-
Số bài viết
691 -
Gia nhập
-
Đăng nhập
-
Nổi bật trong ngày
1
Bài viết được đăng bởi Kieu Anh Huong
-
-
Não nề thay số kiếp nàyĐời còn bạc bẽo đến ngày nào xong
Khốn cùng thay phận má hồng
Mưa sa vũng lội long đong cả đời
Ta hận ta, hận tình đời
Trắng đen cũng tại miệng người mà nên
Lòng giờ như dại như điên
Những mong giải thoát luỵ phiền trần ai
Chong chong thức suốt đêm dài
Nhìn con say giấc lệ rơi đôi hàng
Lòng toan dứt nợ trần gian
Chạnh thương con trẻ lạc đàn bơ vơ
Xác thân mòn đến bao giờ?
Mịt mù không một bến bờ tương lai
VH,13/ 12/ 2010
KHÔNG ĐỀ
Ngày đầu năm, đọc bài thơ cuối năm
Xuân vui bỗng thấy dạ chùng thấm cay...
Bi lụy chi, số kiếp này
Ngẩng đầu mà sống vẫn hay hơn nhiều
Hận tình phỏng có ích gì
Coi khinh số phận nhoẻn cười đi em !
Chém cha cái kiếp
-
39. VŨ ĐIỆU TRĂNG NƠI PHÒNG VĂN…
Mệt nhoài cơm áo một ngày...
Những người thợ của tôi đã o o... say ngủ
Chỉ riêng mình ta, thao thức nơi phòng văn
cùng vũ điệu trăng bên cửa sổ !
Em nõn nà như men sứ trắng
Ngọc ngà mờ tỏ… từng bờ cong
Giai điệu của đêm nghe thật rõ
Rung sau vai, tóc xõa, chập chờn !
Những dòng tản văn... uốn éo khôn lường
Lả lơi, bao ý thơ rộn ràng tâm tưởng
Bông hoa đực và bông hoa cái...
Thiên nhiên hoang dã trôi vào đêm
Vũ điệu trăng mờ tỏ... giai điệu nhạc nước cất lên
Hóa ra trời đêm mưa nhợt nhạt
Trống ếch ồm oàng... gọi nhau sexy tắm gội
Dưới ao, sóng quẫy vào lòng !
Phòng văn đêm, bỗng rộng thênh thênh
Trăng lặn vào mây
Ta vật vờ thức, ngủ...
Hóa ra không phải thế
Vẫn là tiếng ngáy o o của những người thợ
Ru ta đắm chìm vào đêm !
***
Ngủ đi nhé, hỡi những người anh em
Ngày mai, ta lại lên công trường
Cơm áo còn lắm gian nan, thử thách
Thơ chỉ như là người chính ủy
Thổi chút hồn kiêu hãnh vào lòng
Thế thôi !
Hà Nội, ngày 9.12.2009
Kiều Anh Hương
-
HOA PHƯỢNG Ở HẢI PHÒNG
Ta quá vô tình trước thời gian
Đến nỗi sáng nay chợt bàng hoàng
Khi hàng phường ven đường rực đỏ
Chợt hiểu rằng, mùa hè nữa đã sang !
Vậy là đã hai lần phượng nở
Ai đã trói đời ta nơi phố biển này ?
Để Hải Phòng thành niềm thương, nỗi nhớ
Mỗi lần xa, mỗi lần phải rời xa...
Phượng nơi nào mà không đẹp phải không ?
Nhưng anh dám nói phượng Hải Phòng đẹp nhất
Nếu không tin, em hãy về ngay nhé
Biển Đồ Sơn, mùa này như càng đỏ hơn !
Hải Phòng, ngày 26.5.2010
Kiều Anh Hương
-
NHÌN TRỘM CÔ GÁI THÁI...
Em đừng giận anh mà tội
Chỉ tại chúng bạn thách thôi...
Nếu mà lên Sơn La, Điện Biên
Không một lần nhìn thấy
Con gái Thái tắm tiên bên suối
Thì đừng về !
Thế là thằng đàn ông trong anh, một lần
Đã phải lần mò nhìn trộm
"Danh bất hư truyền"...
Em gái Thái ơi, anh không đặng
Bỏ về xuôi được nữa rồi !
***
Đường có xa và suối có sâu
Những tưởng nơi đây là thiên đường hoang dã
Nhưng, chẳng như bạn nghĩ đâu
Giữa thanh thiên bạch nhật
Chỉ thấy búi tóc cao vời vợi...
Giữa một dòng suối sâu
Trong vắt như tâm hồn thiếu nữ
Không khoả thân, không loã thể
Chỉ nghe tiếng em cười
Phập phồng cùng đôi ngực nhỏ
Lăn tăn trên sóng nước
mơ hồ...
Và anh đã phải bần thần suốt một chiều
Lặng lẽ theo em về bản nhỏ
Ngôi nhà sàn thơm mùi con gái
Thơm mùi cơm núi, xôi lam
Thơm mùi loài hoa chưa biết tên
Từ đầu dốc nhà em toả xuống
...
Và đêm ấy "ải-noọng"
Ta mãi thầm thì bên nhau...
Tây Bắc 1984
Hải Phòng 25.5.2010
Kiều Anh Hương
-
38. XOAN
Tặng người bạn gái thời đi học
Thế là em mãi không về
Mùa xuân, xoan rụng thơm đầu ngõ
Tím chát lòng người, đi - ở
Ngày ấy, xa rồi, phía tây...
Anh vào bộ đội, em thanh niên xung phong
Thư em viết, mực cũng màu tim tím
Đồng đội thường truyền tay nhau đọc
Ai cũng coi Xoan như là người thân !
Hết chiến tranh rồi, anh về quê
Nhưng đợi mãi chẳng thấy em trở lại
Mẹ đỏ mắt nhìn hoa xoan trổ
Càng nhớ em, nhẩm đếm cả nghìn ngày...
Hóa ra em đi mãi không về
Trận chiến ấy, bạn bè kể lại
Bom băm nát đường, mùa mưa, lầy lội
Em chặt xoan nhà, lót đường cho xe qua...
Xe qua rồi, bom nổ và em tôi…
Tuổi hai mươi, bì thư còn bỏ ngỏ
Chiến trường xa, chúng tôi không bao giờ còn được
Nhận tin em, màu tím vỡ tan trời !
Dẫu bây giờ, em mãi xa thật rồi
Nhưng trên mỗi nẻo đất quê hương,
bóng hình em vẫn đầy vơi, thương nhớ…
Mỗi lần về thăm nhà, cây xoan đầu ngõ
Lại rụng rơi, tim tím một nỗi buồn !
Và trái tim anh như thể vẫn còn run
Khi cầm tay em, dưới gốc xoan đưa tiễn
Xoan ơi Xoan, mùa xuân lại về đấy
Em có vui không, nắng trổ lên rồi
Kìa, Xoan vẫn đang bay, tím cả sắc trời !
Hà Nội, 12.3.2010
Kiều Anh Hương
-
37. TRĂNG XƯA VÀ TRĂNG NAY
Trăng xưa hay là Trăng nay ?
Cũng là Trăng của tháng ngày mộng mơ !
Em ngày xưa hay bây giờ
Vẫn là Em của ý thơ... rối lòng !
Từ quê ra chốn phố đông
Sáng đèn, trăng có chạnh lòng không em ?
Còn tôi, chân đất, thấp hèn...
Nên trăng luôn mãi dịu hiền mến thương
Dẫu ai "nhạt bóng trăng theo..."*
Riêng tôi, trăng vẫn mãi neo đáy lòng !
Hà Nội, ngày 23.09.2009
Kiều Anh Hương
-
CÔ GÁI CÓ TẤM LÒNG THI NHÂN
Thân tặng em - BGCĐ
Đất trời nhiều khi còn nhầm lẫn
Biến ngày thành đêm, tối mịt mùng
Nhưng thôi, đấy là chuyện trời và đất
Chỉ tiếc thay cho bao kẻ anh hùng…
Đâu biết trên đời này vẫn còn có
Một nữ thi nhân có tấm lòng vàng
Mải miết đi tìm câu thơ đẹp
Sống mặn mà sâu nặng tình thân…
Ai đâu tá, ai không may, sẩy chân
Nếu bước lại nhớ giùm tôi nhé
Trên đời này vẫn còn người em gái
Dung dị một tấm lòng thi nhân !
Hải Phòng, ngày 25.5.2010
Kiều Anh Hương
735
-
ROCK...
Những phím đàn bỗng ngân lên chùm hợp âm
Trống dập dồn, vũ điệu rock
Bỏng rát bốn ngón tay lướt trên sáu giây sắt
Rú rít âm thanh điện tử quay cuồng…
Đêm,
Không gian căng như giây đàn
Tê dại những con tim phập phồng say lắc
Tất cả không thể đứng im
Bỗng xô vào nhau như sóng…
Mồ hôi rơi từng giọt, từng giọt…
Trên khuôn mặt
Nhạc công, ca sĩ
Và trên khuôn mặt của một biển người mê cuồng gào thét
Thế giới quanh tôi chỉ còn lại một màu
U mê, hoang dại…
…
Nhưng khi âm thanh của vũ điệu rock lặng câm
Không chợt gian tĩnh lặng đến bất ngờ
Từ trong thẳm sâu ký ức
Những giai điệu dân ca lại bừng thức
Say nồng như bao câu hát ru
Như thân cò lặn lội qua bao năm tháng
Vẫn một màu tinh khiết sáng trong…
…
Chẳng có gì có thể át nổi tiếng lòng
Của nghìn đời ông bà ta để lại !
Ngày 24.5.2010
Kiều Anh Hương
734
-
36. HẢI PHÒNG –TÌNH YÊU TÔI !
Em,
Hải Phòng - Tình yêu tôi cuối thu !
Không hiểu nữa vì sao ta có được
Khi Phố Cấm, Cầu Rào, Sông Lấp*….
Vẫn chẳng thể nào ngăn trở lối ta về !
Cầm tay nhau trong hạnh phúc si mê
Phút ngỡ ngàng… chợt lòng ta tự hỏi
Em, Hải Phòng, thân thương, mộc mạc thế
Cớ sao cứ mê đắm hồn tôi !
Hóa ra, điều giản dị vậy thôi
Em, như biển, vẫn mặn mòi mời gọi !
Thương con sóng bạc đầu, suốt một đời, khát đợi
Một bến bờ neo đậu bình yên !
Anh, con thuyền nhỏ lênh đênh
Bỗng một ngày thả neo phố biển
Dẫu vẫn biết bão giông luôn rình rập
Nhưng mặc kệ thôi, biển sóng ập đến rồi !
Em,
Hải Phòng - Tình yêu tôi cuối thu !
Ngày 11.9.2009
Kiều Anh Hương
-----------------------
* Những tên phố, tên cầu, tên sông có thật ở Hải Phòng.
-
35. MÙA THU VÀNG
Đúng quá, mùa thu vàng em nhỉ !
Sài Gòn, ngày ấy đã xa chưa..?
Ta từng hẹn nhau, chiều thứ bảy
Công viên vàng nắng, mắt ta say...
Để bây giờ nỗi nhớ lại đầy dâng
Góc nhỏ "địa đàng", hoa vàng rộp
Lá thu chiều rơi đầy vai áo
Mắt em ngước nhìn... lá mắt bay !
Sài Gòn ngày ấy và hôm nay
Sau tháng năm dài bao đổi thay ?
Người xưa có còn vương lối cũ
Ghế đá công viên, còn ấm hơi ?
Thôi nhé, cho ta gửi đôi lời
Mùa Thu Sài Gòn, mùa thu ơi
Mãi mãi sẽ là thu bè bạn
Nối nhịp thời gian, Em và Tôi !
Ngày 24.8.2009
Kiều Anh Hương
-
TÔI CÓ PHẢI LÀ BẠN CỦA EM KHÔNG ?
Thật buồn cười khi tôi làm thơ và hỏi
Tôi có phải là bạn của em không ?
Một ý nghĩ trong em chắc còn nhanh hơn điện
Tôi - một kẻ khùng !
Nhưng tôi biết, em đang đi tìm định nghĩa cho riêng mình
Đâu là “tình bạn” ?
Tình bạn ư ?
Câu trả lời sẽ không bao giờ có
Nếu chính ta chưa sẵn sàng !
Một chút thương yêu, một chút nồng nàn
Một cái xiết tay, một nụ cười thương mến
Một giọt nước mắt trĩu bờ vai nồng ấm
Một nỗi nhớ bâng khuâng vô cớ hiện về…
Tình bạn là gì trong bao la tình người ?
Tôi cũng thế, nhiều khi cứ tự hỏi
Xin hãy chìa tay mình về phía trước
Nếu có người đang rất cần, rất cần bạn ơi !
Liệu tôi có phải là bạn của em không ?
Hải Phòng, ngày 24.5.2010
Kiều Anh Hương
-
BUỒN – VUI !
Có khi nào ta thiếu những nỗi buồn ?
Chút hương vị dư thừa của mãn nguyện…
Bởi giản đơn, khi đủ đầy tất cả
Nỗi buồn không đâu, bỗng dưng lại ùa về…
Có khi nào niềm vui lại có thừa ?
Chút xa xỉ của muôn trùng nghèo đói…
Bởi giản đơn, ước mơ là huyễn hoặc
Có chút gì hơn, cũng mãn nguyện rồi !
Vui với buồn, tất cả luôn song hành
Sao cứ bận tâm với chính mình, thế nhỉ ?
Hãy xông thẳng vào nỗi buồn, nếu thấy
Còn niềm vui, xin hãy biết nâng niu !
Hải Phòng, ngày 24.5.2010
Kiều Anh Hương
-
34. ĐI TÌM EM TRONG CHIỀU ĐÔNG...
Tôi ngược đường, gió rát mặt bờ sông
Bảng lảng chiều đông, cớ sao lạnh thế ?
Căn nhà ai tềnh toàng... nỗi nhớ
Câu thơ buồn day dứt chạy vào tim !
Tôi ngược đường, mưa ướt áo, run run
Nhặt lấy câu thơ còn vương ngoài bậu cửa
Nhặt lấy nỗi chán chường vì mong nhớ
Nhặt lấy nỗi cô đơn vì phải mãi đợi chờ...
Tôi ngược đường, soi mói bao mắt nhìn
Hóa ra phố một chiều, giật mình, còi rít !
Câu thơ buồn, chông chênh chưa nhớ kịp
Bảng lảng rơi giữa chiều tái tê !
Tôi ngược đường, ngược thời gian, tìm về...
Không còn nhận ra mái nhà xưa, ngõ vắng
Gió vẫn rát, thổi từ miền xa lắc
Mưa vẫn rơi, thăm thẳm phía không em !
Thôi cũng đành, trước bậu cửa, chờ tin
Lắng nghe gió heo may thổi úa vàng nỗi nhớ !
Hải Phòng, ngày 2.12.2009
Kiều Anh Hương
-
NỬA EM
Đành rằng phố nhỏ, người đông
Em đi lấy chồng, phố vắng hơn xưa
Đành rằng, người ấy dần thưa
Dấu chân đầu ngõ cũng mờ tháng năm...
Nửa em dẫu đã không anh
Vẫn mong người ấy về thăm phố nghèo
Đành rằng em đã theo chồng
Vẫn mong xin được một lần sẻ chia
Gặp nhau chi, để mà chi ?
Nửa em mách bảo...
Rằng thì
Nửa em...
Hà Nôi, ngày 20.5.2010
Kiều Anh Hương
-
33. BÀI THƠ TÌNH XƯA VÀ MỐI TÌNH NAY
Cảm ơn em
đã cho anh gặp lại Hàng Châu
Trong bài thơ tình xưa, xao xuyến...
Cảm ơn em
Đã cho anh gặp lại
Sóng Tây Hồ giữa lòng Hồ Tây, Hà Nội
Bài thơ tình của chúng mình, hôm qua, hôm nay !
Bất chợt trái tim anh rung lên
Nỗi nhớ về em có lẽ còn nhiều hơn
nỗi nhớ của người xa xứ...
Đêm Dortmund tận trời tây, nước Đức
Có khuôn hình nào làm dịu bớt nỗi cô đơn ?
Bất chợt, trái tim anh lại nhói đau
Mà lạ quá, bỗng nửa đêm thao thức
Thu đã qua rồi, dẫu sắc vàng còn đó
Nhưng hơi ấm người đi, giá lạnh đã ùa về !
Cảm ơn em
đã cho anh được đọc lại bài thơ tình...
Thi nhân ơi,
Người yêu nhau, muôn đời vẫn thế
Lời tình yên, nghìn năm vẫn vậy
Da diết lòng,
Da diết cháy không thôi !
Bài thơ tình Hàng Châu*...
Ta lại nâng niu chép tặng cho nhau !
Ngày 17.11.2009
Kiều Anh Hương
----------------------
*“Bài thơ tình Hàng Châu” của cố nhà thơ Tế Hanh.
-
Bài thứ 12; Tặng Bùi Thị Sơn
LÝ LẼ CỦA TRÁI TIM
Đã hơn tuần nay rồi tôi không vào mạng; Nếu có vào thì cũng chỉ tranh thủ post vài bài thơ đã viết sẵn cho bạn bè đọc chơi chứ không có thì giờ để “la cà” vào mấy cái “lều” thi ca này nọ để tìm kiếm những “ý ngọc, lời vàng…” mà nhâm nhi…
Các Cụ ngày xưa thường bảo “yêu gì là khổ nấy”, suy cho cùng thật đúng. Trót yêu thơ và làm thơ nên một ngày không tìm đọc được một vài bài thơ hay là cảm thấy thiêu thiếu một cái gì đó. Hôm nay trở về ngôi nhà “thi viện” thấy có một vài cái tên lạ ghé thăm trang thơ của mình; Tôi cungxcamr thấy rất vui và tò mò muốn xem họ là ai ? Khẩu khí ra sao ? Và thế là mình lại bắt đầu một cuộc “đào, đãi vàng” mới. Truy tìm gốc gác bắt đầu từ cái nick “buithison” và được biết bạn ấy tên là Bùi Thị Sơn, ở Lai Châu. Nếu những gì tác giả đã khai trong thi viện là đúng thì mình có thể gọi Sơn bằng em. Sơn còn kém mình những 7 tuổi cơ đấy, thế mà lời lẽ sao mà “già vậy”. Nhưng nếu đọc kỹ thơ của Sơn thì hình như lại hoàn toàn khác, nó trong trẻo như giọt suối đầu nguồn và đắm thắm như một bông hoa núi thực sự.
Đọc topic “Lý lẽ của trái tim” của Bùi Thị Sơn với 24 trang đầy đặn, mình thấy rất vui vì chủ nhà đã rất có duyên khi để lại nhiều bài thơ khơi gợi cho bạn thơ hứng thú họa theo, thành thử, mặc dù đã rất kiên nhẫn đọc hết cả 24 trang, nhưng mình cũng chỉ nhặt ra được không nhiều những bài thơ viết độc lập (không đối qua, đối lại) của chủ nhà; Trong đó mình rất thích 2 bài thơ “Trăng và lục bát” và “Giận chồng ra võng nằm chơi”. Mỗi bài có một vẻ hay riêng, nhưng thích hơn cả vẫn là bài “Trăng và lục bát”; Vậy nên hôm nay mình xin phép chủ nhà “nhấc về bên này” và bình chơi nhé.
Trăng, một chủ đề vốn đã là rất “cũ” trong thơ, nhưng tôi dám cam đoan rằng, ai đã trót “đa đoan” với thơ thì ít nhất trong đời cũng đã phải một lần đối mặt với trăng và làm thơ về trăng ! Tôi thì có nhiều bài thơ về trăng lắm, tỷ như:
Trăng và em… cứ ngỡ quá cũ rồi
Bao năm tháng thi nhân mòn nghiên bút
Nhưng đêm nay, bỗng lạc vào mê trận
Khi anh lại được gặp.. Trăng và Em…
(Trong bài “Trăng và em” đã in trong tập thơ “Hà Nội đêm bình yên”-NXB HNV, 2008)
Hay:
Trăng xưa hay là trăng nay
Cũng là trăng của tháng ngày mộng mơ
Em ngày xưa, hay bây giờ
Cũng là em của ý thơ… rối lòng !
(Trong bài “Trăng xưa và trăng nay” đã in trong tập thơ “Người đàn bà của tôi”-NXB HNV, 2010)
Còn “lục bát” ư ? Cũng là một cái gì đó, nếu ta không gọi nó là “thơ truyền thống” thì cũng có thể nói là rất “cổ”. Lục bát có trong thi ca Việt Nam từ hàng nghìn năm rồi ai mà chẳng biết, nó được truyền khẩu qua bao đời từ những bài đồng dao của con trẻ đến những hò vè, đối đáp của nam thanh nữ tú trong các đêm “trăng thanh tát nước bên đình” hay trong những lời ru chan chứa tình mẹ bên nôi… (Chỉ tiếc rằng bây giờ nhiều bà mẹ trẻ không biết à ơi, ru con… Thật là thiệt thòi cho bao đứa cháu chắt sau này…). Nói là cổ, nhưng không bao giờ là cũ, đó là đặc điểm của thơ lục bát. Bởi vì ngày nào, báo nào, diễn đàn nào cũng thường xuyên có thơ lục bát được in, được giới thiệu... Vấn đề là có hay không, có được làm “mới” không lại phụ thuộc vào tài nghệ của các nhà thơ, của các tác giả…
Trở lại với bài thơ “Trăng và lục bát” của Sơn, ta dễ thấy tác giả đã biết khai thác một chủ đề rất cũ những đã biết làm mới, đã biết se duyên cho hai cá thể rất cũ để “nên vợ, nên chồng” thật xứng đôi và tạo ra một sinh khí hoàn toàn mới. Có một cái rất hay và cũng gần như là phát hiện của nhà thơ là hình như những bài thơ viết về trăng theo thể lục bát bao giờ cũng dễ thành công và hay hơn thể thơ khác. Và chính tác giả đã biết vận dụng thể thơ lục bát để nói về sự “cặp đôi” rất đẹp này:
“Trăng và lục bát mê nhau
Có gì đâu, có gì đâu...thế mà...
Người đời chê gã trăng già
Chê cô lục bát-đàn bà lẳng lơ... “
Ừ thì “ai chê thì mặc, cứ chê/Đã yêu, ta phải tìm về với nhau…”. Tôi thực sự thích thú về sự lý giải trong sáng và tự nhiên của Sơn “Có gì dâu, có gì đâu... thế mà…”
Cũng dễ hiểu thôi, Bùi Thị Sơn đã và đang sống gần như nơi chót cùng của miền Tây Bắc. Nhưng nếu không đọc “trích ngang” lý lịch của chị thì cũng dễ lầm với một người viết thơ vùng kinh bắc lắm bởi vì ngoài sự trong trẻo, nó còn cực kỳ sâu lắng:
“Trăng già ăm ắp tứ thơ
Lục bát say đắm ngẩn ngơ tối ngày “
Bởi vì người làm thơ mà không tìm được “tứ thơ” để triển khai thì tốt nhất là đừng viết, kẻo không lại biến thành một sự ghép vần vô bổ, lan man, dàn trải mà ta vẫn thường và rất dễ gặp ở những cây bút không chuyên, đặc biệt trên các trang “thơ blog”. Còn nhớ ngày xưa, khi tôi còn học lớp 5, chị tôi học lớp 10/10; Chị tôi học rất giỏi toán nhưng văn thì thôi rồi, được điểm 2+ đã là “đỉnh” lắm rồi (thang điểm 5). Tôi thì được thầy khen là học toàn diện, toán văn gì đều như nhau, bởi vậy có một lần chị tôi nhờ tôi làm một bài thơ, chủ đề là gì, lâu quá tôi cũng không còn nhớ nữa, chỉ biết rằng tôi đã “sản xuất” ngay cho chị một bài thơ tắp lự cỡ độ mười câu lục bát với sự ghép vần gần như “hoàn hảo” kiểu như: “Hôm qua em gặp Bác Hồ/Rất vui nhưng thấy Bác tồ làm sao/Bác Hồ thì ở trên cao/Còn em như chú cào cào bé con…”. Bài văn của chị do tôi làm được 0 điểm. Về nhà chị mắng tôi một trận tơi bời. Có lẽ cũng vì thế, sau cú huýnh đó mà tôi mới bắt đầu tìm hiểu về thơ và “học đòi” làm thơ. Cũng may ông ngoại tôi là thầy giáo dạy chữ nho, rất am tường về thơ phú nên ông đã lần lượt giảng giải cho tôi về thơ, về các thể thơ như lục bát, tam thất lục bát, thơ đường… Nhưng thú thật, sau này vào chiến trường làm thơ và học các anh chị đi trước, tôi thích thể loại thơ mới hơn vì nó khoáng đạt hơn, phù hợp với cuộc sống thực tế ở chiến trường hơn…
Lại nói về tây bắc, mà cụ thể là tỉnh Lai Châu mới của Bùi Thị Sơn, như đã nói, nó nằm ở tận cùng, cực tây bắc của Tổ Quốc, giáp với Trung Quốc. Năm 1979, đã từng bị Trung Quốc xâm lược và phá hủy gần hết trước khi rút về bên kia. Trong đời tôi, nhưng chuyến đi về từ Tây Bác và Hà Nội trong những năm 1982 đến 1985 là gần như thường xuyên. Nếu bạn đọc bài thơ “Tiếng khóc đêm” của tôi (đã gửi trên thi viện) thì hẳn cũng đã rõ. Vì vậy, nói thật, Tây Bắc nói chung và Lai Châu nói riêng đối với tôi thật sự là thân thiết. Tôi lại rất giỏi tiếng Lào, tiếng Thái nữa, nên mỗi bận về Lai Châu hay Điện Biên, gặp được đồng bào Thái là có thể mở “volum” hết cỡ ! Tán gái bằng thổ ngữ thì chỉ có mà “ăn đứt” chứ chẳng đùa. Thật tiếc thời đó chưa có net, chưa có blog này nọ nên ai biết người đó, chứ mà như bây giờ thì có khi tôi đã biết Sơn từ thuở em chưa có chồng cũng nên… Hi, hi, mà biết đâu đó, Sơn nhỉ ?
Tán vui vậy thôi, trong đời làm gì cũng phải có duyên mới gặp được nhau, huống hồ đang là chuyện trên trời, trên mạnh vậy ! Rõ là cứ “giàu trí tưởng bở” ?!
Nhưng gì thì gì, đọc xong bài thơ “Trăng và lục bát” của Sơn, mình lại muốn được làm chú Cuội để lên tận cung trăng và mang theo nàng lục bát của Sơn treo lên cho thiên hạ cùng chiêm ngưỡng. Trót yêu thơ và làm thơ nên một ngày không tìm đọc được vài bài thơ hay là cảm thấy thiêu thiếu một cái gì đó. Hôm nay, ít nhiều, sự thiếu đó cũng đã được lấp đầy. Cảm ơn Bùi Thị Sơn, cảm ơn mảnh đất địa đầu Lai Châu đã nuôi, giữ một tâm hồn thơ thật đẹp.
Hải Phòng, ngay 7.9.2010
Kiều Anh Hương
Mời các bạn đọc 2 bài thơ “Trăng và lục bát”, “Giận chồng ra võng nằm chơi” của tác giả Bùi Thị Sơn ở Lai Châu:
TRĂNG VÀ LỤC BÁT
Trăng và lục bát mê nhau
Có gì đâu, có gì đâu...thế mà...
Người đời chê gã trăng già
Chê cô lục bát-đàn bà lẳng lơ...
Trăng già ăm ắp tứ thơ
Lục bát say đắm ngẩn ngơ tối ngày
Lục bát duyên dáng xưa nay
Muôn người mê mẩn có tày lão trăng ???
GIẬN CHỒNG RA VÕNG NẰM CHƠI...
Giận chồng ra võng nằm chơi
Trăng thanh, gió mát ngời ngời thịt da
Em còn trời- đất bao la
Cớ sao phải rúc trong nhà với anh ?
Võng đưa bay bổng trời xanh
Em lạc vào cõi mộng lành ước mơ:
Nhẹ nhàng dạo gót chàng thơ
Cùng em đàm đạo hàng giờ văn chương
Thế gian còn ối kẻ thương
Cớ sao cứ chỉ chung giường với anh ?
Em lạc trong cõi lênh đênh
Chàng thơ bỗng hoá người tình đắm say
Mắt trong mắt, tay trong tay
Em như mọc cánh vút bay lưng trời...
Tỉnh dậy nóng toát mồ hôi
Người như đeo đá...chồng ngồi cạnh bên:
"Đêm em ra võng ngủ quên
Cơn mưa ập đến, anh ôm em vào
Em gặp ác mộng hay sao ?
Chân tay run rẩy, lệ trào ướt mi..."
Chồng ơi ! Đừng hỏi câu gì ?
Giường êm , nệm ấm thầm thì : "Em sai !"
-
Bài thứ 11; Tặng Ái Ly
CÚI LẠY TÌNH NHÂN !
Tôi biết Ái Ly cũng đã khá lâu, cách đây chừng 4, 5 năm gì đó và cũng đã được diện kiến “nàng” một lần. Đó là một cô gái nhỏ nhắn, có khuôn mặt rất thông minh và ánh mắt “ưa nhìn”; đặc biệt có cùng nghề nghiệp với tôi – một kỹ sư hóa học…
Tôi biết Ái Ly cũng giản đơn, vì chúng tôi cùng là những người “chơi” trên mạng và cùng yêu thơ, viết thơ trên “thotre.com”. Nhưng điều khiến tôi gặp được Ái Ly lại hoàn toàn khác và khá bất ngờ, không nằm trong nằm trong dự kiến. Trong một lần vô công tác Sài Gòn, liên lạc qua điện thoại, tôi được biết nhà của Ái Ly ở rất gần nghĩa trang liệt sĩ Mười Tám Thôn Vườn Trầu, Hóc Môn – Củ Chi; Thật hữu tình, đó là địa điểm tôi thường ghé thăm mỗi lần vô Sài Gòn để thắp nén nhang cho phần mộ của thằng em tôi đang nằm đó. Nó đã anh dũng hy sinh vào hồi 9 giờ sáng ngày 30.4.1975 khi cùng đơn vị tiến vào giải phóng Thành Phố mang tên Bác. Nó đã hy sinh khi mà chỉ cách với thắng lợi hoàn toàn của đân tộc ta có… 3 giờ đồng hồ. Ôi, thật đau buồn và thương tiếc.
Tháng 5, năm 1975 khi vô đến đến Sài Gòn và biết tin em đã hy sinh, tôi đã viết trong nước mắt một bài thơ và mang ngay đến tòa soạn báo giải phóng nằm trên đường Đồng Khởi với hy vọng sẽ góp phần làm vợi đi nỗi buồn đau cho em, cho chính tôi và gia đình… Nhưng bài thơ đã không được đăng; tôi cũng không hiểu vì sao ? Sau này tôi cố nhớ để viết lại, nhưng chắc chắn không còn vẹn nguyên cái cảm xúc ngày nào, nhưng nó đã cắt nghĩa được vì sao không được đăng. Bài sau này có tựa đề “Bài thơ viết tặng em ngày 30.4..”, trong đó có đoạn:
“Nhưng chiến thắng men say còn đó
Nên bài thơ ai đã vô tình
Ném vào sọt rác…
Để anh và em
Cùng khắc khoải đợi chờ
Từng ngày, từng phút
Bài thơ in viết đề tặng Em..”
(Sau này khi tôi đưa bản thảo tập thơ “Gặp lại tuổi 20” cho nhà xuất bản Hội Nhà Văn, nhà thơ Ngô Văn Phú biên tập lại đã sửa thành: “Nên bài thơ ai đã vô tình/Ném vào quên lãn..” để nghe có vẻ mềm hơn và “thơ” hơn… Nhưng thực tình mà nói, tôi vẫn muốn để nguyên như bản thảo ban đầu, bởi nó là tâm trạng thật của tôi…)
Trở lại với câu chuyện thơ hôm nay, tôi tìm và gặp được Ái Ly cũng nhờ cái “duyên” như vậy. Và còn nhớ sau này nữa, đã có đôi lần tôi phải nhờ Ái Ly vào nghĩa trang đó chụp hộ tôi mấy bức hình về phần mộ của các anh hùng liệt sĩ và gửi email ra cho tôi để tôi đưa lên… blog, minh họa cho một bài thơ nhân ngày 27.7 – ngày thương binh liệt sĩ… Dĩ nhiên rồi, bây giờ chúng tôi là những bạn thơ thân thiết.
Có lẽ vì bận học và có lẽ cũng vì nhiều nguyên nhân khác nữa mà Ái Ly viết cũng không quá nhiều thơ như các “nhà thơ blog” khác và thơ Ái Ly cũng chưa đề cập nhiều đến các “mảng, miếng” của cuộc sống hiện tại, chủ yếu là thơ viết về tình yêu, về những tình bạn chân thành và đượm chất lãng mạn của tuổi học trò vốn đã rất mộng mơ. Nhưng bất chợt, trong topic mới “Cúi lạy tình nhân” của Ái Ly trên “thơtre.com” tôi đã bắt gặp bài thơ cùng tên viết cách đây chừng hai năm có dư rồi. Thoạt đầu thì tôi cũng không để ý lắm, vì thơ tình trên mạng nói như ai đó “nhiều hơn cả nấm sau mưa”. Nhưng hôm nay đọc lại bài thơ này thì tôi mới thấy “ngấm”, đặc biệt khi đọc hết các bài thơ cùng chủ đề của Aí Ly nói về cuộc tình trắc trở mà cô đang vô cùng đau khổ dằn vặt thì mới hiểu hết tâm trạng của người viết.
“Lạy anh, một lạy đầu tiên
Yêu thương chi đề ưu phiền trong nhau
Hai lạy, mình cố quên mau
Dặn lòng không khóc đớn đau qua rồi
Đừng vì tôn giáo chia phôi
Lạy anh ba lạy… đành thôi khóc thầm”..
Ở cuối bài thơ Ái Ly còn không quên ghi chú rằng “tôn giáo không ngăn cản tình yêu”. dường như đó chỉ là một câu nói suông, nó ko có thật. Đã bao nhiêu người phải rời xa nhau vì hai chữ “tôn giáo” ấy. Và phải chăng, tôi là một trong số đó.
Thực ra thì tác giả không cần phải chú thích gì thêm thì người đọc cũng sẽ hiểu ngay thôi. Chuyện đời Lương – Giáo không hiểu vì sao mà từ rất lâu rồi đã ngáng trở bao cuộc tình là có thật. Ái Ly ơi, không phải Chúa hay Phật đâu. Tình yêu vốn đâu có tôn giáo, chỉ có con người, hay chính xác hơn, nếu có cũng chỉ là do một “thế lực” nào đó đã cố tình ngăn cách nhằm tạo ra sự mất đoàn kết trong cộng đồng người Việt Nam nói riêng và nhân loại nói chung mà thôi.
Bài thơ nghe thật buồn, thật tâm trạng phải không các bạn. Tôi dám chắc rằng, nếu không ở trong nỗi niềm đó, ở trong tâm trạng đó thì khó mà viết được những câu thơ như cứa vào lòng người, đau hay đến vậy !
Hồi tôi mới từ quân ngũ phục viên về quê cha mẹ tôi cũng giục giã tôi dữ lắm về chuyện lấy vợ để ông bà sớm có cháu “đích tôn” mà bế, mà bồng. Thực ra hồi đó tôi cũng đâu có ham lấy vợ, mới 24 tuổi đầu lại vừa “từ đại ngàn bước ra..”, trong mình còn chất chứa biết bao thương tích của chiến tranh mà, kể cả chất độc màu da cam nữa, chắc vẫn còn trong máu chứ bộ (tất nhiên rồi, hồi đó sao mà ý thức được việc này). Đành phải tuân lời các cụ và bắt đầu “chiến dịch” cưa cẩm, kén vợ. Các bạn gái cùng thời với tôi thì nhiều lắm, toàn con nhà có học lại “tài sắc vẹn toàn”, nhưng than ôi, giờ thì đa phần đã yên bề gia thất, hơn nữa họ bây giờ đều đã là kỹ sư, bác sĩ… còn mình thì… Tủi lắm, buồn lắm. Đành phải nhờ tới cô em gái út mai mối.
Lại cũng là chuyện lương-giáo ! Ngân, một cô gái cùng thị xã học trên đứa em gái út tôi một lớp, đã tốt nghiệp cấp 3 mà không thi đỗ đại học, ở nhà và cũng đang bị gia đình o ép bắt phải lấy chồng…Hợp lúc quá còn gì ! Ngân đẹp lắm, con gái thiên chúa, ở thị xã, da trắng, tóc dài lại có đôi mắt như Đức Mẹ, thì thôi rồi, ai gặp mà chả mê huống hồ gì tôi. Vừa ôn thi đại học, vừa qua lai cưa cẩm vài ba bận, hình như Ngân cũng đã phải lòng tôi. Mà không phải lòng sao được, con gái quê tôi thời ấy trọng cái đầu hơn là hình thức, mà với tôi, khoe nhỏ với các bạn một tý nha, dân chuyên toán tỉnh, có giải miền Bắc thời đó thì cũng lừng danh lắm. Học sinh đàn em lớp lớp sau này đều được thầy cô nhắc đến mê lị (he, xấu hổ quá…!). Vậy nên Ngân không chịu tôi thì còn chịu ai. Cứ tưởng “bở”, thôi thì ngỏ lời và cưới đại đi cho ông bà mừng rồi mình đi học thì cũng chả chết ai, tôi bèn liều lĩnh ngỏ lời... Nhưng ôi thôi, nàng rất buồn và cũng thản nhiên nói thẳng rằng ba mẹ nàng không đồng ý vì chàng là bên lương còn nàng là bên giáo…? Tôi cự lại, anh lấy em chứ đâu phải ba mẹ em mà lo, mà sao em biết ba mẹ không đồng ý ? Hóa ra, từ khi tôi xuất hiện trong nhà nàng, các camera đã theo sát và hiểu hết sự tình… Nhưng nguyên nhân sâu xa cũng không hẳn là vậy. Mãi sau này tôi mới biết, ba mẹ nàng đã ướm cho nàng một anh “đi tây” về có cái xe favorit bóng lộn, hoành tráng và giàu có lắm… Thôi thì con gái ham giàu thì cũng dễ thông cảm thôi (?!)
Lúc đầu thì tôi cũng rất buồn, nhưng về sau thì lại vui. Đấy nhá, con đã cố gắng rồi, đám được được, ưng thì người ta không chịu, lương giáo mà… Cha mẹ tôi cũng tiếc và thấy cũng không còn lý do gì nữa nên tạm “tha” và tôi may mắn vượt qua…
Kể lại chuyện này là để chia sẻ với Ái Ly mà thôi. Ngày ấy, nếu tôi mà giỏi làm thơ, nhất là viết được bài thơ “cúi lạy tình nhân” như của Ái Ly, biết đâu đến trước ba mẹ nàng đọc, ba mẹ nàng sẽ rơi lệ mà phê duyệt chăng ? Nhưng không đâu, ý thức hệ tư tưởng khi đã găm sâu vào trong đầu người ta thì khó mà thay đổi được lắm. Vì vậy, sau này đọc sách, hay nghe kể chuyện mà thấy đôi nào vượt qua được sóng gió của tôn giáo như thế này tôi phục lắm.
Ái Ly à, mà thôi cũng đừng buồn, đất còn rộng mà trời vẫn còn cao xanh lắm, cháu cứ tha hồ mà đi, mà bay nhảy, không nhẽ dưới vòm trời nước nam này lại hết con trai đủ tiêu chuẩn cho cháu kén sao ? Chú không tin ! Vì vậy, chú cứ muốn đọc chệch bài thơ của cháu như sau:
Lạy anh, một lạy đầu tiên
Yêu thương là để ta nghiền vì nhau
Hai lạy, mình đừng quên mau
Dặn lòng tất cả nỗi đau qua rồi
Đừng vì hờn giỗi chia phôi
Lạy anh ba lạy… mình thôi khóc nhè…
He, he, hãy vững vàng lên người bạn trẻ mến thương của tôi ! Mà chú cũng nói thật, nếu cả cái thành phố hoa lệ Sài Gòn mà “chết hết” đàn ông rồi thì cháu mau ra Hà Nội, chú sẽ cử ngay một đứa cháu bên ngoại, con bà chị cả, cháu cụ tổ ba đời họ Kiều nhà chú ra làm ứng cử viên ngay ! Ô hay, không tin sao, chú đã kể cho nó nghe về cháu hết rồi, nó khoái lắm. Nó bảo, tội chưa, bận học hành, phấn đấu tiến, lùi… các loại sĩ gì đó, bây giờ cũng giống như chú hồi mới đi bộ đội về ấy mà, “mót” lấy vợ lắm, ha, ha… Hôm nào ra Hà nội, nhớ alô cho chú nha !
Chúc cháu vui và cảm ơn về một bài thơ hay của cháu !
Còn đây là bài thơ chú viết tặng thằng em trai đã hy sinh, cháu hãy đọc để tạm quên đi chuyện tình “lương – giáo” đau buồn kia. Chắc cháu cũng còn lưu mấy tấm hình chụp hộ chú phải không ? Cảm ơn cháu thật nhiều !
BÀI THƠ VIẾT TẶNG EM NGÀY 30-4-2000
Tặng Thọ
Không thể cứ lặng im
Sau tháng năm trôi
Vết bỏng thời gian còn đầy dấu sẹo
Em ngã xuống đúng ngày độc lập.
Khi triệu triệu người hát khải hoàn ca ..
Chen giữa Sài Gòn đỏ rực cờ hoa
Anh tìm đến một toà soạn báo
Với bài thơ chia biệt xót xa
Mong được sẻ chia cùng em và đồng đội
Nhưng chiến thắng men say còn đó
Nên bài thơ ai đã vô tình
Ném vào quên lãng
Để anh và Em
Cùng khắc khoải đợi chờ
Từng ngày, từng phút
Bài thơ in viết đề tặng Em
Bài thơ xưa
Sẽ không bao giờ còn được lên khuôn
Như Em đã ra đi
Mãi không bao giờ trở lại
Nhưng anh vẫn rất tin , rất tin
Triệu triệu người sẽ thấy
Bóng Em vươn lên phía mặt trời
Khi Sài Gòn vừa thức dậy
Trong tiếng súng rền ba mươi tháng tư !
Em ơi,
Giây lát ấy ..
Bóng Em còn hơn cả một đài thơ !
Kiều Anh Hương
-
EM VÀ THƠ
Em là bài thơ
Của ngàn đời Yên Phụ
Bất ngờ một ngày tôi bắt gặp
Những câu thơ bay lên !
Những câu thơ xao xác Hồ Tây
Ai nỡ mang đi... tận xứ người xa lắc
Để nỗi nhớ không bao giờ nguôi được
Cứ chồng lên năm tháng trong tôi !
Đọc thơ em, giọt nước mắt tôi rơi
Không dấu được, dù chỉ là giây lát
"Bên xe tang trầm hương hai mươi nhăm nén..."*
Ai đã thắp lên cho em hóa đơn côi ?!
"Trái đất quay nốt nửa vòng.." nữa thôi
Biển ào ạt và lòng ta vỗ sóng…
"Mặt trời ửng hồng" và em sẽ thức giấc
"Đỏ rực những ước mơ !!".
Ngày 19.5.2010
Kiều Anh Hương
-
32. EM VÀ SẮC HOA TIGON
Ta đã cách xa nhau… đúng nửa vòng trái đất !
Nên mỗi khi gặp nhau, muốn xích lại thật gần
Hà Nội bỗng dưng như nhỏ lại
Cho hai đứa sát gần…
như chẳng thể nào có thể gần hơn !
Chiều nay Hồ Tây mưa
Nước mắt trời ném từng vạt xót xa lên mặt nước
Gió lạnh ập vào, quán nhỏ liêu xiêu
Ta chòng chành …
Nước mắt em, bờ vai đẫm ướt
Anh bất chợt nhìn lên giàn hoa trước mặt
Bông Tigon giống như hình trái tim
Đang chòng chành trong gió, run run
Chòng chành trong câu thơ xưa, cũ:
“Bảo rằng, hoa giống như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi..” *
Tôi đâu tin nhưng mưa vẫn rơi
Môi em hồng như sắc hoa rạng rỡ
Tôi đâu tin nhưng gió rít không thôi
Tóc em bay về phía tôi đang hạnh phúc…
***
Chuyện ngày xưa…
chẳng thể nào giống chuyện ngày nay !
Em như sắc hoa Tigon ấy
Thu ngoài kia dẫu còn vương chút buồn và lạnh….
Nhưng lòng em đang cháy
Sắc hoa thắm như một đời con gái
Chín đỏ đầu môi !
Những bông hoa Tigon
Không thể nào giống hình trái tim đơn côi
Thì làm sao mà tan vỡ ?
Anh và em giống như mối tình Thiên sứ
Thì làm sao có thể cắt chia ?
Chiều nay Hồ Tây lạnh và mưa
Nhưng có hai trái tim đang đỏ lửa
Nên một góc trời vẫn nồng cháy
tình xưa !
Hà Nội, ngày 15.10.2009
---------------------------
* Trích trong bài thơ “Hai sắc hoa tigon” của tác giả TTKH.
-
Bài thơ "Nhẫn" của Đại tướng:
NHẪN
Có khi nhẫn để yêu thương
Có khi nhẫn để tìm đường tiến thân
Có khi nhẫn để chuyển vần
Thiên thời địa lợi nhân tâm hiệp hoà
Có khi nhẫn để vị tha
Có khi nhẫn để thêm ta bớt thù
Có khi nhẫn tỉnh giả ngu
Hơn hơn thiệt thiệt đường tu ai tường
Có khi nhẫn để vô thường
Không không sắc sắc đoạn trường trần ai
Có khi nhẫn để tăng tài
Khôn khôn dại dại nào ai tránh phòng
Có khi nhẫn để khoan dung
Ta vui người cũng vui cùng có khi
Có khi nhẫn để tăng uy
Có khi nhẫn để kiên trì bền gan
Có khi nhẫn để an toàn
Có khi nhẫn để rõ ràng đúng sai
Bạn bè giao thiệp nào ai?
Có khi nhẫn để kính người trọng ta
Kể ra cũng khó đó mà
Chữ Tâm, chữ Nhẫn xem ra cũng gần.
Võ Nguyên Giáp
-
Bình thơ tặng bạn:
CÚI LẠY TÌNH NHÂN !
Tôi biết Ái Ly cũng đã khá lâu, cách đây chừng 4, 5 năm gì đó và cũng đã được diện kiến “nàng” một lần. Đó là một cô gái nhỏ nhắn, có khuôn mặt rất thông minh và ánh mắt “ưa nhìn”; đặc biệt có cùng nghề nghiệp với tôi – một kỹ sư hóa học…
Tôi biết Ái Ly cũng giản đơn, vì chúng tôi cùng là những người “chơi” trên mạng và cùng yêu thơ, viết thơ trên “thotre.com”. Nhưng điều khiến tôi gặp được Ái Ly lại hoàn toàn khác và khá bất ngờ, không nằm trong nằm trong dự kiến. Trong một lần vô công tác Sài Gòn, liên lạc qua điện thoại, tôi được biết nhà của Ái Ly ở rất gần nghĩa trang liệt sĩ Mười Tám Thôn Vườn Trầu, Hóc Môn – Củ Chi; Thật hữu tình, đó là địa điểm tôi thường ghé thăm mỗi lần vô Sài Gòn để thắp nén nhang cho phần mộ của thằng em tôi đang nằm đó. Nó đã anh dũng hy sinh vào hồi 9 giờ sáng ngày 30.4.1975 khi cùng đơn vị tiến vào giải phóng Thành Phố mang tên Bác. Nó đã hy sinh khi mà chỉ cách với thắng lợi hoàn toàn của đân tộc ta có… 3 giờ đồng hồ. Ôi, thật đau buồn và thương tiếc.
Tháng 5, năm 1975 khi vô đến đến Sài Gòn và biết tin em đã hy sinh, tôi đã viết trong nước mắt một bài thơ và mang ngay đến tòa soạn báo giải phóng nằm trên đường Đồng Khởi với hy vọng sẽ góp phần làm vợi đi nỗi buồn đau cho em, cho chính tôi và gia đình… Nhưng bài thơ đã không được đăng; tôi cũng không hiểu vì sao ? Sau này tôi cố nhớ để viết lại, nhưng chắc chắn không còn vẹn nguyên cái cảm xúc ngày nào, nhưng nó đã cắt nghĩa được vì sao không được đăng. Bài sau này có tựa đề “Bài thơ viết tặng em ngày 30.4..”, trong đó có đoạn:
Nhưng chiến thắng men say còn đó
Nên bài thơ ai đã vô tình
Ném vào sọt rác…
Để anh và em
Cùng khắc khoải đợi chờ
Từng ngày, từng phút
Bài thơ in viết đề tặng Em...
(Sau này khi tôi đưa bản thảo tập thơ “Gặp lại tuổi 20” cho nhà xuất bản Hội Nhà Văn, nhà thơ Ngô Văn Phú biên tập lại đã sửa thành: “Nên bài thơ ai đã vô tình/Ném vào quên lãn..” để nghe có vẻ mềm hơn và “thơ” hơn… Nhưng thực tình mà nói, tôi vẫn muốn để nguyên như bản thảo ban đầu, bởi nó là tâm trạng thật của tôi…)
Trở lại với câu chuyện thơ hôm nay, tôi tìm và gặp được Ái Ly cũng nhờ cái “duyên” như vậy. Và còn nhớ sau này nữa, đã có đôi lần tôi phải nhờ Ái Ly vào nghĩa trang đó chụp hộ tôi mấy bức hình về phần mộ của các anh hùng liệt sĩ và gửi email ra cho tôi để tôi đưa lên… blog, minh họa cho một bài thơ nhân ngày 27.7 – ngày thương binh liệt sĩ… Dĩ nhiên rồi, bây giờ chúng tôi là những bạn thơ thân thiết.
Có lẽ vì bận học và có lẽ cũng vì nhiều nguyên nhân khác nữa mà Ái Ly viết cũng không quá nhiều thơ như các “nhà thơ blog” khác và thơ Ái Ly cũng chưa đề cập nhiều đến các “mảng, miếng” của cuộc sống hiện tại, chủ yếu là thơ viết về tình yêu, về những tình bạn chân thành và đượm chất lãng mạn của tuổi học trò vốn đã rất mộng mơ. Nhưng bất chợt, trong topic mới “Cúi lạy tình nhân” của Ái Ly trên “thơtre.com” tôi đã bắt gặp bài thơ cùng tên viết cách đây chừng hai năm có dư rồi. Thoạt đầu thì tôi cũng không để ý lắm, vì thơ tình trên mạng nói như ai đó “nhiều hơn cả nấm sau mưa”. Nhưng hôm nay đọc lại bài thơ này thì tôi mới thấy “ngấm”, đặc biệt khi đọc hết các bài thơ cùng chủ đề của Aí Ly nói về cuộc tình trắc trở mà cô đang vô cùng đau khổ dằn vặt thì mới hiểu hết tâm trạng của người viết.
“Lạy anh, một lạy đầu tiên
Yêu thương chi đề ưu phiền trong nhau
Hai lạy, mình cố quên mau
Dặn lòng không khóc đớn đau qua rồi
Đừng vì tôn giáo chia phôi
Lạy anh ba lạy… đành thôi khóc thầm”..
Ở cuối bài thơ Ái Ly còn không quên ghi chú rằng “tôn giáo không ngăn cản tình yêu”. dường như đó chỉ là một câu nói suông, nó ko có thật. Đã bao nhiêu người phải rời xa nhau vì hai chữ “tôn giáo” ấy. Và phải chăng, tôi là một trong số đó.
Thực ra thì tác giả không cần phải chú thích gì thêm thì người đọc cũng sẽ hiểu ngay thôi. Chuyện đời Lương – Giáo không hiểu vì sao mà từ rất lâu rồi đã ngáng trở bao cuộc tình là có thật. Ái Ly ơi, không phải Chúa hay Phật đâu. Tình yêu vốn đâu có tôn giáo, chỉ có con người, hay chính xác hơn, nếu có cũng chỉ là do một “thế lực” nào đó đã cố tình ngăn cách nhằm tạo ra sự mất đoàn kết trong cộng đồng người Việt Nam nói riêng và nhân loại nói chung mà thôi.
Bài thơ nghe thật buồn, thật tâm trạng phải không các bạn. Tôi dám chắc rằng, nếu không ở trong nỗi niềm đó, ở trong tâm trạng đó thì khó mà viết được những câu thơ như cứa vào lòng người, đau hay đến vậy !
Hồi tôi mới từ quân ngũ phục viên về quê cha mẹ tôi cũng giục giã tôi dữ lắm về chuyện lấy vợ để ông bà sớm có cháu “đích tôn” mà bế, mà bồng. Thực ra hồi đó tôi cũng đâu có ham lấy vợ, mới 24 tuổi đầu lại vừa “từ đại ngàn bước ra..”, trong mình còn chất chứa biết bao thương tích của chiến tranh mà, kể cả chất độc màu da cam nữa, chắc vẫn còn trong máu chứ bộ (tất nhiên rồi, hồi đó sao mà ý thức được việc này). Đành phải tuân lời các cụ và bắt đầu “chiến dịch” cưa cẩm, kén vợ. Các bạn gái cùng thời với tôi thì nhiều lắm, toàn con nhà có học lại “tài sắc vẹn toàn”, nhưng than ôi, giờ thì đa phần đã yên bề gia thất, hơn nữa họ bây giờ đều đã là kỹ sư, bác sĩ… còn mình thì… Tủi lắm, buồn lắm. Đành phải nhờ tới cô em gái út mai mối.
Lại cũng là chuyện lương-giáo ! Ngân, một cô gái cùng thị xã học trên đứa em gái út tôi một lớp, đã tốt nghiệp cấp 3 mà không thi đỗ đại học, ở nhà và cũng đang bị gia đình o ép bắt phải lấy chồng…Hợp lúc quá còn gì ! Ngân đẹp lắm, con gái thiên chúa, ở thị xã, da trắng, tóc dài lại có đôi mắt như Đức Mẹ, thì thôi rồi, ai gặp mà chả mê huống hồ gì tôi. Vừa ôn thi đại học, vừa qua lai cưa cẩm vài ba bận, hình như Ngân cũng đã phải lòng tôi. Mà không phải lòng sao được, con gái quê tôi thời ấy trọng cái đầu hơn là hình thức, mà với tôi, khoe nhỏ với các bạn một tý nha, dân chuyên toán tỉnh, có giải miền Bắc thời đó thì cũng lừng danh lắm. Học sinh đàn em lớp lớp sau này đều được thầy cô nhắc đến mê lị (he, xấu hổ quá…!). Vậy nên Ngân không chịu tôi thì còn chịu ai. Cứ tưởng “bở”, thôi thì ngỏ lời và cưới đại đi cho ông bà mừng rồi mình đi học thì cũng chả chết ai, tôi bèn liều lĩnh ngỏ lời... Nhưng ôi thôi, nàng rất buồn và cũng thản nhiên nói thẳng rằng ba mẹ nàng không đồng ý vì chàng là bên lương còn nàng là bên giáo…? Tôi cự lại, anh lấy em chứ đâu phải ba mẹ em mà lo, mà sao em biết ba mẹ không đồng ý ? Hóa ra, từ khi tôi xuất hiện trong nhà nàng, các camera đã theo sát và hiểu hết sự tình… Nhưng nguyên nhân sâu xa cũng không hẳn là vậy. Mãi sau này tôi mới biết, ba mẹ nàng đã ướm cho nàng một anh “đi tây” về có cái xe favorit bóng lộn, hoành tráng và giàu có lắm… Thôi thì con gái ham giàu thì cũng dễ thông cảm thôi (?!)
Lúc đầu thì tôi cũng rất buồn, nhưng về sau thì lại vui. Đấy nhá, con đã cố gắng rồi, đám được được, ưng thì người ta không chịu, lương giáo mà… Cha mẹ tôi cũng tiếc và thấy cũng không còn lý do gì nữa nên tạm “tha” và tôi may mắn vượt qua…
Kể lại chuyện này là để chia sẻ với Ái Ly mà thôi. Ngày ấy, nếu tôi mà giỏi làm thơ, nhất là viết được bài thơ “cúi lạy tình nhân” như của Ái Ly, biết đâu đến trước ba mẹ nàng đọc, ba mẹ nàng sẽ rơi lệ mà phê duyệt chăng ? Nhưng không đâu, ý thức hệ tư tưởng khi đã găm sâu vào trong đầu người ta thì khó mà thay đổi được lắm. Vì vậy, sau này đọc sách, hay nghe kể chuyện mà thấy đôi nào vượt qua được sóng gió của tôn giáo như thế này tôi phục lắm.
Ái Ly à, mà thôi cũng đừng buồn, đất còn rộng mà trời vẫn còn cao xanh lắm, cháu cứ tha hồ mà đi, mà bay nhảy, không nhẽ dưới vòm trời nước nam này lại hết con trai đủ tiêu chuẩn cho cháu kén sao ? Chú không tin ! Vì vậy, chú cứ muốn đọc chệch bài thơ của cháu như sau:
Lạy anh, một lạy đầu tiên
Yêu thương là để ta nghiền vì nhau
Hai lạy, mình đừng quên mau
Dặn lòng tất cả nỗi đau qua rồi
Đừng vì hờn giỗi chia phôi
Lạy anh ba lạy… mình thôi khóc nhè…
He, he, hãy vững vàng lên người bạn trẻ mến thương của tôi ! Mà chú cũng nói thật, nếu cả cái thành phố hoa lệ Sài Gòn mà “chết hết” đàn ông rồi thì cháu mau ra Hà Nội, chú sẽ cử ngay một đứa cháu bên ngoại, con bà chị cả, cháu cụ tổ ba đời họ Kiều nhà chú ra làm ứng cử viên ngay ! Ô hay, không tin sao, chú đã kể cho nó nghe về cháu hết rồi, nó khoái lắm. Nó bảo, tội chưa, bận học hành, phấn đấu tiến, lùi… các loại sĩ gì đó, bây giờ cũng giống như chú hồi mới đi bộ đội về ấy mà, “mót” lấy vợ lắm, ha, ha… Hôm nào ra Hà nội, nhớ alô cho chú nha !
Chúc cháu vui và cảm ơn về một bài thơ hay của cháu !
Còn đây là bài thơ chú viết tặng thằng em trai đã hy sinh, cháu hãy đọc để tạm quên đi chuyện tình “lương – giáo” đau buồn kia. Chắc cháu cũng còn lưu mấy tấm hình chụp hộ chú phải không ? Cảm ơn cháu thật nhiều !
BÀI THƠ VIẾT TẶNG EM NGÀY 30-4-2000
Tặng Thọ
Không thể cứ lặng im
Sau tháng năm trôi
Vết bỏng thời gian còn đầy dấu sẹo
Em ngã xuống đúng ngày độc lập.
Khi triệu triệu người hát khải hoàn ca ..
Chen giữa Sài Gòn đỏ rực cờ hoa
Anh tìm đến một toà soạn báo
Với bài thơ chia biệt xót xa
Mong được sẻ chia cùng em và đồng đội
Nhưng chiến thắng men say còn đó
Nên bài thơ ai đã vô tình
Ném vào quên lãng
Để anh và Em
Cùng khắc khoải đợi chờ
Từng ngày, từng phút
Bài thơ in viết đề tặng Em
Bài thơ xưa
Sẽ không bao giờ còn được lên khuôn
Như Em đã ra đi
Mãi không bao giờ trở lại
Nhưng anh vẫn rất tin , rất tin
Triệu triệu người sẽ thấy
Bóng Em vươn lên phía mặt trời
Khi Sài Gòn vừa thức dậy
Trong tiếng súng rền ba mươi tháng tư !
Em ơi,
Giây lát ấy ..
Bóng Em còn hơn cả một đài thơ !
Kiều Anh Hương
Mời các bạn ghé qua mục "Phê bình văn học" để đọc các bài bình thơ tặng bạn theo đường link:
http://diendan.thotre.com/index.php?showtopic=20719
Xin cảm ơn !
-
BÌNH THƠ TẶNG BẠN
TÓC NGẮN
Các cụ ta xưa thường nói: “Hàm răng, mái tóc là vóc con người…”… Mái tóc và khuôn mặt bao giờ cũng là điểm nhấn quan trọng khi nói về một người con gái đẹp !
Thời còn học cấp 3, ở xóm tôi sơ tán có một chị rất đẹp, tên là Hồng; Chị Hồng lớn hơn tôi chừng 2, 3 tuổi…; Chị có mái tóc đen nhánh và rất dài, dài ước chừng chạm gót chân; Bình thường chị luôn tết tóc hình đuôi sam và vấn gọn gàng lên đầu như một cô gái Nga. Nhưng đã có lần tôi nhìn thấy chị không tết tóc mà buông xuống cái lưng thon và rất đẹp, đẹp đến mê hồn… Chị là bí thư Đoàn xã nên tôi cũng hay được gặp chị mỗi khi có sự kiện trọng đại của Đoàn như phát động một phong trào thi đua yêu nước nào đó… Những khi như vậy tôi cứ như bị hút hồn bởi vẻ đẹp của chị.
Ngày ấy quê tôi còn chiến tranh, con gái hay mặc áo gụ (áo nhuộm củ nâu), đặc biệt đều mặc áo nịt ngực cứng chần bằng vải dầy và nhọn (corset) nên bộ ngực trông thật hấp dẫn… nhất là khi áo gụ bị sờn bạc ở 2 “cao điểm”… Chị Hồng cũng vậy, sao lúc nào tôi thấy chị cũng đẹp mê ly…
Nhưng quả thật, với cá nhân tôi, con gái để lại ấn tượng nhất vẫn là mái tóc…Vì vậy, trước đây, khi ra đường, hễ bắt gặp con gái cắt tóc ngắn là tôi rất “dị ứng”, nhất là còn cắt tém như con trai thì… vớ vẫn, tôi không thể chấp nhận được !
Vậy mà, “ghét của nào, trời trao của đó…”, ma xui thế nào mà tôi lại quen và thân với một cô gái có mái tóc cắt tém, thoạt nhìn thật lạnh và “đáo để” nữa, nhưng nhìn mãi thành quen và rồi thân nhau. Cô gái đó cũng có tên là Hồng, nhưng là Vân Hồng, một cô giáo nhỏ đang dạy học ở thành phố Hải Phòng; Cô giáo Vân Hồng rất yêu thơ và viết rất nhiều thơ... Hóa ra chỉ vì thơ ? Không ! Không hẳn vậy; Có thể chỉ vì một cái tên, cái tên đã gắn liền với những ký ức về mái tóc dài ngày nào của tôi ? Cũng không hẳn thế ! Vậy thì chắc chắn vì cả hai rồi - thơ và cái tên của người làm thơ ! Thật lòng mà nói thơ Vân Hồng rất hay, dẫu đượm buồn và hơi già... so với cái tuổi của nàng...
Thơ hay thì rõ rồi và cứ cái đà này nàng sẽ nhanh chóng trở thành cây bút chuyên nghiệp mất thôi. Tôi phải tìm và bình ngay một bài để tặng nàng, kẻo khi nàng trở thành nhà thơ chuyên nghiệp rồi thì cái tiêu chí chỉ "bình thơ không chuyên" của tôi lại hóa ra công cốc... Cũng may, vì nàng có khá nhiều bài thơ hay nên để tìm được một bài thơ ưa thích không khó và tôi đã tìm được bài thơ này của nàng trên mạng, ở ngay diễn đàn thơ trẻ đấy. Bài thơ có tựa đề “Tóc ngắn” và vì vậy tôi cũng mượn luôn để làm tựa đề cho bài viết này. Hãy nghe nàng lý giải vì sao mà mình phải cắt tóc ngắn nhé :
“Mái tóc thề ngày ấy xa anh
Em đã cắt chẳng thể dài được nữa
Em giận mình tin vu vơ lời hứa
Nên bỏ tóc thề để quên dấu yêu xưa”…
Hóa ra là vậy ! Nhiều câu chuyện dài li kỳ cũng thường xuất phát từ một chữ “yêu”, ngày xưa nàng cũng từng có mái tóc dài lắm chứ bộ:
“Nhiều đêm giật mình nhớ tóc xoã bờ vai
Nhớ bàn tay ai rụt rè thầm nhẹ vuốt
Tóc thề ngoan hiền chỉ còn là mộng ước
Liệu anh có còn thương tóc ngắn bơ vơ?”
Dĩ nhiên rồi khi mà điều quí giá nhất là mái tóc dài phải cắt bỏ đi thì ta cũng nhớ lắm, tiếc lắm chứ, nhất là khi bất chợt gặp người quen, người thân cũ thì cũng quả là bối rối:
“Trên đường đời dầu dãi nắng mưa
Chợt gặp nhau anh không còn nhớ nổi
Cô gái ngày xưa tóc thề bối rối
Giờ chẳng dịu dàng với tóc ngắn con trai…”
Biết và nhận thức được “Giờ chẳng dịu dàng với tóc ngắn con trai…” nghĩa là nàng vẫn còn nhiều lưu luyến với kỷ niệm xưa; Tiếc quá, nhưng từ xưa đến nay vẫn vậy, người con gái khi đã yêu thường quên mình và sẵn sàng dâng hiến tất cả; Một mái tóc chứ vài mái tóc có xá gì… Bởi đến “cái ngàn vàng” người ta cũng còn không tiếc nữa là, còn khi đã xác định thuộc về nhau rồi…thì có mà…Lạy trời, tình yêu thật vĩ đại và muôn năm !
Cả bài thơ có 4 khổ nhưng đã có tới 3 khổ nói về lý do tại sao nàng phải cắt tóc ngắn; Nhưng đến khổ thứ 4 thì ý tứ thật sự của khổ thơ mới được lộ ra:
“Tóc ngắn ngang tàng vẫn yêu những vần thơ
Vẫn khắc khoải trước những điều ngang trái”
Hai câu thơ này khiến tôi lại liên tưởng đến một “tiên đề” mà chính tôi là tác giả và đã được chí ít 90% chị em phụ nữ Việt Nam công nhận (hi, đừng nghĩ tôi bốc phét nhé ?) - Tiên đề đó phát biểu như sau: “Một trăm phần trăm chị em phụ nữ Việt Nam đều yêu thơ !”. Ơ, cái “tiên đề” gì mà nghe lạ hoắc thế này, ngộ quá cơ; nhưng các chàng trai đừng giàu trí “tưởng bở” nhé bởi vì tôi cũng dám chắc rằng “100% các chàng trai nếu tỏ tình bằng thơ thì cũng sẽ nhận được thất bại cả 100 lẻ một phần trăm đấy”. Lý do tại sao ư ? Thôi để một dịp khác tôi giải thích vậy, kẻo không lại bị lạc đề bây giờ !
Trở lại với 2 câu thơ trên, ta cũng dễ nhận thấy nàng đã rất đồng tình với “tiên đề” của tôi rồi còn gì ! Câu thơ như muốn nói: những người con gái dịu dàng thường rất yêu thơ; Vậy nên, dẫu tóc nàng có cắt ngắn, cắt tém đến đâu thì bản chất dịu dàng của người con gái trong nàng vẫn không thể mất… Thật tuyệt vời, tôi xin cảm ơn nàng đã ủng hộ cho cái tiên đề của tôi !?
Nhưng chưa hết, vượt lên tất cả, nàng vẫn là nàng, vẫn khẳng định được cái bản lĩnh rất con gái của mình sẽ không bao giờ đổi thay trước những biến cố của cuộc đời : Không đánh mất mình trước bao nhiêu thay đổi và luôn mong muốn tìm lại chính mình với một thái độ hết sức cầu thị và chân thành: Chỉ đánh mất tóc thề - xin tìm lại giùm em. Nên dù là vậy, nàng vẫn là nàng, em vẫn là em:
“Tóc ngắn bây giờ...
Tóc ngắn ấy là em !”
Tôi đã gặp nàng, à không, gặp em một chiều ở Hải Phòng, trong một quán cà phê nhỏ cạnh trường. Khó khăn lắm chúng tôi mới thu xếp được cuộc gặp mặt này; Đơn giản bởi vì nàng là một cô giáo vẫn “bận bịu cùng đàn em thơ” lắm và tôi là một doanh nghiệp cũng ngày đêm phải lo “cơm áo, gạo tiền” cho biết ao con người chứ đâu có nhiều thì giờ rỗi rãi mà đi tìm tóc ngắn… Nhưng vì yêu thơ nhau, cảm mến thơ của nhau nên chúng tôi đã gặp được nhau.
Hơi bất ngờ nhưng mọi cái trôi qua thật nhanh và chúng tôi đã như những người bạn lâu ngày gặp lại. Mái tóc của nàng bây giờ hình như đang xanh lại như tình yêu đang tái hợp trong một tâm hồn con gái thật dịu dàng và đáng yêu.
- Thưa cô, cô sẽ không phải bỏ tiết dạy chiều nay chứ ?
- Ồ không, nhưng anh quên rồi sao, bây giờ là tháng sáu, trò và cô chúng em đang nghỉ hè cơ mà !
Tôi thở phào nhẹ nhõm. Chí ít thì tôi cũng không làm cản trở đến công việc của một cô giáo; Cố giáo đó là Vân Hồng – một tác giả thơ trẻ của Hải Phòng. Các bạn có thể tìm về diễn đàn thơ trẻ (cứ vào Google mà gõ, thế nào cũng thấy) để đọc thơ của cô giáo có mái tóc cắt tém mà khiến tôi sau lần đó đã thật sự rung động mà viết rằng:
Em tóc tém, môi trầm
Dáng tân thời, áo da, híp hóp
Có lẽ nào quê mùa thơ tôi
Cũ kỹ ngàn xưa câu lục bát
Lại làm xốn xang trái tim…
(Trích trong bài thơ Tóc thề của KAH- đã in trong tập: Người đàn bà của tôi-NXB HNV 2010)
Thôi thì, bạn hãy đọc lại toàn bộ bài thơ để thấy chất dịu dàng trong người con gái có mái tóc cắt ngắn dễ thương như thế nào nhé. Xin một lời cảm nhận và phản hồi lại giùm tôi, hỡi các bạn mến thân !
Hải Phòng, ngày 3.8.2010
Kiều Anh Hương
Các bạn có thể đọc thêm các bài bình thơ khác trên Thơ trẻ tại địa chỉ :
http://diendan.thotre.com/index.php?showtopic=20719
Xin cảm ơn!
-
31. GỬI NẮNG
Em về bên ấy, mùa đông
Gió lạnh thổi xiên bông tuyết
Co ro, mỗi khi xuống phố
Tay chạm vào nhau, băng giá thấm vào tim...
Anh ở lại bên này, nắng hanh
Mùa đông nhởn nhơ cơn gió bấc
Se se nỗi nhớ người viễn xứ
Bến ấy đang lạnh lắm, phải không ?
Trái đất này những tưởng mênh mông
Hóa ra cũng nhỏ như quả táo...
Băng giá nào mà không lạnh
Để anh gửi cho em, chút nắng quê mình !
Hạt nắng mùa đông, dẫu có khiêm nhường
Nhưng cũng đủ sưởi ấm người trong mộng
Hãy nhớ anh và quê hương mình nhé
Mùa đông này, dẫu nắng có rụng vơi...
Chắc hẳn rằng cũng bởi vì em thôi !
Ngày 30.11.2009
Kiều Anh Hương
-
TIẾNG KHÓC ĐÊM
Tặng Dạ Hương và cô giáo Vân...
Đêm, như bao đêm
Xe tôi từ Tây bắc về,
Vượt dốc Cun đến Ba La Bông Đỏ
Liêu xiêu mấy quán nhỏ
Có một người đàn bà vẫn thường đợi tôi...
Đêm ấy mưa rơi
Quán cóc không mở cửa
Ngọn đèn dầu khêu nhỏ, rất buồn
Tôi chợt nghe tiếng khóc thầm
Tiếng khóc rất rõ...
Tiếng khóc thầm của người mẹ
Tiếng khóc gắt gao của con trẻ
Hình như tôi nghe cả tiếng ầu ơ...
Tôi lặng nhìn qua khe liếp mỏng
Trang giáo án đang khép hờ
Gió lật...
Đêm ấy tôi đành ngủ ngoài đường
Trong cabin oi nồng mùi xăng dầu hầm hập
Đợi sáng mai lên…
Vì sao em khóc ?!
Đêm ấy tôi không ngủ được
Hoang vắng thêm sâu, tiếng khóc
Tôi đành đường đột tìm vào
Giờ thì em đã thôi khóc
Đứa trẻ cũng thôi khóc
Ngọn đèn dầu vặn sáng lên...
Không hiểu nữa vì sao đêm
Dễ khiến người ta gần lại
Tôi cũng quên hết những điều cần hỏi
Chỉ ngồi ngắm nhìn em trắng đêm !
***
Kỷ niệm ấy đã trôi qua những ba chục năm
Bây giờ em làm tôi nhớ lại
Tiếng khóc đêm ở Ba La Bông Đỏ
Vẫn mãi neo trong lòng tôi !
Hà Nội, ngày 20.5.2010
"ĐÁNH MẤT CHIẾN TRƯỜNG"-Nhật ký thơ
In Trang thơ thành viên
Đăng vào · Report reply
ĐÁNH MẤT CHIẾN TRƯỜNG
Tôi vào chiến trường năm 1971, khi vừa tròn 18 tuổi; Cũng giống như bao chàng trai tuổi học trò cùng thế hệ, những cuốn sổ tay lưu bút bạn bè tặng ngày lên đường nhập ngũ đã được chúng tôi dùng để ghi tiếp những dòng nhật ký chiến trường hoặc làm thơ…
Cuốn sổ tay lưu bút của tôi chủ yếu là thơ, đúng hơn là nhật ký thơ. Với hơn 5 năm đằng đẵng ở chiến trường ác liệt, những ghi chép thơ của tôi quả thật là không hề ít và nó đã trở thành “kỷ vật” của riêng tôi và tôi hay gọi nôm na đó là tập thơ “chiến trường.”
Vậy mà “kỷ vật” ấy, “chiến trường” ấy của tôi bỗng dưng một ngày đã biến mất. Thật tình mà nói thì tôi cũng không hề biết rằng là nó đã “mất”, nếu như vào năm 1999, khi tôi gặp lại nhà thơ Phạm Tiến Duật – một người anh, một nhà thơ lớn của Trường Sơn và được anh đề nghị cho xem lại những bài thơ tôi đã viết về lính, về Trường Sơn năm nào…
Anh Phạm Tiến Duật biết tôi làm thơ từ hồi còn ở Trường Sơn (vì đã đôi lần được đăng báo) nên khi gặp lại, câu đầu tiên anh hỏi là :
- Cậu còn làm thơ không ?
- Dạ có !
- Vậy là rất tốt, em có thể gửi cho anh đọc được không ? Đặc biệt là những bài thơ viết về Trường Sơn, về chiến trường…
Tất nhiên là tôi rất vui và nhận lời ngay. Nhưng khi về tới nhà mới “tá hỏa tam tinh” lục lọi, tìm kiếm mà vẫn không thấy tập thơ “chiến trường”. Tôi cố nhớ lại, mình đã cất dấu nó ở đâu, để quên nó ở đâu hay đã cho bạn bè nào mượn đọc… Nhưng tuyệt nhiên tôi không thể nhớ nổi. Tôi rất buồn, vậy là chính tôi đã đánh mất nó. Ôi, chiến trường của tôi, kỷ niệm của tôi lại đã bị chính tôi đánh mất ! Thế là vĩnh viễn…vì chẳng bao giờ tôi có thể gửi được đầy đủ tập thơ chiến trường mà anh Duật muốn đọc bởi vì sau đó, vào ngày 4.12.2007 anh đã ra đi vĩnh viễn ra tại Hà Nội !
Tuy vậy, cũng còn may, tôi vẫn còn nhớ được một số bài trong tập thơ cũ như bài “Ở rừng”, “Tà Lương”, “Cái hầm trên đèo”, “Ngày hẹn cưới”, “Cái niêu đất”, hay “Suy tư Trường Sơn”… và năm 2000 tôi đành chép lại cùng với với ba bốn chục bài thơ mới viết khi còn sinh hoạt trong nhóm thơ “Vòm cửa xanh” của sinh viên trường đại học Bách khoa Hà Nội để kịp gửi anh như lời hẹn. Đâu ngờ đó là kỷ niệm cuối cùng tôi có với anh về thơ.
Ba tháng sau khi đọc tập bản thảo tôi gửi, anh Phạm Tiến Duật đã gọi điện mời tôi đến tòa soạn tạp chí “Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam” tại 51 Trần Hưng Đạo Hà Nội. Anh mở chai rượu tây ra để hai anh em cùng uống và hàn huyên đủ chuyện, khá lâu. Sau cùng anh lấy trên kệ sách và đưa trả lại tôi tập bản thảo rồi nói:
- Em mang về và gửi in đi, đừng để mãi trong ngăn kéo, phí lắm, anh đã viết lời giới thiệu cho em rồi đấy !
Tôi vô cùng sung sướng khi đọc bài giới thiệu rất hay của anh cho tập thơ với tựa đề bài viết “Thêm một nhà thơ chiến sĩ”. Hóa ra, dưới con mắt của anh, tôi đã là “một nhà thơ chiến sĩ” rồi đấy. Tôi như đang bay lơ lửng trên ngàn mây…
(Xem bài viết của anh Duật tại đây: http://blog.yahoo.com/KAHKDK/articles/6759...2N+H%E1%BB%8CC).
Rồi thực hiện sự chỉ bảo của anh, lần đầu tiên trong đời tôi mạnh dạn gửi tập bản thảo thơ đến nhà xuất bản Hội Nhà Văn để in. Khi đó nhà xuất bản cũng đọc kỹ lắm, có biên tập lại và loại bỏ đi một số bài, nhưng về cơ bản tập thơ mà anh Duật đã đọc vẫn giữ được 50 bài. Đó là tập thơ in đầu tay của tôi với tên gọi “Nhớ lại tuổi hai mươi” ấn hành năm 2000.
Nhưng hình như trời thương tôi hay tại linh hồn anh Duật thương tôi hay sao ấy mà vào đúng ngày làm tang lễ cho anh xong tôi đã tìm lại được tập thơ cũ của tôi. Hôm đó, sau khi tiễn anh về nơi yên nghỉ vĩnh hằng, về nhà tôi buồn lắm và đang thẫn thờ nhớ lại những kỷ niệm về anh thì tôi bỗng nhiên nhận được một cú điện thoại của người thân. Hóa ra tập thơ “chiến trường” của tôi không hề bị mất mà chỉ bị thất lạc, nhưng một sự thất lạc dài kinh khủng tới tận 10 năm !
Năm ấy, chị ruột tôi ở khu tập thể bờ sông (Quận Hoàn Kiếm) thuộc diện được giải tỏa, đền bù nên đã chuyển lên khu nhà mới ở chung cư tận Xuân La, Xuân Đỉnh (Quận Tây Hồ) và thật bất ngờ, trong khi xắp xếp lại đồ đạc chị đã phát hiện ra tập thơ cũ của tôi. Khỏi phải nói tôi đã sung sướng như thế nào. Ôi, giá chi anh Duật vẫn còn sống và dứt khoát tôi sẽ gửi lại ngay cho anh để anh được đọc đầy đủ tập bản thảo này như ý nguyện… và chắc chắn những tình cảm anh giành cho tập thơ “chiến trường” của tôi sẽ còn sâu sắc hơn, thú vị hơn…
Anh Duật ơi ! Có phải anh thực sự rất linh thiêng không mà đã chọn đúng ngày, đúng giờ ấy cho em tìm lại được tập thơ, cho em tìm lại được tuổi hai mươi của chính mình ? Thực sự thương nhớ anh quá anh Duật ơi !
Ở một khía cạnh khác, “đánh mất chiến trường” cũng có thể hiểu đúng theo nghĩa đen của nó bởi vì trước đó, vào năm 2005, nhân dịp kỷ niệm 30 giải phóng miền Nam, trong một dịp đi công tác về Trị Thiên Huế, tôi và một số đồng đội cũ đã có dịp tìm về chiến trường xưa.
Ngược đường 72 rồi nhập vào đại lộ Hồ Chí Minh ở A lưới, A Sầu, chúng tôi đã thực sự được sống lại với bao kỷ niệm xưa. Nhưng cũng từ đợt về nguồn ấy, chúng tôi càng thêm buồn vì khi chúng tôi đi tìm lại mộ của Tân (xem bài thơ "Tân ơi"), người bạn, người đồng đội cũ của chúng tôi và giật mình chợt nhận ra rằng, chiến trường xưa nơi đây, Trường Sơn xưa nơi đây hình như cũng đã bị “đánh mất” thực sự rồi. Còn đâu nữa những cánh rừng đại ngàn, còn đâu nữa những dấu tích chiến trường… Rừng đã bị tàn phá ! Ở tận nơi biên ải, nơi giáp với nước bạn Lào, trước đây chúng tôi từng trú quân với những cánh rừng thông bạt ngàn, trong đó có rất nhiều những gốc thông già ba bốn người ôm không xuể; Vậy mà giờ đây nó cũng đã bị tàn phá không thương tiếc. Đến cả gốc thông cũng bị đánh lên, tận diệt… Vậy thì làm sao chúng tôi có thể tìm thấy dấu tích xưa, làm sao còn lại những dấu mốc để tìm về với mộ bạn tôi khi xưa ?
Người ta đã thống kê được rằng, với ba mươi năm chiến tranh chống Mỹ, kẻ thù đã hạ sát không thương tiếc những cánh rừng đại ngàn Trường Sơn, kể cả dùng bom B52, bom napan hay chất độc màu da cam để xát phạt, để biến Trường Sơn thành những cánh rừng chết, trơ trọi như những cánh rừng chông. Diện tích do bam đạn Mỹ hủy diệt được ước tính không nhỏ hơn 2 triệu hecta rừng tự nhiên (chiếm gần 1/3 diện tích rừng tự nhiên của Trường Sơn);
Nhưng điều đáng nói ở đây là, với ba mươi năm sau giải phóng, số rừng nguyên sinh bị chính chúng ta tàn phá cũng không hề thua kém ! Nhìn Trường Sơn khô khốc tàn tạ, nhất là những điểm ngày xưa quân ta đã đồn trú, lòng tôi như thắt lại.
Nhưng đã có một ngày
Chúng tôi về lại chiến trường
Đắc Nông, Đắc Tô, A Sầu, A Lưới…
Bỗng nhói đau khi những cánh rừng trơ trụi,
Gốc thông già xưa cũng không còn ?
Mộ bạn giờ này, biết tìm nơi đâu ?
(Đánh mất chiến trường)
Trường Sơn, Trường Sơn !… Nếu không còn rừng đại ngàn thì liệu hình hài của Trường Sơn có còn không ? Bởi một lẽ:
Cao hơn đất là núi
Cao hơn núi là cây rừng
Cao hơn cây rừng là mây trắng
Mây trăng bồng bềnh…
Kết liền dải Trường Sơn !
Vì vậy, “đánh mất chiến trường” có thể hiểu đúng theo nghĩa đen thì cũng quả là không sai. Vậy ai đã đánh mất rừng đại ngàn của tôi ? Ai đã đánh mất Trường Sơn của tôi ? Xin thưa, chính chúng ta !
Trường Sơn mất, dấu tích về chiến trường xưa sẽ mất và kỷ niệm một thời sẽ mãi mãi không thể nào tìm lại được ! Bạn ơi, giờ này nắm xương tàn của bạn đang lưu lạc tận đâu hay những cơn lũ đại ngàn đã cuốn trôi về tận bãi bồi nơi cuối sông, đầu biển ?
Mùa lũ qua rồi, ở cuối con sông
Phía bãi bồi có vong hồn người lính
Nắng rát đầu non đã tìm về với biển
Để hát lại bài ca
Chiến trường !
Vậy xin được trân trọng giới thiệu cùng bè bạn yêu thơ !
Hà Nội, tháng 3 năm 2012
Kiều Anh Hương
P/S: Do thời gian có hạn nên KAH không thể một lúc post lên nhiều diễn đàn. Vì vậy nếu bạn nào quan tâm đên chủ đề này và các bài thơ trong tập hãy truy cập vào blog.yahoo của KAH để đọc nhé. Đường link đây:
http://blog.yahoo.com/KAHKDK/articles
Xin cảm ơn !