa lòng, khơi lên
Giá băng chi, giọt mưa đêm
Để câu hát cũ, môi mềm trong ai…
Khổ đau… đợi một ngày mai
Nhành xuân, sẽ trổ một đài thiên nhiên…
Kìa em, chồi biếc nhú nghiêng
Chạm vào tận đấy con tim… thẫn thờ!
Hà Nội, 8.2005
Kiều Anh Hương
-
VỢ
Vợ là gì nhỉ, người ơi ?
Mà sao thiên hạ, lắm lời đại ngôn…
Vợ là duyên nợ càn khôn*
Vợ là báu vật, suối nguồn…thi ca
Vợ là “vương quốc” riêng ta !
Tay ôm má ấp, dĩ hoà, sớm khuya…
Vậy mà, lắm kẻ tình si
Vợ người lại thích, vợ mình lại chê !
Vợ người như nửa trăng quê
Tỏ mờ, hư ảo, bùa mê… lú hồn
Vợ mình như “cái chổi cùn”
Bỏ đi thì tiếc, để dùng thì không ?
Vậy nên, bao chuyện buồn thương
Vợ mình, mình vợ, đoạn trường, riêng ai…
Sông kia, dẫu đến là dài
Mà sao, đoản mệnh, bi hài… khúc quanh ?
Núi kia, cao những… mấy phân
Mà đời mòn mỏi gót trần bao phen
Rạng đèn, nào tỏ chân đèn…
Vợ mình, mình vợ… nỗi niềm nhân đôi !
Hoa hồng, ai tặng vợ tôi ?
Thư tình, mấy tập, vợ tôi giấu mèm
Rượu say ai uống vì em…
Thơ tình ai viết, nửa đêm, ướt nhoè..?
“Tình xưa…không rủ cũng về” **
Càn Khôn - duyên nợ, tang bồng mà chi !
Kẻ cười, người khóc, chia li
Thì ra, Trời Đất nhiều khi cũng lầm !
Còn duyên, gánh nợ cho chồng
Hết tình, vỏ ốc, đổ sông tặng người
Thế gian, nhiễu sự lắm thôi
Thà về lên núi mồ côi mà thiền …!
Hà Nội, 20/12/2005
Kiều Anh Hương
-
TẾT DẬU 2005
Tết Dậu năm nay, nói chuyện gà
Gà thời lắm loại, tây lẫn ta...
Nuôi được vài con, chưa kịp gáy
Dịch cúm tràn về, lăn quay ra...
Nhiễu nhương thế sự, âu cũng vậy
Tiêu cực trong ngoài, ai không hay
Người tốt, người tài, chưa miễn dịch
H5... “tái xuất” lại cuốn bay !
Muốn nghe gà gáy, gọi bình minh
Người ơi, chớ vội “đại sát sinh” !
Muốn diệt giặc tham, không thể khác
Khoanh vùng, phân loại, phải tường minh...
Gà chết rũ rồi, còn dựng lên *
Làm sao, ngăn được đại dịch điên...
(Tham nhũng, ắt hẳn còn đất sống !)
Năm gà, gà chết, lẽ tất nhiên !
Hà Nội- 02/02/2005
Kiều Anh Hương
-
Đi tìm Sapa
[Tặng Hồng Nga]
Ơi Sapa mù sương !
Con đường nào dẫn ta về lại
Đâu rồi phiên chợ đêm huyền thoại
Tiếng khèn lá gọi bạn tình...
Thấp thoáng sau bóng rừng
Là sắc đỏ áo em, lửa cháy
Thắp lên những bình minh...
Ơi Sapa mù sương !
Lối mòn vẽ tranh vào mây
Bóng núi mờ biên ải
Con đường nào dẫn ta về lại
Phố xưa, thơm lừng thắng cố...
Ngựa hý ngoài sân,
Khèn vang dốc núi
Xoay tròn, xoay tròn,
Mấy vòng khèn lượn
Gọi nhau, quên cả trời chiều...
Men theo bóng núi
Nghiêng theo điệu khèn
Người đi tìm nhau...
Đây rồi Sapa !
Tình yêu tôi đó
Tiếng khèn anh, lời trái tim khao khát
Nhuộm lên thắm đỏ môi em
Thành những hoàng hôn trước mặt
Cho chúng mình gặp nhau...
Hà Nội 7/9/2004
-
CAO THẤP
Ngày xưa,
Thuở chúng mình đi học,
mỗi lần xếp hàng vào lớp
thấy rõ
- đứa thấp
- đứa cao !
Một năm qua rồi,
chúng mình so vai,
xếp hàng lên lớp
thấy rõ
- đứa trước
- đứa sau !
Tuổi học trò,
giấy trắng
mực đen
khát khao
mơ mộng...
Bây giờ,
chúng mình lớn lên,
những trang đời
úp mở ...
những đồng tiền
sấp ngửa
đỏ đen ...
Dối trá và sự thật
Nghèo hèn và hiển vinh...
Số phận chăng ?
Ai tỏ,
Ai tường ?
Chỉ có trái tim bè bạn
Mới nhận ra nhau
giữa cuộc đời thường !
Tháng 11/1991
-
Gió
Tôi như một ngọn gió Lào
Lang thang chẳng dám đậu vào nơi đâu
Vật vờ gõ cửa đêm sâu
Làm ai thức giấc, lo âu, hãi hùng...
Này ai chi rứa mà run
Nhà ai kín cổng, cao tường thế kia ?
Gió mồ côi giữa đêm khuya
Phai còn vương chút tình chi đến người ?!
Ai thương ngọn gió giữa trời
Ai thương ngọn gió một đời... lang thang !
Kiều Anh Hương
Khoảng trống
In Trang thơ thành viên
Đăng lúc · Report reply
Than chao ban Quang Tuan !
Dĩ nhiên là rất vui khi có bạn thơ chia sẻ, nhưng nỗi đau của chiến tranh không dễ ai quên.
Chúng ta đồng ý khép lại quá khứ, nhưng không đồng nghĩa với việc quên đi quá khứ; Chính vì vậy, trong một sáng tháng năm ấy, khi đứng ngay dưới chân tòa tháp đôi ở Mỹ vừa sụp đổ, tôi lại nhớ Hà Nội, nhớ Phố Khâm Thiên xưa vô cùng !
Chúc bạn sẽ viết được nhiều thơ hay và mình sẽ cố gắng đọc các bài thơ của bạn trên diễn đàn này !
Thân ái