Jump to content

December

Thành viên
  • Số bài viết

    147
  • Gia nhập

  • Đăng nhập

Bài viết được đăng bởi December


  1. 4. Hồi 1 - Chốn Phồn Hoa Bạo Khách Lần Vào

     

    Từ đời xưa , thành Dương Châu đã nổi tiếng là một nơi phồn hoa đô hội . Người ta đã có câu :

     

    Lưng đeo mười vạn quan tiền . Phen này quyết cưỡi hạc lên miền Dương Châu .

     

    Sau khi Tùy Dạng Ðế khơi sông Vận Hà , muốn đi miền Biện , Triết đều do đường thủy đạo này . Thành Dương Châu ở khoảng giữa sông Vận Hà nên càng náo nhiệt .

     

    Ðời Minh, Thanh , nơi đây qui tụ những nhà buôn bán lớn và trở thành một thị trấn phồn thịnh vào bậc nhất thiên hạ .

     

    Về triều Khang Hy nhà Mãn Thanh , phường Minh Ngọc trên bờ Tây Hồ đất Dương Châu còn là nơi tụ hội những danh kỹ lầu xanh .

     

    Một hôm gặp tiết cuối xuân , đèn còn thắp sáng tỏ , những tiếng đờn , sáo , tiếng cười đùa , xen lẫn những tiếng sai quyền hành lệnh , cùng tiếng hát hãm rượu nổi lên tưng bừng náo nhiệt trong ngỏ tại phường Minh Ngọc . Thật là chốn âu ca , trong cảnh tượng thanh bình .

     

    Ðột nhiên năm , sáu người lớn tiếng quát từ phía Nam và mé Bắc phường Minh Ngọc vọng vào :

     

    -Những quân đê tiện , chó chết, cùng phường làng chơi kỹ nữ hãy nghe đây : Bọn ta đến đây tra xét một tên can phạm , không quan hệ gì đến người ngoài . Vậy ai nấy im miệng , không được la ó om xòm hoặc làm nhốn nháo . Kẻ nào không tuân lịnh hãy giử vững cái đầu .

     

    Sau tiếng quát phường Minh Ngọc lập tức im lặng . Nhưng chỉ trong khoãnh khắc , tiếng đàn bà con gái la hoảng xen lẫn tiếng đàn ông dức lát náo loạn cả lên .

     

    Trong viện Lệ Xuân , phường Minh Ngọc đang bày yến tiệc . Mười tay đại điếm thương ngồi ở ba bàn . Mỗi người cặp kè một ả kỹ nữ .

     

    Vừa nghe tiếng quát , ai nấy sắc mặt tái mét, xôn xao hỏi :

     

    -Chuyện chi vậy ?

     

    -Phải chăng quan phủ đến tra án ?

     

    Ðột nhiên có tiếng đập cửa ầm ầm như trống thúc . Bọn nô tỳ sợ hãi cuống quít , chẳng hiễu có nên mở cửa hay không ?

     

    Tiếp theo nghe đánh “sầm” một tiếng , cỗng lớn đã bị đạp mở toang ra . Mười bãy, mười tám tên đại hán ùa vào . Tên nào cũng nai nịt gọn gàng , đầu bịt vải trắng , lưng thắt đai xanh . Tay chúng đều cầm binh khí , hoặc cương đao , hoặc thiết xích , hoặc thiết côn sáng loáng .

     

    Bọn điếm thương vừa thấy những đại hán này , đã nhận ra ngay là những tay anh chị trong nghề buôn hàng lậu thuế .

     

    Nên biết thời bấy giờ , buôn bán phải chịu thuế má rất nặng . Người nào chạy hàng lậu trốn thuế liền được một dịp phát tài lớn .

     

    Thành Dưong Châu là nơi chứa hàng để tản đi các mặt trong miền Giang Bắc . Nhưng đây cũng là nơi tụ tập của phường Vong Mạng . Chúng kết thành đoàn để hành nghề . Bọn này rất hung hăng . Khi gặp đại đội quan quân chúng liền chạy tán loạn . Còn tiểu đội quan binh mà ra giọng phách lối là chúng rút binh khí để chống cự ngay . Quan địa phương cũng làm ngơ không muốn can thiệp vào .

     

    Bọn điếm thương chỉ biết những tay anh chị này là phường buôn lậu , chẳng bao giờ cướp đoạt khách thương hay gây chuyện rắc rối . Bửa nay bỗng chúng sấn vào phường Minh Ngọc làm cho họ phải hoang mang kinh hãi .

     

    Một lão cở ngoài năm mươi tuổi lớn tiếng ra lệnh :

     

    -Những người trong nhà dều phải ra ngoài hết và đứng yên không được nhúc nhích . Bọn điếm thương cùng kỹ nữ thấy chúng dữ dội như hung thần liền khiếp sợ cuống quít , đều đứng cả lên không ai dám trái lệnh.

     

    Mấy cô kỹ nữ nhát gan sợ quá khóc òa lên .

     

    Lão già lại quát :

     

    -Cả những khách chơi cùng kỹ nữ tại các phòng khác cũng phải ra ngoài cho hết , không ai được ở lại trong phòng .

     

    Tiếng quát chấn động của lão khiến mọi người phải ù tai .

     

    Bọn thủ hạ của lão chạy đi lùng khắp hết các phòng . Hễ khách làng chơi hay kỹ nữ chậm chân một chút chưa chạy ra kịp đều bị đá đít hoặc bị bạt tai . Một số làng chơi cùng kỹ nữ chưa kịp vận quần áo tề chỉnh , trông lôi thôi lếch thếch rất buồn cười .

     

    Lão già lại quát hỏi :

     

    -Bọn chúng đã ra hết chưa ?

     

    Một tên anh chị khác đáp :

     

    -Dạ dạ ! Mọi người đã ra hết cả rồi...

     

    Ðột nhiên trong căn phòng mé Ðông có người dõng dạc quát hỏi :

     

    -Tên nào ở đâu lớn mật dám tới đây la hét ngang tàng , quấy rối cuộc mua vui của lão gia ! Muốn chết thì vào đây !

     

    Bọn anh chị tức giận lớn tiếng thóa mạ :

     

    -Con bà nó ! Tên cẩu tặc nào mà dám cả gan đến thế ?

     

    Lập tức ba đại hán cầm cương đao sừng sực chạy tới căn phòng mé Ðông . Tiếp theo những tiếng la , tiếng rú vang lên...Ba đại hán kia bị hất bắn ngược trở ra ngã lăn xuống đất .

     

    Một tên đại hán bị cương đao đập vào trán , toé máu rồi ngất xĩu .

     

    Những tên anh chị này đều là người hung hãn không sợ chết . Sáu tên nữa liền vọt tới căn phòng kia .

     

    Lại mấy tiếng la inh ỏi nổi lên . Cả sáu tên đều bị đá ngã lăn xuống không đứng dậy được . Nhưng chúng chỉ lên tiếng thóa mạ chớ không ai dám xông tới căn phòng kia nữa .

     

    Lão già không nhịn được , tay chắp sau lưng dõng dạc lên tiếng :

     

    -Các hạ quả là bản lãnh cao thâm . Xin cho hay tôn tính đại danh .

     

    Người trong phòng nghe lão già hỏi vậy chẳng những không trả lời còn cất tiếng thóa mạ :

     

    Gia gia ngươi họ gì là ta ở họ ấy . Tên tiểu tử kia ngươi quên cả họ tên của ông nội ngươi rồi ư ?

     

    Một ả kỹ nữ vào trạc ba mươi tuổi đứng gần đó nghe người trong phòng nói vậy , bất giác nổi lên tràng cười khanh khách .

     

    Một hán tử ở phe bán đồ lậu nhảy xổ tới tát thị hai cái khiến cặp mắt thị nhảy đom đóm , trào cả nước mắt nước mũi ra .

     

    Ðại hán vừa tát vừa quát mắng :

     

    -Mẹ kiếp ! con đĩ thối tha này ! Ngươi cười gì vậy ?

     

    Ả kỹ nữ sợ quá không dám nói nữa .

     

    Ðột nhiên từ trong nhà đại điện bên cạnh , một thằng nhỏ cở 12,13 tuổi lớn tiếng thóa mạ :

     

    -Quân đê tiện ! Phường khốn kiếp ! vì lẽ gì ngươi đánh má má ta tàn nhẫn như vậy ? Ngươi ra khỏi nhà này là bị sét đánh cháy tay và lưỡi . Ngươi nuốt máu vào làm cho ruột gan tan nát .

     

    Gã tiễu tử tuy còn nhỏ tuổi mà nỏ mồm thóa mạ không tiếc lời . Miệng gã thốt ra một tràng dài không biết bao nhiêu là câu ác độc .

     

    Gã đại hán tức giận vô cùng , vươn tay ra bắt thằng nhỏ .

     

    Thằng nhỏ này chuyễn động thân hình rất mau lẹ . Bóng người vừa lấp loáng gã đã đến đứng ẩn sau lưng một tên điếm thương .

     

    Ðại hán phóng tay đẩy gã điếm thương té xuống . Tay mặt gã vung quyền nhắm đánh vào sau lưng thằng nhỏ một đòn thật nặng .

     

    Ả kỹ nữ đứng tuổi thấy vậy la hoảng :

     

    -Xin đại gia tha mạng cho gã .

     

    Mụ biết rằng thoi quyền đại hán mà đánh trúng lưng thằng nhỏ tất thằng nhỏ sẽ bị thương .

     

    Không ngờ thằng nhỏ này lẫn tránh rất mau lẹ .Gã lún người xuống chui luồn qua háng gã đại hán. Ðồng thời gã vương tay bóp lấy âm nang hắn mà bóp thật mạnh .

     

    Ðại hán bị đau thét lên "ầm ầm" .

     

    Ðại hán thấy thằng nhỏ vừa tránh khỏi vừa bóp âm nang làm cho mình đau đớn thì tức giận vô cùng ! Không nơi tiết hận , hắn vung quyền đấm vào mặt ả kỹ nữ đứng tuổi đánh "bốp" một cái .

     

    Thoi quyền giáng xuống mạnh quá trúng mặt ả kỹ nữ khiến thị phun máu tươi ra rồi ngất xĩu té xuống .

     

    Thằng nhỏ thấy mẹ bị thương nặng , quên cả sợ hãi . Gã liều mình nhãy tới bên mẫu thân lớn tiếng vừa la vừa gọi :

     

    -Trời ơi ! Má má !

     

    Ðại hán vẫn chưa nguôi giận túm lấy sau gáy thằng nhỏ nhất bỗng lên , toan vung quyền đánh gã , thì lão già bỗng quát lên :

     

    -Ðừng rắc rối nữa ! Buông gã ra đi !

     

    Ðại hán không dám trái lịnh lão già liền đặt thằng nhỏ xuống , nhưng hắn cũng phóng cước đá đít thằng nhỏ một cái thật mạnh khiến người gã lăn lóc , rồi đập vào tường đánh "binh" một tiếng .

     

    Lão già ngó đại hán ra chiều tức giận . Ðoạn gã quay mặt về phía cửa phòng dõng dạc giải thích :

     

    -Bọn tại hạ là đệ tử ở Thanh Bang đi truy tầm một tên đồ đệ phản nghịch . Bọn tại hạ được tin tên đó ẩn mình ở trong phường Minh Ngọc này vì thế mới tới đây tầm nả . Tệ bang cùng các hạ vốn không quen biết lại không thù oán , cớ sao các hạ làm khó dễ với tại hạ . Người ta có câu : Nước sông không vi phạm nước giếng . Vậy mà các hạ thốt ra các lời vô lễ một cách phi lý , xin các hạ cho biết tên tuổi để khi tệ bang chúa tra hỏi mà biết đường phúc đáp .

     

    Người trong phòng cười nói :

     

    -Các ngươi truy nả đồ đệ phản nghịch thì mặc kệ các ngươi chứ có liên can gì đến ta ? Ta đang hành lạc ở trong này , các ngươi đã biết nước sông không phạm tới nước giếng thì đừng quấy nhiễu để ta khỏi cụt hứng .

     

    -Lão già tức giận nói :

     

    -Trên chốn giang hồ tại hạ chưa thấy ai vô lý như các hạ .

     

    Người trong phòng lạnh lùng đáp :

     

    -Ta vô lý cũng chẳng liên can gì tới ngươi . Chẳng lẽ ngươi có bà chị chưa chồng muốn với ta làm rễ để kêu bằng thư phu ?

     

    Giữa lúc ấy có ba người từ phía cửa ngoài len lén đi vào . Coi cách ăn mặc của chúng cũng giống phường buôn lậu . Một tên thân thể to lớn , còn hai tên gầy khẳng gầy kheo . Nhưng cả ba đều lộ vẽ dũng mãnh .

     

    Một gã gầy nhom tay cầm liễn tử thương khẽ hỏi :

     

    -Lai lịch thằng cha này thế nào ?

     

    Lão già lắc đầu đáp :

     

    -Ta đã hỏi họ tên nhưng hắn không chịu nói . Không chừng gã họ Thôi trốn tránh trong phòng hắn cũng nên .

     

    Hán tử gầy nhom vung cây liễn tử thương một cái. lão già cũng rút cặp đoản kiếm dài chừng hơn thước ở sau lưng ra .

     

    Ðột nhiên cả bốn người nhất tề xông vào phòng .

     

    Tiếp theo là những tiếng khí giới chạm nhau vang lên . Trong phòng đã diển ra một cuộc chiến đấu ác liệt .

     

    Hán tử thân hình cao lớn dùng cây trúc tiết cương tiên làm binh khí . Mỗi khi hắn vung cây tiên rắc rắc là đồ vật trong phòng bị đập vở tan tành .

     

    Lệ Xuân viện là một trong bốn đại viện tại phường Minh Ngọc .

     

    Những đồ đạc treo trong mỗi phòng ở viện này đều được chế tạo một cách rất tinh vi . Bàn bằng gổ lê, giường bằng gổ màu hồng .

     

    Những tiếng choang choảng tiếp tục vang lên không ngớt .

     

    Lão già béo ỵ mặt đầy những thịt run bần bật . Miệng lão niệm Phật tựa hồ trong lòng đau xót .

     

    Bốn tên hán tử quát tháo om xòm . Còn người khách ở trong phòng vẫn lẳng lặng không nói nữa lời .

     

    Những người ở ngoài sãnh đường cũng đều đứng tận đàng xa mà ngó lại , họ không dám tới gần vì sợ vạ lây .

     

    Tiếng binh khí chạm nhau choang choảng mỗi lúc một ác liệt hơn .

     

    Ðột nhiên có người rú lên thê thãm .

     

    Ðó là tiếng rú của một tên đầu mục bọn buôn lậu bị thương .

     

    Tiếng khí giới đụng nhau chát chúa pha lẫn với tiếng ho hắn liên thanh . Hiển nhiên người trong phòng đã thở hồng hộc tựa hồ không chống nổi .

     

    Bọn buôn lậu ngoài sãnh đường nghe tiếng người trong phòng nổi cơn ho thì đoán là bên mình đã chiếm được thượng phong, đều lộ vẽ vui mừng .

     

    Ðại hán kia tuy đánh ả kỹ nữ té xĩu , nhưng âm nang hắn bị thằng nhỏ bóp mạnh hãy còn đau đớn vô cùng .

     

    Hắn thấy thằng nhỏ ở bên tường đang lồm cồm bò dậy thì khí tức lại nổi lên , liền vung quyền nhãy xổ lại đánh gã .

     

    Thằng nhỏ né mình tránh khỏi , thoi quyền đánh không trúng .

     

    Ðại hán liền xoay tay tát thằng nhỏ một cái lộn đi mấy vòng .

     

    Bọn gia nhân và điếm thương thấy đại hán hung tàn như vậy , nếu hắn còn đánh nữa thì thằng nhỏ tất bị uổng mạng nhưng không ai dám khuyên can .

     

    Ðại hán lại vung quyền đánh xuống đầu gã .


  2. Lã Lưu Lương nói :

     

    -Ngoại trừ ba người chúng ta đây , vụ này quyết không thể hở môi . Dù chúng ta có gặp Tra Y Hoàng tiên sinh cũng không nên nhắc đến tên hiệu của Ngô tướng quân ở Quảng Ðông .

     

    Huỳnh Tôn Hy nói :

     

    -Vậy là phải lắm ! Y Hoàng tiên sinh cùng Ngô tướng quân đã có mối liên hệ như vậy mà hiện nay các vị đại thần trong triều lại đang đối đãi với Ngô tướng quân rất ân cần . Ngô tướng quân chịu xuất tịch sở tấu bênh vực Y Hoàng tiên sinh , tất triều đình cũng phải nể mặt .

     

    Lã Lưu Lương nói :

     

    -Huỳnh huynh nói phải lắm ! Có điều còn hai người kia là Lục Kỳ và Phạm Tương tại sao cũng ở vào trường hợp như Y Hoàng tiên sinh được miễn tội và đình cứu ? Hay là hai người đó cũng có thế lực gì ở trong triều bênh vực cho ?

     

    Huỳnh Tôn Hy đáp :

     

    -Ngô tướng quân đã dùng sớ bênh vực Y Hoàng tiên sinh mà chỉ nói tới một người e rằng triều đình sinh nghi , nên kèm luôn hai người kia vào thêm cho có lẽ công bằng , cũng chưa biết chừng .

     

    Lã Lưu Lương cười nói :

     

    -Nếu vậy thì lúc này muốn điều tra lại tính mạng của hai vị Lục và Phạm cũng rất khó lòng .

     

    Cố Viêm Võ gật đầu đáp :

     

    -Những danh sĩ ở Giang Nam bảo toàn thêm được vị nào tức là giử thêm được phần nguyên khí .

     

    Câu chuyện giữa ba người là việc bí mật . Lúc này thuyền đang ở khúc sông Vận Hà , trong khoang sau chỉ có ba mẹ con họ Lữ . Huỳnh Tôn Hy lại hạ thấp giọng nói rất khẽ , tưởng không còn ai nghe được . trong thuyền không có tường vách , vậy còn sợ gì câu tai vách mạch rừng ?

     

    Không ngờ Cố Viêm Võ vừa ngớt lời , bất thình lình trên đầu có tiếng cười the thé nổi lên !

     

    Ba người giật mình kinh hãi , đồng thanh quát hỏi :

     

    -Ai đó ?

     

    Nhưng không thấy phản ứng gì đáp lại .

     

    Ba người ngơ ngác nhìn nhau . Ai cũng tự hỏi :

     

    -Chẳng lẽ có ma quái thật chăng ?

     

    Cả ba người nghe rõ tràng cười the thé hiển nhiên từ trên đầu phát ra . Trong ba người này , Cố Viêm Võ lớn mật hơn hết . Lão có học qua đôi chút võ công tự vệ .

     

    Cố Viêm Võ vừa coi chừng vừa cho tay vào bọc móc lấy lưởi dao trủy thủ . Lão mở cửa khoang bước ra đầu thuyền chú ý nhìn lên mui thì đột nhiên một bóng đen nhoai mình vọt tới .

     

    Cố Viêm Võ quát hỏi :

     

    -Ai ?

     

    Ðồng thời vung đao trủy thủ đâm vào bóng đen . Bổng lão cảm thấy cổ tay đau nhói dường như bị một cái khâu sắt xiết chặc . Kế đó sau lưng cũng tê chồn . Lão bị đối phương điểm trúng huyệt đạo . Lưởi đao trủy thủ rời khỏi tay . Người lão cũng bị đẩy vào trong khoang thuyền .

     

    Huỳnh Tôn Hy cùng Lã Lưu lương thấy Cố Viêm Võ bị người đẩy ngược trở vào và sau lưng lão có một hán tử áo đen đứng sừng sững .

     

    Người này thân thể cao lớn , khoé miệng nở nụ cười đanh ác . Tuy gã không cầm khí giới , nhưng tay to chân dài . Hiển nhiên là con người có bản lãnh .

     

    Lã Lưu lương hỏi :

     

    -Các hạ sấn vào đây trong lúc đêm khuya là có dụng ý gì ?

     

    Ðại hán cười lạt đáp :

     

    -Còn dụng ý gì nữa ! Ba người các ngươi khiến cho lão gia thành quan to , phát tài lớn rồi ! Ngô Lục kỳ làm phản , Tra Y Hoàng cũng muốn làm phản . Ngao Thiếu Bảo mà được tin mật báo này tất nhiên là ta có được trọng thưởng . Ha ha ! Ba vị hãy theo ta lên Bắc Kinh sẽ rõ .

     

    Lã , Cố , Huỳnh ba người ngấm ngầm kinh hãi , bụng bảo dạ :

     

    -Bọn mình nói chuyện riêng với nhau giữa lúc canh khuya ở trong thuyền làm lụy đến Ngô tướng quân là hư việc lớn .

     

    Lã Lưu Lương hỏi :

     

    -Các hạ nói gì vậy ? Bọn tại hạ chẳng hiễu chi hết . Các hạ muốn vu hãm người ngay thì cứ việc mà làm . Còn định bắt quàn vào người ngoài là không được đâu .

     

    Lão đã quyết định chủ ý chờ lúc đại hán không kịp đề phòng thì liều chết với gã , hay ít ra bị gã giết đi thì cũng không còn ai đâu mà đối chứng .

     

    Ðại hán cười khẩy một tiếng rồi đột nhiên nhảy xổ tới , vung chỉ nhanh đìểm vào trước ngực Lã Lưu Lương và Huỳnh Tôn Hy .

     

    Lã , Huỳnh lập tức không nhúc nhích được nữa .

     

    Ðại hán ra chiều đắc ý cười ha hả , hô :

     

    -Các vị thị vệ ! Vào cả khoang thuyền đi ! Phen này chúng ta lập được công lớn rồi !

     

    Mấy người ở đáng sau lái đồng thanh dạ một tiếng , đoạn bốn tên tiến vào . Tên nào cũng ăn mặc theo kiểu nhà đò , nổi lên tràng cười khanh khách .

     

    Cố Viêm Võ , Huỳnh Tôn Hy , Lã lưu Lương ba người ngơ ngác nhìn nhau . Chẳng ai ngờ bọn này lại là thị vệ trong triều đã hóa trang để gạt mình . Chúng giả làm thuyền phu thì dĩ nhiên đã đứng bên ngoài nghe lõm hết .

     

    Huỳnh Tôn Hy và Lã Lưu Lương bị gạt đã đành , Nhưng Cố Viêm Võ trong mười mấy năm nay khắp cỏi Thần Châu chổ nào cũng có vết chân , đi tới đâu giao kết anh hùng hào kiệt tới đó . Nhãn quan lão luyện nào phải kém cỏi gì mà không nhìn ra mấy tên thuyền phu này ?

     

    Bỗng nghe một tên thị vệ hô :

     

    -Nhà đò ! Hãy quay thuyền trở lại Hàng Châu . Nếu xảy ra chuyện gì thì là tự ngươi đó . Hãy coi chừng cái mạng chó má của nhà ngươi !

     

    Một lão gia ở đằng lái đáp :

     

    -Xin vâng !

     

    Cố Viêm Võ nhớ lại , lão bẻ lái là một lão già cở sáu , bảy chục tuổi . Lúc mướn thuyền , Cố đã nói chuyện với lão này thấy lão mặt mũi dăn deo lại lưng gù . Ðúng lão là một lão già thành thực chất phát , nên không nghi ngờ gì nữa .

     

    Cố Viêm Võ nghĩ vậy liền trách :

     

    Ðáng trách mình chỉ cùng Huỳnh , Lữ cao đàm hùng biện , sơ ý để bị hãm vào vòng nguy hiễm mà không hay biết .

     

    Ðại hán áo đen hiển nhiên là thủ lãnh bọn này . Gã ngồi xuống sập thuyền . Bốn người kia đứng thõng tay , vẽ mặt rất cung kính .

     

    Ðại hán áo đen nói :

     

    -Chúng ta có đũ bằng chứng về Ngô Ðề Ðốc ở Quảng Ðông âm mưu tạo phản . Bây giờ phải kịp đi Hải Ninh bắt lão họ Tra . Ba tên phản tặc này dù quật cường đến đâu cũng chẳng thể trốn tránh được .Có điều phải đề phòng bọn chúng uống thuốc độc hoặc nhãy xuống sông tự vẫn . Vậy các vị mỗi người phải giử một tên . Nếu để xẩy ra chuyện bất trắc thì mối liên can không phải là nhỏ .

     

    Ba tên kia đáp :

     

    -Da ! Bọn tại hạ xin kính cẩn tuân lời căn dặn của Qua quản đới .

     

    Nguyên tên quản đới này họ Qua tên Giai , người Mãn Châu .

     

    Qua Giai lại nói :

     

    -Khi vào tới kinh ra mắt Ngao thiếu bảo , các vị chẳng lo gì không được thăng quan phát tài .

     

    Một tên thị vệ cười đáp :

     

    -Ðây toàn là công ơn của Qua quản đới tài bồi cho . Ba người trong bọn tại hạ làm gì đáng hưởng được phúc phận đó ?

     

    Qua Giai cười khành khạch chưa kịp trả lời thì đầu thuyền có tiếng cười hô hố rồi nói :

     

    -Cả bọn bốn người các ngươi đều không đáng hưởng phúc phận này .

     

    Qua Giai ngấm ngầm kinh hãi nghĩ thầm :

     

    -Thằng cha này xem chừng bãn lãnh rất là lợi hại ! Hắn lên tới đầu thuyền mà không phát ra một tiếng động nào .

     

    Soạt một tiếng ! Bốn tên thị vệ rút đơn đao ở sau lưng ra , đồng thời lảng tránh sang một bên đề phòng địch nhân liệng ám khí qua cửa khoang thuyền .

     

    Ỷ mình võ công cao cường , Qua Giai thường không đeo binh khí bên mình . Bây giờ đành bóc một miếng ván thuyền chuẩn bị cự địch .

     

    Bỗng nghe đánh "vù" một tiếng ! Hai cánh cửa khoang thuyền tung ra nhắm đập vào mặt hắn .

     

    Qua Giai bụng bảo dạ :

     

    -Hiển nhiên không phải là cường địch đã dùng tay liệng cánh cửa vào vì trước khi cánh cửa vọt ra không nghe tiếng gã đập cửa . Ðây là chưởng lực cách không hất bắn ra . Nếu vậy nội lực của đối phương thật là ghê gớm !

     

    Hắn liền vận kình lực vung tấm ván thuyền lên gạt hai cánh cửa rớt xuống .

     

    Bỗng thấy một chàng thư sinh xuất hiện ngay trước cửa khoang . Chàng chắp tay để sau lưng , nét mặt tươi cười . Thái độ rất ung dung .

     

    Qua Giai tuy gạt được cánh cửa khoang thuyền nhưng cánh tay mặt tê nhức vì bị đụng mạnh . Hắn lớn tiếng quát :

     

    -Các quan trong này đang tra án . Ngươi biết điều thì lánh cho xa .

     

    Người thư sinh cười hỏi :

     

    Bằng không biết điều thì sao ?

     

    Chàng vừa cất bước tiến vào khoang thuyền , bỗng thấy đao quang lấp loáng hai thanh đơn đao nhằm hai bên tả hữu chém tới .

     

    Bãn lỉnh của hai tên thị vệ này cũng không phải hạng kém cỏi . Hai chiêu đao của chúng vừa mau lẹ vừa mãnh liệt .

     

    Thư sinh lạng người đi sấn về phía Qua Giai . Chàng vung chưởng lên đánh xuống đỉnh đầu hắn .

     

    Qua Giai đưa tay trái lên gạt . Ðồng thời hắn vung quyền bên phải đánh ra thật mạnh .

     

    Chàng thư sinh vung chân trái đá ngược lại trúng vào trước ngực của một thị vệ .

     

    Tên thị vệ rú lên một tiếng , máu tươi phun ra òng ọc .

     

    Giữa lúc ấy mấy tên thị vệ kia đều vung đao lên vừa đâm vừa chém .

     

    Chàng thư sinh kia thấy địa thế trong khoang thuyền đã chật hẹp lại thêm ba lão Cố , Huỳnh , Lữ làm cho vướng víu chân tay , liền thi triển cầm nã công phu .

     

    Bỗng nghe đánh "cắc" một tiếng . Một thị vệ nữa lại bị chàng đánh gãy cổ .

     

    Qua Giai phóng chưởng đánh tới sau gáy thư sinh .

     

    Chàng thư sinh nghe tiếng gió để nhận định chiêu thức rồi xoay tay lại phóng chưởng . hai chưởng đụng nhau bật lên tiếng "binh" rùng rợn .

     

    Qua Giai bỗng thấy mắt tối sầm lại . Lưng hắn đập mạnh vào vách thuyền . Lập tức thuyền bị lủng một chổ .

     

    Chàng thư sinh sợ bọn Cố Viêm Võ bị thương vội tung hai tay đánh vào trước ngực hai tên thị vệ còn sống sót .

     

    Một tiếng "rắc rắc" vang lên ! hai gã bị gảy hết xương sườn .

     

    Chàng thư sinh quay mình lại thấy Qua Giai giơ tay trái liệng tấm ván xuống sông Vận hà , kế đó hắn vọt người chuồn ra qua

     

    chở thủng ra ngoài .

     

    Chàng thư sinh thấy Qua Giai muốn trốn liền quát lớn :

     

    -Chạy đâu cho thoát ?

     

    Ðồng thời chàng phóng chưởng đánh ra . Nhưng khi phát chưởng sắp trúng sau lưng Qua Giai không ngờ gã phóng cước đá ngược lại . Phát chưởng của chàng đập trúng gan bàn chân hắn . Chưởng lực bị hất tung lên .

     

    Qua Giai nhãy một cái xa mấy trượng . Hắn chịu chân trái vào miếng ván thuyền để mượn đà lao người về phía trước .

     

    Kể ra thế lao này , hắn cũng không nhãy lên tới bờ được . Nhưng may thay ! Bờ sông có một cây liễu cành rũ xuống nước . Qua Giai liền nắm lấy lộn người lên trên ngọn cậy vọt vào bờ .

     

    Chàng thư sinh thấy tình thế khó lòng đuổi kịp , không khỏi than thầm :

     

    -Hõng bét !

     

    Chàng vội lượm thanh đơn đao trong khoang thuyền nhắm liệng tới sau lưng Qua Giai , nhưng hắn đã chạy xa rồi . Thanh đơn đao bay vòng vèo rồi bên nặng bên nhẹ rơi xuống đất , cách sau lưng Qua Giai chừng hơn một trượng .

     

    Chàng thư sinh vội hô :

     

    -Nhà đò mau áp thuyền vào bờ !

     

    Chàng định bụng :

     

    -Dù hắn có chạy đến bên trời góc biển cũng phải đuổi tới cùng , giết cho bằng được tiểu tặc này đi để bịt miệng .

     

    Nhờ ánh trăng . bỗng chàng thấy rõ một bóng đen xì bay vọt đi như con trường xà , nhanh hơn điện chớp , bắn thẳng đến sau lưng Qua Giai .

     

    Bỗng nghe Qua Giai rú lên một tiếng khũng khiếp . Một bóng đen dài đã đâm trúng sau lưng cắm chặc người hắn xuống đất rồi bóng đen vẫn còn lung lay không ngớt .

     

    Chàng thư sinh kinh hãi vừa mừng thầm . Chàng chú ý nhìn lại thì thấy bóng đen đó chính là một cây sào trúc dùng để đẩy thuyền .

     

    Chàng thư sinh động tâm nhãy về đàng lái thì chỉ thấy một mình ông lão lái thuyền , ngoài ra chẳng còn người nào khác . Chàng thư sinh liền nhìn lão xá dài nói :

     

    -Ða tạ lão anh hùng ra tay viện trợ . Bằng không thì hõng việc lớn .

     

    Lão lái thuyền lim dim cặp mắt hỏi :

     

    -Khách quan ! Khách quan nói gì ? Lão không hiễu .

     

    Chàng thư sinh nhắc lại :

     

    -Ða tạ lão anh hùng vì lòng trượng nghĩa mà ra tay tương trợ .

     

    Lão lái thuyền hỏi :

     

    -Lão ưng ư ? Ðêm tối chim ưng không ra , trừ phi nó là con cú mèo .

     

    Chàng thư sinh tự hỏi :

     

    -Chẳng lẻ người liệng con sào vừa rồi không phải là lão ? Vậy , vị đại anh hùng vừa rồi ra tay viện trợ là người khác không muốn lộ diện nên đã ẩn thân lánh đi rồi chăng ?

     

    Chàng trở vào khoang thuyền giải khai huyệt đạo cho bọn Cố , Huỳnh , Lữ , rồi liệng xác chết bốn tên thị vệ xuống sông .

     

    Huỳnh Tôn Hy thắp đèn lên rồi hỏi họ tên chàng thư sinh thì chàng cười đáp :

     

    -Tiện danh vừa rồi được tiên sinh nhắc tới . Tại hạ họ Trần tên gọi Vĩnh Hoa .


  3. Tra Y Hoàng mượn chén cả gan đáp :

     

    -Giang sơn tuy đẹp nhưng đã đắm chìm vào tay di địch , đi coi càng tăng thêm nổi đau lòng .

     

    Ngô Lục Kỳ biến sắc nói :

     

    -Tiên sinh say mất rồi ! Bữa nay về nghĩ sớm một chút .

     

    Tra Y Hoàng nói :

     

    -Buổi gặp gở ngày đầu , vãn sinh đem lòng kính mộ đại nhân là người hào kiệt trong cơn gió bụi mà kết tình hữu nghị . Ai ngờ vãn sinh nhận lầm người .

     

    Ngô Lục Kỳ hỏi :

     

    -Sao lại nhận lầm người ?

     

    Tra Y Hoàng đáp :

     

    -Ðại nhân là tay bản lãnh phi thường đã không vì nước vì dân ra sức , còn giúp kẻ bạo tàn làm điều tàn ác , cam bề tôi mọi cho bọn Thát Ðát để chà đạp lên lương dân Ðại Hán . Ngày nay mà đại nhân còn nhơn nhơn đắc ý , không biết hổ thẹn . Tra mổ không khỏi hối hận là đã kết bạn với đại nhân .

     

    Y Hoàng nói rồi đứng phắt dậy .

     

    Ngô lục Kỳ vội nói :

     

    -Tiên sinh to tiếng để người ngoài nghe được là rước lấy vạ lớn !

     

    Tra Y Hoàng đáp :

     

    -Tướng quân nay nắm binh quyền toàn tĩnh Quảng Ðông . Chính là thời cơ tốt nhất để dựng cờ khởi nghĩa , Tướng quân chỉ hô lên một tiếng là bốn phương hưởng ứng . Dù đại sự không thành cũng khiến cho bọn Thát Ðát phải bở vía . Tướng quân có làm nên một thời oanh liệt mới khỏi phụ lòng trời đã ban cho thần dũng sức địch muôn người .

     

    Ngô Lục Kỳ rót rượu ra bát uống một hơi cạn sạch , nói :

     

    -Nghe tiên sinh nói , tại hạ khoan khoái vô cùng !

     

    Hắn giơ hai tay xé áo đánh roạt một cái . Vạt áo trước ngực bị xé toạt để hở đám lông đen xì trước ngực . Hắn vén đám lông lên , Y Hoàng trông rõ hàng chữ xâm vào da :"Thiên phụ địa mẫu , phản Thanh phục Minh" .

     

    Tra Y Hoàng vừa kinh ngạc vừa vui mừng hỏi :

     

    -Thế này là nghĩa làm sao ?

     

    Ngô Lục Kỳ sửa áo lại cẩn thận rồi đáp :

     

    -Vừa rồi nghe lời hùng luận của tiên sinh , tại hạ rất lấy làm kính phục . Tiên sinh đã không kể gì đến đại họa tuẩn thân diệt tộc , phơi gan , mật chỉ điểm cho tại hạ , thì tại hạ khi nào dám dấu tiên sinh ? Tại hạ trước là Tả hộ pháp của cái bang , hiện nay làm Hồng Kỳ hương chủ tại Hồng thuật đường trong Thiên Ðịa Hội thề đem bầu nhiệt huyết chống lại Thanh triều , khôi phục nhà Ðại Minh .

     

    Tra Y Hoàng thấy trước ngực của Ngô Lục Kỳ có thích chữ liền tin ngay là sự thực , không nghi ngờ gì nữa . Lão nói :

     

    -Té ra tướng quân mình ở nước Tào mà lòng để tại nhà hán . Vừa rồi tại hạ buông lời xúc phạm thật đắc tội .

     

    Ngô Lục kỳ cả mừng tự nhủ :

     

    -Y Hoàng bảo ta mình ở đất Tào mà lòng để ở Hán tức là ví ta với Quan Vân trường .

     

    Hắn liền đáp :

     

    -Lời tỷ dụ của tiên sinh tại hạ không dám nhận đâu .

     

    Tra Y Hoàng hỏi :

     

    -Cái Bang là gì ? Thiên Ðịa Hội là tổ chức như thế nào ? Tại hạ chưa hiễu rõ mong tướng quân chỉ giáo .

     

    Ngô Lục kỳ đáp :

     

    -Mời tiên sinh hãy dùng một chung rượu nữa rồi hãy từ từ nói chuyện .

     

    Mỗi người liềi uống một chung , Ngô Lục Kỳ đáp :

     

    -Cái Bang là một bang hội thành lập từ đời nhà Tống . Nó cũng là bang hội lớn nhất trên chốn giang hồ . Toàn thể anh em trong Cái bang đều là hành khất mưu sinh . Những người hào khí gia nhập Cái bang rồi liền chia hết của cải cho mọi người và cùng sống bằng nghề hành khất , đứng đầu là bang chúa , thứ nhì là Vĩ trưởng lão , kế đến là năm vị hộ pháp chia theo ngũ phương : Tiền , Hậu , Tả , Hữu và trung .Tại hạ làm Tả hộ pháp , thuộc hàng đệ tử tám túi trong bang , địa vị không còn thấp kém nữa . Sau vì có chuyện xích mích với vị trưởng lão họ Tôn rồi xảy cuộc đánh lộn . Lúc đó tại hạ say rượu lở tay đả thương y , thế là phạm tội bất kính bậc tôn trưởng , một tội nặng trong bang qui . Bang chúa lập tức mở cuộc thương nghị cùng bốn vị trưởng lão và đuổi tại hạ ra khỏi bang . hôm tại hạ vào quí phủ được tiên sinh mời uống rượu , chính là ngày tại hạ bị cách chức đuổi đi , trong lòng phiền muộn . May được tiên sinh chẳng những không khinh rẽ lại kết thành bằng hữu khiến cho tại hạ an ủi trong lòng .

     

    Tra Y Hoàng nói :

     

    - Té ra là thế !

     

    Ngô Lục Kỳ nói tiếp :

     

    -Mùa xuân năm sau , chúng ta gặp nhau ở Hồ Tây , tiên sinh hạ mình giao du và coi tại hạ như một kỳ cái trong thiên hạ . trước kia tại hạ vô cùng chán nãn nghĩ rằng cái bang đã chẳng dung tình , bạn hữu giang hồ còn đem lòng khinh rẽ , nên suốt ngày chỉ uống rượu say mèm . Tại hạ đã chắc chỉ bê tha rượu chè trong vài năm rồi say khước mà chết bỏ đời . Không ngờ Tra tiên sinh lại cho tại hạ là kỳ nam tử , khiến cho Ngô lục Kỳ này phấn khởi tinh thần . Nếu không có tiên sinh thì e rằng tại hạ chẳng còn ngày nào ngóc đầu lên được nữa , chẳng bao lâu quân Thanh xuống miền Nam . Khi đó trong lòng tại hạ vẫn còn phẩn kích , không hiễu thị phi mới đầu hàng quân Thanh , lập chút công lao bằng cách tàn sát đồng bào . Mỗi khi tại hạ nghĩ đến trong lòng lại hổ thẹn vô cùng !

     

    Tra Y Hoàng nghiêm nghị nói :

     

    -Hành vi này của huynh đài thật là tội lổi . Dù Cái Bang không dung , huynh đài đơn thân độc mã vùng vẫy giang hồ không được hay sao ? Hay tự sáng lập ra môn hộ cũng được . Sao lại dùng đến hạ sách đầu hàng quân Thanh .

     

    Ngô Lục kỳ nói :

     

    -Tại hạ ngu muội , vì khi đó chưa được tiên sinh dạy bảo , đã gây nên rất nhiều tội lổi , thật là đáng chết .

     

    Tra Y hoàng vừa dạ , gật đầu nói :

     

    -Tướng quân đã biết lổi thì đem công chuộc tội vẫn chưa muộn .

     

    Ngô lục kỳ lại nói :

     

    -Sau nhà Mãn Thanh thống nhất toàn quốc , tại hạ làm đến chức Ðề Ðốc . Trước đây hai năm , một hôm vào khoãng nữa đem , đột nhiên có kẻ lẽn vào phòng ngũ tại hạ hành thích . Nhưng thích khách không địch nổi tại hạ và bị bắt ngay . khi thắp đèn lên soi thì thích khách chính là người bị tại hạ đã thương ngày trước , tức Tôn trưởng lão . Y lớn tiếng thóa mạ , bảo tại hạ là kẽ đê hèn , cam tâm làm làm chó săn cho loài dị chủng . Y càng chửi càng hăng , câu nào cũng như đập vào trái tim tại hạ . Tại hạ nghe những lời y thóa mạ tự biết mình hành vi phản bội . Giữa lúc đêm khuya , càng hổ thẹn trong lòng , chỉ mong y chửi tàn nhẫn hơn nữa . Sau tại hạ thở dài , khai giải huyệt đạo cho y và bảo : "Tôn trưởng lão ! Trưởng lão thóa mạ tại hạ như thế là phải lắm ! Thôi trưởng lão đi đi !" .

     

    Y lộ vẽ ngạc nhiên , rồi vượt cửa sổ chuồn đi .

     

    Tra Y Hoàng nói :

     

    -Hành động này của tướng quân thật đáng khen !

     

    Ngô Lục Kỳ kể tiếp :

     

    -Khi ấy trong nhà lao của nha Ðề Ðốc có rất nhiều hảo hán bị giam cầm về tội mưu phản Thanh triều . Sáng sớm hôm sau , tại hạ liền tìm cách buông tha bọn họ . Người thì tại hạ bảo là bị bắt lầm , kẻ thì tại hạ nói không phải là chính phạm , giảm tội nhẹ đi để phát lạc bọn chúng . Hơn một tháng sau , Tôn trưởng lão lại đến gặp tại hạ vào lúc nữa đêm , y hỏi ngay : "Phải chăng ông bạn đã sinh lòng hối lổi , nguyện ý phản Thanh để lập lại công ? " . Tại hạ liền rút đao chặt cụt hai ngón tay đáp : "Ngô Lục kỳ này quyết tâm sửa đổi lổi lầm , từ nay nhất nhất nghe theo lời Tôn trưởng lão " .

     

    Ngô Lục Kỳ vừa nói vừa giơ bàn tay trái ra thì chỉ còn ba ngón , ngón trỏ và ngón cái đã bị chặt cụt .

     

    Ngô Lục Kỳ lại nói tiếp :

     

    -Tôn trưởng lão thấy tại hạ thành tâm nguyện ý và biết rõ tại hạ tuy tánh tình lổ mãng , nhưng chẳng bao giờ nói rồi lại nuốt lời . Lão lền bảo : "Hay lắm ! Ðể Tôn mổ về trình lại với bang chúa chờ người định đoạt" .

     

    Hắn ngừng lại một chút rồi tiếp :

     

    -Mười hôm sau , Tôn trưởng lão lại đến kiếm tại hạ , nói cho hay là Bang chúa cùng bốn vị trưởng lão đã thương nghị và quyết định thu tại hạ trở về bản bang , bắt đầu cho làm đệ tử một túi .

     

    Ngô Lục kỳ lại kể tiếp :

     

    -Cái Bang cùng Thiên Ðịa Hội đã giao ước cùng nhau đồng tâm hiệp lực phản kháng Thanh triều , khôi phục nhà Minh . Thiên Ðịa Hội là một hội do Trần Vĩnh Hoa tiên sinh , thủ hạ của Trịnh quốc sư ở nước Thái Nhượng sáng lập ra . Mấy năm nay trở nên rất hưng thịnh nhất là trong vùng Phúc Kiến , Triết Giang và Quảng Ðông . Tôn trưởng lão đã dẫn tại hạ đến ra mắt Trần tiên sinh và giới thiệu cho vào Thiên Ðịa Hội . Trần tiên sinh sau khi điều tra trong vòng một năm giao cho tại hạ làm mấy việc trọng yếu . Tiên sinh thấy tại hạ dốc dạ trung thành , chẳng ở hai lòng , nên mới đây phong cho chức Hồng Kỳ hương chủ ở Hồng Thuận Ðường .

     

    Tra Y Hoàng tuy không hiểu lai lịch Thiên Ðịa Hội . Nhưng một nhân vật có Quốc tính ở Ðài Loan là Trịnh Thành Công người ta thường kêu là Quốc tính gia Trịnh đại soái là một nhân vật trung dũng . Trịnh Thành Công chỉ cần một đạo quân cũng vẫn chống chọi Thanh triều nên người thời bấy giờ ai cũng cực kỳ kính trọng . Nếu Thiên Ðịa Hội lại do thủ hạ của Trịnh đại soái là Trần Vĩnh Hoa sáng lập ra dĩ nhiên là đồng đạo rồi .

     

    Ngô Lục ký lại nói :

     

    -Năm trước Quốc tính gia Trịnh đại soái dẫn quân vây đánh thành Kim Lăng , đáng tiếc vì người ít địch nhiều nên không địch nổi phải rút lui về Ðài Loan , song còn lưu lại ở ba tỉnh Giang , Triết , Phúc Kiến một số quân binh cũ không phải là ít .Trần tiên sinh cùng những bạn thanh khí , tổ chức Thiên Ðịa Hội này . Thiên Ðịa Hội dùng hai câu khẩu hiệu là "Thiên phụ địa mẫu" và "Phản Thanh phục Minh" hàng chữ này được thích vào trước ngực của những người nhập hội .

     

    Tra Y Hoàng mừng rỡ , uống cạn thêm hai chung rượu rồi nói :

     

    -Hành vi của huynh đài mới không hổ là kỳ nam tử trong đời .

     

    Ngô Lục Kỳ đáp :

     

    - Tại hạ không dám lãnh thụ năm chữ "Thiên hạ kỳ nam tử" mong Tra tiên sinh vui lòng nhìn nhận tại hạ làm bằng hữu thì Ngô này lấy làm sung sướng vô cùng !

     

    Tra Y Hoàng nói :

     

    -Tra mổ là kẻ thứ dân , chẳng bổ ích gì cho dân cho nước . Tại hạ cũng mong tướng quân có một ngày kia thời cơ hành động , gây nên phong trào kháng Thanh thì Tra mổ xin đầu quân để đóng góp chút sức mọn ở dưới trướng .

     

    Bắt đầu từ hôm ấy , Tra Y Hoàng ở trong phủ Ngô Lục Kỳ cùng y mỗi ngày thương nghị kế hoạch chống Thanh .

     

    Ngô Lục Kỳ còn nói chuyện Thiên Ðịa Hội đang liên lạc với Ngô Tam Quế ở Vân Nam . Mưu cùng nhau đồng thời phát động . Ðầu tiên là quét sạch mặt Tây Nam xong rồi mới tính chuyện phạt Bắc .

     

    Tra Y Hoàng làm tân khách trong phủ Ngô Lục Kỳ đến 6,7 tháng thì mới về nhà .

     

    Tra Y Hoàng biết rõ Huỳnh Tôn Hy và Cố Viêm Võ đều có chí khôi phục nhà Minh , hai vị này cũng chạy chọt bốn phương tụ họp anh hùng hào kiệt trong thiên hạ lo mưu phản Thanh . Vì vậy y kể hết mọi việc cho hai người nghe .

     

    Huỳnh Tôn Hy ngồi trên thuyền thuật lại đầu đuôi cho Lã lưu Lương nghe , rồi nói :

     

    -Việc này nếu bị tiết lộ thì tất bọn Thát Ðát sẽ hạ thủ trước .

     

    Y Hoàng tiên sinh cùng Ngô tướng quân bị giết mà cả họ , mà công cuộc phản Thanh sẽ bị gãy mất những tay rườn cột .


  4. 3. Phi Lộ 3

     

    Hai người đưa tay nhau tới tửu lầu cạnh Tây Hồ kêu lấy rượu uống . Chẳng bao lâu Y Hoàng lại say mèm ngã lăn ra . Khi tỉnh rượu thì thấy tên khất cái đã đi đâu mất rồi .

     

    Những chuyện trên đây xảy ra vào mấy năm cuối cùng đời Sùng Trinh nhà Minh . Mấy năm sau , quân Thanh vào quan ải lật đổ nhà Minh .

     

    Tra Y Hoàng không có ý tiến thủ chỉ ngồi ỳ trong nhà .

     

    Một hôm bỗng thấy quan binh dẫn bốn tên lính vào Tra phủ .

     

    Tra Y Hoàng vừa thấy bọn quan binh vào nhà liền giật mình kinh hãi cho là tai họa đến nơi . Ngờ đâu viên quan binh kia lại kính cẩn thi lễ nói :

     

    -Tiểu nhân vâng lệnh Ngô tướng quân đưa chút lễ mọn này đến kính tặng tiên sinh .

     

    Tra Y Hoàng đáp :

     

    -Giữa tại hạ và vị thượng quan của tướng quân chẳng những chưa từng có chuyện kết giao mà tại hạ không gặp ngài bao giờ . E rằng tướng quân nhận lầm người mất rồi .

     

    Viên tướng quân liền lầy bái thiếp ra . Trên tấm thiếp đại hồng viết :

     

    -Kính bái Tra Y Hoàng tiên sinh , tự Kế Tả .

     

    Phía dưới ghi rõ :

     

    -Vãn sinh là Ngô Lục Kỳ khấu đầu trăm lạy .

     

    Tra Y Hoàng tự hỏi :

     

    -Ta chưa từng nghe thấy cái tên Ngô Lục Kỳ này bao giờ mà sao hắn lại đưa đồ lễ đến kính tặng ?

     

    Lão trầm ngâm chưa kịp trả lời thì viên quan binh kia lại nói :

     

    -Thượng quan của tiểu nhân có dặn thưa cùng tiên sinh . Chút lễ mọn này chẳng có chi đáng kể mong được tiên sinh thâu nạp .

     

    Hắn vừa nói xong bưng hai cái hộp tròn sơn son thếp vàng đặt lên bàn . Ðoạn khom lưng cáo biệt rồi trở gót đi luôn .

     

    Y Hoàng mở một hộp ra thì thấy là ba ngàn lạng vàng . Còn trong hộp kia đựng sáu bình dương tửu . Bình rượu nào cũng giắt minh châu và ngọc phỉ thúy trân quí phi thường !

     

    Tra Y Hoàng càng kinh hãi hơn , vội chạy theo để trả lại đô lễ . Nhưng viên binh kia là con nhà võ , cước trình rất mau lẹ , đã đi xa rồi .

     

    Tra Y Hoàng trong lòng buồn bả nghĩ thầm :

     

    -Hoành tài đưa đến biết đâu là họa hay là phước ? Phải chăng có kẻ nào muốn hại ta ?

     

    Y liền gói hai hộp đồ lễ cẩn thận rồi cất vào mật thất .

     

    Tra gia vốn là một nhà cần kiệm , không cần dùng tới hoàng kim . Có đều Y Hoàng từng được nghe dương tửu là thứ rượu ngon mà không dám mở bình ra nếm thì triong lòng không khỏi có ý tiếc rẻ .

     

    Qua mấy bửa Tra gia vẫn không thấy chuyện gì khác lạ .

     

    Một hôm bỗng thấy có chàng công tử y phục cực kỳ hoa lệ tỏ ra dòng dõi quí phái .

     

    Chàng công tử này còn nhỏ tuổi cở 17,18 mà tinh thần quắc thước , khí vũ hiên ngang . Chàng đem tám gia nhân theo hầu .

     

    Vừa ngó thấy Tra Y Hoàng , chàng công tử liền quì xuống khấu đầu miệng hô :

     

    -Tra thế bá ! Tiểu điệt là Ngô Bảo Vũ xin ra mắt hế bá .

     

    Y Hoàng vội đở chàng dậy đưa vào nhà khách rồi hỏi :

     

    -Tại hạ không dám nhận lãng cách xưng hô của công tử , xin công tử cho hay tên đại nhân là gì ?

     

    Ngô Bảo Vũ đáp :

     

    -Tên húy gia nghiêm là Ngô Lục Kỳ , hiện là Thủy Sư đề đồc ở Quảng Ðông . Gia nghiêm sai tiểu điệt tới đâuy kính mời thế bá đén Quảng Ðông ở chơi mấy tháng cho thỏa lòng mong nhớ .

     

    Tra Y Hoàng đáp :

     

    -Bửa trước tôn đại nhân đã ban cho lễ hậu , khiến Tra mổ băn khoăn trong dạ . Nói rõ ra lại mắc cở , tại hạ có giao du , tính lại hay quên , không nhớ đã đưọc gặp lệnh tôn bao giờ . Tại hạ là kẻ thư sinh chưa từng giao kết với một vị quan nào hết . Mời công tử hãy ngồi chơi .

     

    Y Hoàng nói rồi chạy vào trong nhà sai bưng đồ lễ ra nói :

     

    -Phiền công tử đưa hậu lễ này về , tại hạ thực tình không dám bái lĩnh .

     

    Y nghĩ thầm trong bụng :

     

    -Ngô Lục Kỳ nào đây làm Ðề Ðốc ở Quảng Ðông chắc hâm mộ thanh danh của mình , nên đem lễ hậu đến mời mình làm tân khách .

     

    Rồi y bụng bảo dạ :

     

    -Người này tuy là quan to , song là bọn ưng khuyển cho Mãn Thanh để chà đạp người Hán , nếu mình nhận lễ vật của hắn là tự làm nhơ danh .

     

    Bụng nghĩ vậy nhưng không lộ vẽ gì ra ngoài mặt .

     

    Ngô Bảo Vũ nói :

     

    Lúc tiểu điệt ra đi , gia nghiêm đã dặn đi dặn lại phải mời cho được thế bá . Gặp trường hợp thế bá quên mất gia nghiêm thì đã có tín vật đây xin thế bá coi lại .

     

    Công tử cởi cái bọc trong tay ra thì chỉ thấy một mãnh áo cừu cũ kỹ .

     

    Y Hoàng vừa ngó thấy mãnh bào liền nhớ tới người khất cái vào lúc mưa tuyết trong nhà mình ngày trước . Y liền tỉnh ngộ lẩm bẩm :

     

    -Té ra Ngô Lục Kỳ tướng quân là ông bạn rượu với ta ngày trước .

     

    Y Hoàng động tâm tự nhủ :

     

    Bọn Thát Ðát chiếm đoạt giang sơn . Nếu được người tay nắm binh quyền dựng cờ khởi nghĩa tất bốn phương hưởng ứng ngay và có thể trục đưọc quân Thát Ðát ra ngoài quan ải cũng chưa biết chừng . Ngô Lục Kỳ mới gặp ta có một lần đã tỏ dạ quan hoài . Hắn nhớ cả đến một bửa ăn một manh áo thì không phải là hạng người vô luơng tâm . Ta sẽ dùng đại nghĩa thuyết phục hắn . Bậc nam nhi lập công báo quốc là ở lúc này , ta có bị hắn giết cũng chẳng sao .

     

    Y nghĩ vậy liền theo công tử lên đường đi Quảng Châu .

     

    Ngô Lục Kỳ tướng quân ra tận ngoài xa mấy dậm để nghênh tiếp , thái độ rất cung kính , Ngô nói :

     

    -Lục kỳ này trên con đường phiêu bạt tới Giang Nam , được Tra tiên sinh không khinh rẽ coi như tình bằng hữu , nào mời uống rượu nào tặng áo cừu . Ðó là chuyện nhỏ ,nhưng khi vào tòa phá miếu ghé miệng vào hũ mà uống , tay bốc thịt chó mà ăn . Ðó mới là tình nghĩa bạn bè từ trong phế phủ . Lục Kỳ này nhân đó trong lòng phấn khởi nên có ngày nay . Lục Kỳ có làm nên gì cũng đều là của Tra tiên sinh ban cho.

     

    Tra Y Hoàng nói :

     

    -Vãn sinh coi Ngô tướng quân hôm nay chẳng hơn gì khi tướng quân còn là một vị kỳ cái dầm mưa dãi gió .

     

    Ngô Lục Kỳ chưng hững đáp :

     

    -Dạ dạ ! Xin đa tạ tiên sinh .

     

    Tối hôm ấy trong tướng phủ Quảng Châu mở một bửa tiệc lớn . Ngô Lục Kỳ mời hết văn vũ quan viên đến dự . Hắn đặt Tra Y Hoàng ngồi vào ghế chủ tịch . Còn hắn ngồi mé dưới để bồi tiếp .

     

    Văn võ bá quan tỉnh Quảng Ðông từ tuần phủ trở xuống thấy Ðề Ðốc đại nhân đối đãi với Tra Y Hoàng cực kỳ cung kính , trong lòng ai nấy đều lấy làm kỳ .

     

    Quan tuần phủ còn cho rằng Tra Y Hoàng là một vị khâm sai của triều đình phái đi vi hành để dò xét tỉnh Quảng Ðông . Nếu không Ngô Lục Kỳ xưa nay tính tình cao ngạo có lý nào lại kính cẩn một vị thư sinh miền Giang Nam đến thế ?

     

    Sau khi tan tiệc . Quan tuần phủ hỏi thăm Ngô Lục Kỳ :

     

    -Vị quí khách này phải chăng là một đại viên của triều đình ?

     

    Ngô Lục Kỳ tủm tĩm cười đáp :

     

    -Lão huynh thật là người thông minh . Coi mặt mà bắt hình dong , 10 lần đoán trúng đến 9 .

     

    Câu nói này có ý trào phúng , bảo đối phương lần thứ 10 đoán sai trật . Nhưng quan tuần phủ tưởng mình đoán trúng và cho Tra Y Hoàng đúng là khâm sai đại thần . Hắn nghĩ bụng :

     

    -Tra đại nhân đến phủ Ðề Ðốc chắc là có tình thân với y . Giữa Ngô đề đốc với ta vốn không ý hợp tâm đầu cho lắm . Nếu khâm sai đại nhân sau khi về kinh dâng bản tâu bất lợi cho ta thì thật là hõng bét .

     

    Hắn về phủ liền chọn một phần lễ trọng . Sáng sớm hôm sau đưa sang phủ Ðề Ðốc .

     

    Ngô Lục Kỳ ra tiếp khách nói :

     

    -Hôm qua Tra tiên sinh say quá , bây giờ hãy còn ngũ chưa dậy . Vật của phủ đài tại hạ nhất định sẽ thay mặt trao lại cho tiên sinh . Phủ đài cứ yên lòng , đừng lo ngại gì hết .

     

    Quan tuần phủ nghe nói cả mừng , liền ngỏ lời cám ơn rồi cáo từ ra về .

     

    Không bao lâu tin này đồn đại ra ngoài . Ai cũng biết tuần phủ đại nhân đưa hậu lễ đến mừng Tra tiên sinh , liền tự hỏi :

     

    -Không hiễu lai lịch Tra tiên sinh này ra sao , nhưng đến quan tuần phủ còn đưa hậu lễ , lẽ nào mình không đưa ?

     

    Chỉ trong vài ngày , lễ vật trong phủ Ðề Ðốc chất cao như núi . Nhất nhất Ngô Lục Kỳ đều sai văn phòng thu nhận mà không cho Tra tiên sinh hay .

     

    Ngô Lục Kỳ hàng ngày ngoài lúc công sự ở nha môn , y lại ngồi tiếp Tra Y Hoàng uống rượu .

     

    Rượu được vài tuần , Tra Y Hoàng nói :

     

    -Vãn sinh ở quí phủ quấy nhiễu lâu ngày , rất lấy làm cảm tạ mối thạnh tình của đại nhân . Sáng mai , vãn sinh xin cáo biệt trở về phương Bắc .

     

    Ngô Lục Ký đáp :

     

    -Sao tiên sinh lại nói vậy ! Tiên sinh xuôi Nam chơi há phải chuyện dễ dàng ? Nếu tiên sinh không chịu ở lại ít nhất nữa năm thì tại hạ quyết không để tiên sinh ra về . Sáng mai tại hạ bồi tiếp thêm tiên sinh lên năm từng lầu ngắm cảnh . Thành Quảng Châu có nhiều danh lam thắng cảnhđi du ngoạn mấy tháng cũng không hết .


  5. Trình Duy Phiên liền xin phép quan tướng quân nghỉ mấy bửa xuống thuyền đi ngay đến trấn Nam Tâm , phủ Hồ Châu , đem việc này báo cho Trang Doãn Thành hay .

     

    Trang Doãn Thành thấy bất thình lình tai họa đổ lên đầu thì chẳng còn hồn vía nào nữa . Lão bủn rủn cả người , miệng sùi bọt mép , không biết làm thế nào cho được .

     

    Sau một lúc lâu lão mới đứng lên quì xuống dập đầu tạ ơn Trình Duy Phiên , lão lão lại vấn kế hắn .

     

    Trình Duy Phiên ngay từ lúc ngồi thuyền từ Hàng Châu đến Nam Tâm đã suy nghĩ rất nhiều và tìm ra được diệu kế . Hắn nghĩ bụng :

     

    -Pho Minh sử tập lược lưu tryền trong nước đã lâu ,muốn dấu diếm cũng không được nữa . Bây giờ chỉ còn biện pháp duy nhất là thay củ đổi mới . Một mặt phái người đến các thư điếm bỏ tiền mua hết sách cũ , một mặt mướn thợ khởi công làm đêm ngày san khắc lại , phế bỏ những điều cấm kỵ ,in thành sách mới rồi cho phát hành .Ðến khi quan nha truy cứu thì đưa bộ Minh sử san khắc đưa ra là có thể khép Ngô Chi Vinh vào tội tố cáo không sự thực .

     

    Trình Duy Phiên đem kế này nói cho Trang Doãn Thành nghe . Trang Doãn Thành mừng rỡ kể sao cho xiết . Lão liền dập đầu tạ ơn Trình Duy Phiên .

     

    Trình Duy Phiên còn dạy Trang Doãn Thành rất nhiều chi tiết quan hệ . Ðối với vị quan nào nê dùng lễ gì , nha nào phải đi lại ra sao ?

     

    Trang Doãn Thành nhất nhất nghe theo .

     

    Trình Duy Phiên trở về tới Hàng Châu mất nữa tháng . Bây giờ hắn mới thảo công văn chuyển bẩm lên quan tuần phủ Triết Giang là Châu Xương Tộ .

     

    Châu Xương Tộ tiếp được công văn thấy vụ án này thuộc về quyền quản trị của bên học chánh liền phê giao cho quan học chánh là Hồ Thượng Hành để mở cuộc điều tra .

     

    Lúc này Trang Doãn Thành đã đút tiền cho quan tướng quân ở nha môn . Cả tuần phủ nha môn và học chánh nha môn cũng vậy .

     

    Vị sư gia học chánh nha môn trước hét gác việc này lại hơn nữa tháng , sau lại cáo bệnh nghĩ một tháng rồi mới từ từ lập thủ tục làm hồ sơ tâu về phủ Hồ Châu .

     

    Viên học quan ở phủ Hồ Châu cũng gác lại hơn hai chục ngày rồi mới làm công tư văn về hai vị học quan ở huyện Quí An và huyện Ô Trình và yêu cầu hai vị này cứu xét rồi phúc bẩm .

     

    Hai vị học quan ở huyện Quí An và Ô Trình cũng đã nhận hậu lễ của Trang Doãn Thành đút lót .

     

    Hiện giờ pho Minh sử mới đã ấn loát xong và cho phát hành . Hai viên học quan liền đem bộ Minh sử mới khắc và làm tờ phúc bẩm báo :

     

    "Cuốn sách này rất tầm thường , chẳng ích gì cho nhân tâm thế đạo , nhưng xét toàn bộ không có đìều gì cấm kỵ" .

     

    Bao nhiêu quan nha phúc bẩm đều nói là chẳng quan hệ gì nên đình cứu không xét tới nữa .

     

    Ngô Chi Vinh ngồi chờ đợi tin tức trong khách điếm ở Hàng Châu là thời gian mà Trang Doãn Thành vung tiền như nước để chạy chọt và san sách .

     

    Từ lúc Ngô Chi Vinh phát hiện ra pho Minh sử mới ở thư điếm , mới vở lẻ là nội vụ hỏng rồi . Hắn nghĩ bụng : bây giờ chỉ còn cách tìm được nguyên bản về bộ Minh sử này mới có thể đưa vụ án này ra tái xét xử . Hắn liền đi khắp các tiệm sách ở Hàng Châu nhưng những sách cũ đã bị Trang gia mua hết .

     

    Hiện nay cả các châu huyện hẻo lánh miền Triết Ðông cũng không còn lấy một pho thì hắn tìm đâu ra được .

     

    Ngô Chi Vinh buồn rầu coi rất thảm hại , chỉ còn cách bỏ về làng .

     

    Ngờ đâu trong khi đi đường hắn qua một tiệm sách thấy chủ nhân vừa đọc sách vừa lắc đầu nguầy nguậy .

     

    Ngô Chi Vinh nhìn kỹ lại thì là pho Minh sử tập lược . Hắn liền mượn coi một chút thì đúng là bản sách cũ .

     

    Ngô Chi Vinh toan hỏi mua nhưng hắn lại nghĩ thầm :

     

    -Nếu mình hỏi mua thì chưa chắc hắn đã chịu bán . Hơn nữa ta lại không có tiền bạc thì làm sao được . Bây giờ chỉ có cách là lấy pho sách này .

     

    Hắn nghĩ vậy liền xin ngũ trọ rồi đến đêm khuya lén lút trở dậy lấy cấp pho sách rối chuồn đi .

     

    Hắn lại bụng bảo dạ :

     

    -Bao nhiêu quan nha toàn tỉnh Triết Giang đều đã ăn của đút của Trang doãn Thành . Vụ này phải lên thành Bắc Kinh tố cáo mới xong .

     

    Ngô Chi Vinh tới Bắc kinh liền viết tờ trình đưa vào Lễ bộ , Ðô Sát viện và Thông Chi Ty là ba tòa liên quan đến vụ Minh sử . Trong cáo trạng hắn còn nói rõ cả việc nhà họ Trang đút lót quan nha làm lại sách mới .

     

    Ngờ đâu hắn chờ ở trong kinh chưa đầy một tháng thì ba nha môn nói trên lục tục bác bỏ vụ án này . Các nha môn đều nói : đã tra xét kỹ càng việc Trang Kiến Long soạn pho Minh sử tập lược , nội dung không có chổ nào vi phạm đến cấm lệ của triều đình . Những điều tố cáo của viên tri huyện đã bị cách chức hoàn toàn sai sự thật . Hiển nhiên vì hiềm thù mà hắn đã vu cáo người ngay . Còn việc Trang gia đút lót quan gia đều là những lời theo bông bắt gió không đủ bằng chứng thiết thực .

     

    Lời phê bác của Thông Chính Ty lại càng gay hắt nói :

     

    -Ngô Chi Vinh là một viên tri huyện tham nhủng mà bị cách chức "đương sự tưởng các quan chức thiên hạ ai cũng tham lam như hắn ".

     

    Nguyên Trang Doãn Thành đã nghe lời chỉ bảo của Trình Duy Phiên đem bản Minh sử mới khắc đưa vào Lễ bộ , Ðô Sát viện và Thông Chính Ty là những nha môn trong triều trực tiếp tra xét vụ này . Ðồng thời Trang Doãn Thành đã lo lót quan lại cùng sư gia tại các nha môn đó .

     

    Ngô Chi Vinh lại một phen thất bại , hắn chán nãn vô cùng . Tiền lộ phí về nhà cũng không còn nữa , lâm vào tình thế phiêu bạt giang hồ .

     

    Thời bấy giờ triều đinh nhà Mãn Thanh đối đải với những văn sĩ người Hán cực kỳ nghiêm khắc . Ai chỉ phạm cấm một chút trong văn từ liền bị xử tử . Giả tỷ Ngô Chi Vinh mà tố cáo một văn nhân tầm thường thì hắn đã thắng kiện rồi , nhưng đối thủ của hắn là một nhà hào phú nên tội bị bác bỏ .

     

    Ngô Chi Vinh Ngjĩ thầm :

     

    -Mình đã lâm vào nước đường cùng thì đem vụ án này cho đến nơi rồi muốn ra sao thì ra .

     

    Hắn liền viết bốn tờ cáo trạng đưa vào bốn vị Cố mệnh đại thần . Ðồng thời hắn ngồi trong khách điếm viết mấy trăm bản bích chương phơi bày sự việc đem dán khắp nơi trong kinh thành .

     

    Ngô Chi Vinh làm việc này thật là mạo hiểm . Nếu quan trên truy cứu khép hắn vào tội phao đồn những việc thất thiệt làm náo loạn nhân tâm tất bị trọng tội .

     

    Bốn vị Cố mệnh đại thần là Sách Ni , Tô Khắc Tất Cáp , Ất Tất Long , Ngao Bái bọn họ đều là khai quôc công thần người Mãn Châu .

     

    Thuận Trị hoàng đế khi tạ thế đã di mệnh cho bốn vị đại thần này phụ chính .

     

    Trong bốn người này thì Ngao Bái là tay hung hiểm nhất .

     

    Trong triều chia làm bè đảng mà bao nhiêu quyền bính đều bị tay Ngao Bái thao túng . Hắn sợ phe đảng bên địch làm bất lợi cho mình , nên phái rất nhiều thám tử đi dò xét động tỉnh ở nội ngoại thành Bắc Kinh .

     

    Một hôm Ngao Bái được tin trong thành Bắc Kinh xuất hiện rất nhiều bích chương phanh phui ra vụ một người trong dân tính họ Trang ở Triết Giang làm sách mưu đồ phản loạn , toan tính đại nghịch , quan lại ở Triết Giang ăn của đút lót rồi bác bỏ không xét đến nữa .

     

    Ngao Bái được tin liền mở cuộc điều tra . Hắn liền cho phát ra những mệnh lệnh thần tốc mở cuộc điều tra rất gắt gao.

     

    Ngày hôm sau cáo trạng của Ngô Chi Vinh đã vào đến phủ của Ngao Bái .

     

    Ngao Bái lập tức triệu Ngô Chi Vinh vào hỏi rõ đầu đuôi . Hắn lại cho một tên thủ hạ trong phủ coi kỹ lại nguyên bản Minh sử theo lời yêu cầu của Ngô Chi Vinh và nhận thấy lời của Ngô Chi Vinh quả nhiên là đúng sự thực .

     

    Ngao Bái nắm giử quyền lớn cốt ý tra xét mấy vụ đại án để trấn áp tinh thần . Chẳng những hắn muốn người Hán không có ý niệm phản bạn mà cả những đảng đối lập trong triều cũng không dám có hành động khác lạ . Hắn liền quát quan khâm sai đến tận tỉnh Triết Giang tra xét .

     

    Sự việc đã đến mức này dĩ nhiên toàn gia nhà họ Trang phải bị giải vào kinh , cả quan tướng quân Tùng Khôi ở phủ Hàng Châu và quan tuần phủ Triết Giang là Ngô Xương Tộ cùng các quan lớn nhỏ đều bị cách chức để chờ cứu xét . Ngoài ra các danh nhân học sĩ có tên trong pho Minh sử chẳng một ai thoát cảnh tù ngục .

     

    Nhắc lại Cố Viêm Võ và Huỳnh Tôn Hy ở nhà Lã Lưu Lương đem đầu đuôi vụ án Minh sử thuật kỹ cho họ Lã nghe .

     

    Lã Lưu Lương ngồi nghe chỉ thở dài .

     

    Sáng hôm sau cả nhà Lã Lưu Lương cùng hai lão Cố , Huỳnh xuống thuyền đi về phía Ðông .

     

    Ở Giang Nam những nhà bậc trung trở lên đều có thuyền để phòng khi dùng đến . Nên biết miền Giang Nam sông ngòi lưu thông đi khắp các ngả , thuyền bè qua lại như mắc cưởi .

     

    Hiện bọn người này ra đi đều dùng thuyền nhỏ . Bọn thuyền phu thì có kẻ mướn thường xuyên ở trong nhà , có người lúc lâm thời mới kêu đến . Người phương Bắc cưởi ngựa , người phương Nam đi thuyền đã có từ lâu .

     

    Sau khi thuyền đến Hàng Châu và sông Vân Hà rồi ngược lên phía Bắc .

     

    Hôm ấy thuyền ra ngoài thành Hàng Châu thì được tin triều đình nhà Thanh nhân vụ án này đã xử rất nhiều quan lại cùng trăm họ Trang Kiến Long chết rồi cũng bị quật mồ xé xác . Trang Doãn Thành bị giam trong ngục và bị ngược đải không chịu được phải tự tử . Toàn gia họ Trang mấy chục người từ mười sáu tuổi trở lên đều bị xử trãm .Còn bọn đàn bà con gái thì phát lảng đến Thảm Dương để cho bọn kỵ binh Mãn Châu dùng làm tôi mọi .

     

    Quan Lễ bộ thị lang Lý Kim Triết trước đề tựa cuốn sách này xử tội lăng trì . Bốn người con của ông đều bị xử trãm .

     

    Người con nhỏ của Lý Kim Triết mới mười sáu tuổi . Viên pháp ty thấy giết nhiều người quá thì không khỏi thương tâm liền bảo gã giảm xuống một tuổi . Theo luật của Mãn Thanh thì từ mười lăm tuổi trở xuống được miễn tội chết , chỉ phải đi xung quân .

     

    Gã thiếu niên này liền nói :

     

    -Các cha anh của tiểu tử đều chết cả rồi , tiểu tử cũng không muốn sống một mình làm chi nữa .

     

    Gã không chịu thay đổi khẩu cung nên cũng bị xử trãm .

     

    Bọn Tùng Khôi , Chu Xương Tộ bị giam vào ngục chờ ngày hậu cứu . Sư gia Trịnh Duy Phiên bị xử lăng trì , thây bỏ ngoài chợ . Hai vị học quan ở Quí An và Ô Trình bị xử trãm .

     

    Những người dính liếu về vụ Minh sử thì bị tàn sát không biết bao nhiêu mà kể .

     

    Ðàm Hy Mẫn , viên tri phủ mới đổi đến nhậm chức ở Hồ Châu mới được nữa tháng , triều đình Mãn Thanh cũng buộc vào tội tri tình mà không báo cáo , cùng ăn tiền bưng bít . Cả viên quan đã đổi đi là Lý Hoàn và quan Huấn Ðạo , Vương Triệu Trinh đều bị xử giảo .

     

    Ngô Chi Vinh rất căm hận nhà giàu ở trấn Nam Tâm là Chu Minh Hựu vì bửa trước hắn đến xin trợ cấp bị Chu mai mĩa một hồi rồi đuổi ra khỏi cửa , hắn liền xúi quam tư pháp :

     

    -Trong cuốn Minh Thư tập lược đã chứa rõ cuốn sách đó căn cứ vào bộ Chu Thị Nguyên Cảo mà soạn ra và Chu Minh Hựu cũng thuộc vào họ Chu này .

     

    Thế là cả Chu Minh Hựu và năm con y đều bị chém đầu .

     

    Thanh đình lại đem gia tư cự vạn nhà họ Chu cấp cho Ngô Chi Vinh .

     

    Thảm hơn nửa là bọn thợ thuyền khắc chữ , thợ ấn loát , thợ đóng sách và những chủ tiệm sách , người bán cũng như người mua cùng người đọc sách hể điều tra ra được là xử trãm hết .

     

    Theo sử chép thời bấy giờ viên quan giử cửa ải Hứa Dã thuộc Biện Châu là Lý Thượng Bạch rất thích đọc sách , nghe nói trong quán chú ngoài cổng thành Biện Châu có bán pho Minh sử mới khắc nội dung rất hay , y liền sai một tên công dịch đi mua .

     

    Tên công dịch đến quày sách lúc chủ quán vắng nhà , gã bèn vào nhà họ Chu ở bên cạnh ngồi chờ , chờ cho tới lúc chủ quán trở về để mua được sách đem về cho Lý Thượng Bạch .

     

    Lý Thượng Bạch đọc mấy thiên đã không vừa ý liền bỏ đó .

     

    Mấy tháng sau vụ án Minh sử khởi sự điều tra đi tìm người mua sách khắp nơi . Khi ấy Lý Thượng Bạch về công cán ở Bắc Kinh liền bị khép tội mua sách phản nghịch và bị xử trãm ngay tại kinh thành .

     

    Chủ nhân quán sách và tên công dịch vâng lệnh đi mua sách cũng bị chém đầu . Lão già bên quán sách cũng bị vạ lây vì biết tên công dịch đến mua sách mà không tố giác ngay , còn để gã vào nhà ngồi đợi , đáng lý lão bị chém đầu , song nghĩ tình lão đã già nua tuổi ngoài bảy chục nên được tha cho tội chết mà cũng phải toàn gia đi xung quân tại miền biên giới .Những nhân sĩ miền Giang Nam vì hâm mộ Trang Kiến Long đến đọc sách được liệt danh vào pho Minh Thư tập lược đều bị xử tội lăng trì , cả thảy 14 người trong đó có cả Ngô Chi Minh và Ngô Chi Dung là anh em với Ngô Chi Vinh .

     

    Xử tội lăng trì là chém từng nhát dao một để chặc hết chân tay cùng cắt da thịt toàn thân từ từ miếng một cho đến khi phạm nhân phải chịu đau đớn đến cùng cực rồi mới chém chết .

     

    Vì bộ Minh Thư tập lược mà nhà tan cửa nát , người chết không biết bao nhiêu mà kể .

     

    Bọn Lã Lưu Lương ba người hay tin chẳng ai là không nghiến răng căm hận , buông lời nguyền rũa nhà Thanh .

     

    Huỳnh Tôn Hy nói :

     

    -Y Hoàng tiên sinh cũng bị liệt danh vào hàng soạn sách . Phen này chắc y không thoát nạn được .

     

    Ba người này vốn có tình kết giao thâm hậu với Y Hoàng từ lâu nên lo lắng vô cùng !

     

    Một hôm thuyền đến Gia Hưng . Cố Viêm Võ vào thành mua một tờ báo . Trong tờ báo này có kê họ tên những tội nhân về vụ án Minh sử . Lão lại thấy trên đầu đề nêu lên câu : "Tra Kế Tá , Phạm Tương , Lục Kỳ ba người tuy có liệt danh vào bộ tham khảo , nhưng vì bất tri tình nên được miễn tội .

     

    Cố Viêm Võ cầm tờ báo về thuyền để Huỳnh Tôn Hy và Lã Lưu Lương cùng đọc . Ai cũng lắc đầu cho là chuyện lạ .

     

    Huỳnh Tô Hy nói :

     

    -Vụ này chắc là hành vi của Ðại lực tướng quân .

     

    Lã Lưu Lương hỏi :

     

    -Ðại lực tướng quân là gì ?

     

    Huỳnh Tôn Hy đáp :

     

    -Y là một vị tân khách trong nhà Y Hoàng tiên sinh . Hai năm trước tiểu đệ đến chơi thấy phủ đệ hoàn toàn đổi mới . Nhà cửa rộng rãi , cách bối trí lại càng phú quí hào hoa , so với trước thật khác nhau xa . Tiểu đệ đã kết thân với Y Hoàng tiên sinh từ trước nên chẳng cần e dè hỏi thẳng ngay vào vấn đề thì Y Hoàng tiên sinh kể câu chuyện thật kỳ ngộ trên chốn phong trần . Dưới đây là câu chuyện của Y Hoàng tiên sinh thuật lại :

     

    -Tra Kế Tá , tên tự là Y Hoàng có làm một bài tường thuật ký sự trong cuốn Cô Thặng . Trang đầu nói ngay đến Tra Hiếu Liên (cử nhân ngày trước) tiểu tự là Y Hoàng người ở Hải Ninh tỉnh Triết Giang là một nhân vật tài hoa phong nhả mà lắm về phong tình . Ông thường nói : Cuộc đời bát ngát biết bao nhiêu sầu muộn . Những tay kỳ kiệt trên đời không lấy cảnh vật chốn tràn ai mà để tâm , nhưng phỏng được có mấy ai .

     

    Một hôm vào buổi cuối năm ông sai người lấy rượu uống một mình . Lát sau trời mưa tuyết mỗi lúc một lớn .

     

    Tra Kế Tá ngồi uống rượu mọt mình cảm thấy buồn tẻ , liền đứng dậy ra ngoài cửa ngắm tuyết bay , chợt nhìn thấy một người khất cái đứng ở dưới hiên để tránh mưa tuyết .

     

    Người khất cái này thân hình cao lón , cốt cách thanh kỳ . Y chỉ mặc một tấm áo đơn rách mướp , giữa lúc trời đông tuyết lạnh mà y vẫn thản nhiên như không thấy gì .

     

    Tra Y Hoàng trong lòng rất lấy làm kỳ liền hỏi :

     

    -Này ông bạn ! Trận mưa còn lâu chứ không phải chỉ trong chốc lát mà tạnh . Vậy ông bạn hãy vào đây uống với tôi một chung rượu được chăng ?

     

    Người khất cái đáp :

     

    -Nếu vậy thì còn gì bằng ?

     

    Tra Y Hoàng liền dắt y vào nhà và sai thư đồng lấy thêm đủa bát . Tự Y Hoàng rót đầy rượu vào chung và nói :

     

    -Xin mời ông bạn !

     

    Người khất cái nâng chung rượu lên uống sạch rồi khen :

     

    -Rượu này ngon tuyệt !

     

    Y Hoàng rót luôn ba chung rượu . Rót chung nào , người khất cái cũng uống sạch ngay .

     

    Bản tính Y Hoàng thích người mau lẹ , y mừng thầm hỏi :

     

    -Tửu lượng của huynh đài giỏi quá ! Tiểu đệ không hiểu huynh đài uống được bao nhiêu ?

     

    Khất cái đáp :

     

    -Người ta thường nói : Tửu phòng tri kỷ thiên bôi thiểu , thoại bất đầu cơ bán cú đa . Nếu gặp bạn tri kỷ thì uống ngàn chung hãy còn là ít . Nói chuyện không gặp được người ý hợp tâm đầu thì chỉ nữa cân cũng là đã quá nhiều .

     

    Sự thực hai câu này chỉ là sáo ngữ bình dị chẳng có chi kỳ lạ , nhưng do miệng của người khất cái thốt ra khiến cho Y Hoàng không khỏi lấy làm kỳ . Y liền sai gã thư đồng bê ra một vò rượu Thiệu Hưng nữ nhi hồng thật lớn rồi cười nói :

     

    -Tửu lượng của tiểu đệ rất tầm thường , lại vừa mới ăn cơm no , đáng tiếc chẳng thể bồi tiếp huynh đài cho xứng đáng . Vậy lão huynh uống bằng bát lớn còn tiểu đệ chỉ dùng chung nhỏ may ra mới bồi tiếp được phần nào . Lão huynh tính sao ?

     

    Khất cái đáp vỏ vẹn một tiếng :

     

    -Cũng được !

     

    Tên thư đồng bưng vò rượu nóng rót ra bát lớn cho người khất cái còn Tra Y Hoàng chỉ uống bằng chung nhỏ .

     

    Hai bên đối đáp như vậy . Bất giác người khất cái uống hơn ba chục bát mà sắc mặt vẫn thản nhiên như chưa thấy gì . Nhưng Tra Y Hoàng đã say túy lúy không thể nào gắng gượng ngồi được nữa , phải nằm lăn ra .

     

    Thiệu Hưng nử nhi hồng là một thứ rượu vứa êm vừa ngọt , uống vào như chẳng thấy gì , nhưng thật ra chất rượu thật mạnh .

     

    Về triều Thiệu Hưng , nhũng nhà sinh con gái thường nấu hằng chục hũ rượu chôn xuống đất . Khi người con gái này khôn lớn đi lấy chồng , người ta đào rượu này lên để thết khách làm tiệc cưới . Khi đó rượu biến thành màu hồng như hổ phách . Vì vậy mới đặt tên cho nó là "Nữ nhi hồng" .

     

    Thứ rượu này đã chôn cất 17,18 năm , hoặc 20 năm hay hơn nữa . Dĩ nhiên mùi rượu rất êm và ngọt ngào .

     

    Người sinh con trai thời bấy giờ cũng cất rượu chôn để đó . Thứ rượu này mang tên là "Trạng Nguyên hồng" . Ðó là họ mong con ngày sau đổ được Trạng Nguyên sẽ đem ra mở tiệc thết khách . Nhưng ở đời dễ có mấy ai đổ được Trạng Nguyên . Hầu hết là ngày sau người con trai đó làm lể thành hôn thì dùng rượu này làm tiệc cưới .

     

    Trong những tửu điếm cũng cất rưọu để bán , họ thường mượn tên Trạng Nguyên hồng hay Nữ nhi hồng .

     

    Gã thư dồng đở Tra Y Hoàng vào nội đường nằm ngũ . Còn lão khất cái uống rượu rồi lại ra đứng ngoài hiên .

     

    Sàng hôm sau Y Hoàng thức dậy vội ra coi người khất cái thấy y vẫn khoanh tay đứng y chổ cũ , nét mặt vui thưởng tuyết .

     

    Một cơn gió bất thổi qua khiến chop Y Hoàng rét run mà người khất cái thản nhiên như không thấy gì .

     

    Tra Y Hoàng nói :

     

    -Trời gió lạnh thế này mà quần áo huynh đài như vậy e rằng phong phanh quá !

     

    Y nói rồi cởi áo cừu của mình khoát vào người khất cái .

     

    Y Hoàng còn lấy mấy chục lạng bạc hai tay nâng cao ngang mặt nói :

     

    -Chút tiền nhỏ mọn này kính tặng huynh đài mua rượu uống , xin đừng từ chối . Khi gặp dịp cao hứng , mời huynh đài lại chơi uống rưọu . Ðêm qua tiểu đệ say quá , không kịp quét giường lưu khách , thật là ngạo mạn . Mong huynh đài thứ lổi cho .

     

    Tên khất cái cầm lấy tiền chỉ nói một câu :

     

    -Tiên sinh dạy quá lời .

     

    Rồi hắn băng băng ra đi , không một lời cảm ơn .

     

    Mùa xuân năm sau . Tra Y Hoàng đến Hàng Châu du ngoạn . Tiện đường y vào một tòa phá miếu thấy một quả chuông cổ rất lớn , ít ra nặng hơn ngàn cân .

     

    Tra Y Hoàng đang ngắm quả chuông và coi chữ khắc thì thấy một khất cái tiến vào . Tay trái hắn nám lấy quai chuông nhấc bỗng lên rồi lấy ra một bát thịt lớn và một hũ rượu đặt xuống bàn rồi thả chuông xuống như cũ .

     

    Tra Y Hoàng thấy người khất cái sức mạnh phi thường , không khỏi kinh hãi . Y chú nhìn lại thì đúng là tên khất cái đã vào nhà mình uống rượu ngày mưa tuyết năm trước liền cười hỏi :

     

    -Huynh đài không nhận ra tại hạ ư ?

     

    Tên khất cái quay đầu lại cười đáp :

     

    -Ô ! Té ra là hiếu liêm công . Bửa nay tại hạ xin làm chủ nhân cùng tiên sinh uống một bửa cho thỏa thích . Mời tiên sinh vào đây uống đi !

     

    Hắn vừa cầm hũ rượu đưa ra . Tra Y Hoàng đón lấy hũ rượu bằng sành uống một hớp rồi cười nói :

     

    -Chà ! Rượu của huynh đài mời thật ngon !

     

    Khất cái lại bốc một miếng thịt trong mể giơ lên hỏi :

     

    -Ðây là thịt chó . Tiên sinh có ăn được không ?

     

    Y Hoàng tuy cảm thấy dơ dáy , nhưng lại nghĩ thầm :

     

    -Ta đã là tửu hữu của y , nếu khước từ là tỏ ra khinh thị y .

     

    Y Hoàng nghĩ vậy giơ tay ra đón miếng thịt cắn một miếng ăn thấy ngon quá .

     

    Hai người ngồi trên manh chiếu rách trong tòa phá miếu . Hũ rượu đưa qua đưa lại mỗi người uống một hớp . Thịt trong bát cũng thò tay ra bốc lấy mà ăn . Chỉ trong chốc lát rượu thịt đều hết sạch .

     

    Khất cái cười khanh khách nói :

     

    -Ðáng tiếc là ít rượu quá không đũ làm hiếu lâm công say té nhào .

     

    Y Hoàng hỏi :

     

    -Nếu huynh đài cao hứng thì chúng ta đến tửu lâu uống nữa nhé ?

     

    Khất cái đáp :

     

    -Hay lắm ! hay lắm !

     

    Hai người đưa tay nhau tới tửu lầu cạnh Tây Hồ kêu lấy rượu uống . Chẳng bao lâu Y Hoàng lại say mèm ngã lăn ra . Khi tỉnh rượu thì thấy tên khất cái đã đi đâu mất rồi.


  6. 2. Phi Lộ 2

     

    Gặp thời loạn lạc thiếu gì tiểu nhân đắc chí còn bậc quân tử thường bị tai họa .

     

    Ngô Chi Vinh tri huyện Quy An , Hồ Châu , trong thời kỳ tại chức là người tham lam tàn ác , trăm họ đều căm giận , sau họ Ngô bị người tố giác , triều đình liền hạ lệnh cất chức hắn .

     

    Ngô Chi Vinh đã mất quan mà lúc ra đi còn quét thêm một mẻ . Hắn làm bộ con người thủy chung đến các nhà giàu trong huyện để cáo từ . Tới đâu hắn cũng nói là trong thời kỳ làm quan , hắn giử đạo thanh bần . Thậm chí bây giờ đứng lên cũng không còn đủ tiền lộ phí để trở về nguyên quán .

     

    Một số nhà giàu thấy hắn đến , đều muốn hắn đi ngay cho khuất mắt liền cho hắn , người thì dăm bảy lạng , kẻ vài nén , để khỏi phải mất thì giờ nói chuyện rườm rà .

     

    Ngô Chi Vinh vào nhà họ Lý xin trợ cấp . Chủ nhân Lý Hưu Minh là người chính nhân quân tử , ghét kẻ tham tàn như quân thù nghịch . Chẳng những không cho họ Ngô đồng nào mà còn dùng lời mai mỉa :

     

    -Khi các hạ làm quan ở Hồ Châu lấy tiền bạc của dân đâu phải ít ? Nhân dân Hồ Châu bị các hạ chà đạp cực kỳ khổ nhục . Lý mổ dù có thừa tiền cũng chỉ đem chuẩn tế dân nghèo hoặc giúp người bị tai nạn , chớ chẳng khi nào cho bọn tham ô .

     

    Ngô Chi Vinh đã không được tiền còn bị nhục mạ , nhưng đành ngậm hờn chớ không làm thế nào đưọc .

     

    Hắn lần mò vào trấn Nam Tâm giở trò vay mượn .

     

    Trong trấn này , Trang Doãn Thành vẫn kết giao với bọn văn nhân . Vinh mà lần mò tới họ liền buông lời chế riểu tên tham quan mà họ ghét cay ghét đắng này .

     

    Trang Doãn Thành cũng gói cho Ngô Chi Vinh hai lạng bạc và bảo hắn rằng :

     

    -Ðối với hành vi của các hạ lúc đương làm quan thì dù một vài lạng bạc cũng nên cho . Nhưng tại hạ nghĩ rằng trăm họ ở Hồ Châu mong các hạ đi sớm giờ nào hay giờ ấy , vậy đây là tiền tiển chân để các hạ lên đường cho lẹ .

     

    Ngô Chi Vinh tức giận vô cùng ! Bất giác hắn đưa mắt thấy trên bàn có để bộ Minh Thư Tập Lược , liền bụng bảo dạ :

     

    -Lão Trang này vốn tính ưa nịnh , tham danh hảo huyền . Ta thường nghe nói ai mà phỉnh hắn một câu là hắn hai tay nâng bọc tặng người , không hề nhăn mặt nhíu mày .

     

    Ngô Chi Vinh nghĩ vậy liền tươi cười nói :

     

    -Trang ông đã ban cho thì dù ít dù nhiều nếu tại hạ khước từ cũng là bất kính . Bửa nay tại hạ từ biệt Hồ Châu . Ðiều đáng tiếc là chưa có được một bộ sách "Của báu Hồ Châu" đưa về để bọn hủ lậu thôn quê coi cho mở rộng tầm mắt .

     

    Trang Doãn Thành hỏi :

     

    -Của báu Hồ Châu là cuốn sách gì ?

     

    Ngô Chi Vinh đáp :

     

    -Trang ông chẳng nên khiêm nhượng quá cở . Trong bọn sĩ lâm còn ai không biết bộ Minh Thư Lược Tập do thủ bút của lệnh lang là Kiến Long công tử đã soạn ra . Pho sách này về sử liệu cũng như về bút pháp đều cực kỳ hoàn bị . Thật là một pho sách xưa nay hiếm có , nên người ta bảo là : " Tả , Mã , Ban , Trang là bốn đại sử gia tự cổ chí kim " .Của báu Hồ Châu dĩ nhiên là pho sách Minh Thư Lược Tập do thủ bút của lệnh lang soạn thảo .

     

    Ngô Chi Vinh một điều nói "Do thủ bút của lệnh lang soạn thảo" hai điều nói "Do thủ bút của lệnh lang soạn thảo" khiến Trang Doãn Thành nở mặt nở mày .

     

    Tuy lão biết rõ pho sách đó không phải do chính tay con lão soạn thảo nên trong lòng có ý hối tiếc , nhưng lời nóí của Ngô Chí Vinh cũng làm cho lão mát ruột .

     

    Trang Doãn Thành nghĩ thầm trong bụng :

     

    -Ai cũng bảo thằng cha này là tên mọt dân hại nước , tiểu nhân tục tằn . Dù sao hắn cũng là người có học và hiểu biết . Té ra bên ngoài họ ca tụng cuốn sách của Long nhi là "của báu Hồ Châu" . Thế mà nay mình mới nghe hắn nói là một .

     

    Lão liền tươi cười hỏi :

     

    -Vinh ông nói cái gì mà Tả , Mã , Ban , Trang là bốn đại sử gia ? Tiểu đệ chưa rõ , xin Vinh ông chỉ giáo .

     

    Ngô Chi Vinh thấy Trang Doãn Thành bộ mặt ra chiều hớn hở liền biết lão đã mắc mưu thì trong bụng mừng thầm . Hắn thủng thỉnh đáp :

     

    -Hà tất Trang ông quá khiêm tốn . Tả Khâu Minh làm sách "Tả Truyện" Tư Mã Thiên soạn pho "Sử ký" . Ban Cố làm sách "Hàn Thu" . Những tác phẩm này nổi danh truyền tụng đã tới ngàn năm . Sau Ban Cố có thể nói không cón có đại sử gia nào nữa , Âu Dương Tu có soạn sách "Ngũ đại sử" Tư Mã Quan soạn sách "Tư trị thông giảm" Mấy pho này văn chương có phần lổi lạc nhưng về sử liệu và kiến thức chưa được dồi dào lại có chổ sai trật . Mãi đến đời thịnh thế nhà Ðại Thanh ta mới có lệnh lang soạn được bộ Minh Thư Tập Lược là một tác phẩm rực rỡ nhất trong vòng ngàn năm nay . Dân chúng và nhân sĩ đưa lệnh lang lên ngang hàng với các vị Tả Khâu Minh , Tư Mã Thiên , Ban Cố . Vì thế mà có câu 'Tả , Mã , Ban , Trang" tứ đại sử gia . Trang Doãn Thành cười khanh khách nói :

     

    -Vinh ông tán dương một cách sai lầm rồi đó . Nếu bảo Minh Thư Tập Lược là "của báu Hồ Châu" lại càng không xứng đáng .

     

    Ngô Chi Vinh nghiêm nghị hỏi :

     

    -Sao lại không đáng ? Người ta còn nói : "Trong Hồ Châu tam bảo sử thì pho của họ Trang là đệ nhất , chẳng lẻ tiên sinh không nghe thấy hay sao ? " .

     

    Tơ tầm và bút lông là đại sản phẩm của Hồ Châu nổi tiếng khắp thiên hạ . Ngoài ra còn một thứ danh sản nữa là bánh chưng , nhưng chỉ nổi tiếng ở Giang Nam , còn người ở nơi xa ít ai biết tới .

     

    Ngô Chi Vinh tư cách đã hèn nhưng cũng có chổ tài tình là xuất khẩu thành chương , nói năng lưu loát . Lão đưa bộ "Trang sử" (bộ sử của họ Trang) lên ngang hàng với tơ tầm và bút lông và kêu bằng "Hồ Châu tam bảo" .

     

    Trang Doãn Thành nghe hắn nói cũng nức lòng hả dạ .

     

    Ngô Chi Vinh lại nói :

     

    -Tiểu đệ đến quý xứ làm quan , đứng dậy hai bàn tay không , chẳng được chút gì . Bửa nay mặt dạn mày dày xin Trang ông một bộ Minh sử để làm của báu truyền đời cho nhà họ Ngô . Ngày sau con cháu sớm hôm coi đọc , tất nhiên kiến thức tiến triển làm rực rở tông môn cũng là nhờ Trang ông ban cho rất hậu vậy .

     

    Trang Doãn Thành cười đáp :

     

    -Những cái đó dĩ nhiên tại hạ kính tặng .

     

    Ngô Chi Vinh lại nói chuyện mấy câu nữa mà chẳng thấy Trang Kiến Thành có cử động gì . Hắn trở lại tán tụng pho Minh sử một lúc nữa .

     

    Thực ra Ngô Chi Vinh chưa đọc một trang nào trong pho sách này mà chỉ ăn cố nói mò .

     

    Trang Doãn Thành nói :

     

    -Xin Vinh ông hãy ngồi chơi một chút .

     

    Rồi lão quay người vào nội đường . Lát sau một tên gia đinh bưng ra một bọc đặt xuống bàn .

     

    Ngô Chi Vinh chưa thấy Trang Doãn Thành trở ra , vội thò tay nắn bóp cái bọc rồi nhấc lên coi .

     

    Cái bọc tuy lớn mà nhẹ xọp . Hiển nhiên chẳng có tiền bạc gì . Trong lòng hắn rất là thất vọng .

     

    Lát sau Trang Doãn Thành trở ra sãnh đường , hai tay bưng cái bọc lên cười nói :

     

    -Vinh ông đã ưa mấy món thổ sản của tệ xứ thì tại hạ xin kính tặng .

     

    Ngô Chi Vinh cảm ơn rồi cáo từ đi ra . Hắn về tới quán trọ việc đầu tiên là thò vào trong bọc thì chỉ thấy có một bộ sách , một bó lụa và mấy chục cây bút . Hắn đã phí bao nhiêu nước bọt tán dương là trong bụng chắc mẫm là ngoài pho Minh sử , Trang Doãn Thành sẽ còn tặng thêm vài trăm lạng bạc . Ngờ đâu lão họ Trang chỉ cho mấy món Hồ Châu tam bảo sơ sài này , hắn mắng thầm trong bụng .

     

    -Mẹ kiếp ! Thằng cha này giàu có như vậy mà khí cục nhỏ nhen . Mình nói sùi bọt mép mà hắn chẳng cho chút tiền bạc nào . Cũng có khi tại mình dại không biết nói rõ Hồ Châu tam bảo là vàng bạc và Minh sử thì lại được tiền chưa biết chừng ?

     

    Hắn liệng cái bọc xuống bàn rồi nằm lăn ra ngũ .

     

    Lúc Ngô Chi Vinh tỉnh dậy thì trời đã tối mịt . Những khách hàng trong quán đều đến giờ ăn tối . Hắn vừa buồn bực vừa đói bụng cũng kêu nhà hàng lấy cơm canh cho ăn .

     

    Ngô Chi Vinh mở pho Minh Thư tập lược ra coi .

     

    Hắn mới coi vài trang đột nhiên trước mắt ánh vàng lấp loáng , hiển nhiên là tấm vàng lá xuất hiện .

     

    Ngô Chi Vinh trống ngực đánh thình thình , hắn dụi mắt coi kỹ lại thì đúng là vàng lá thiệt . Hắn liền run tay bần bật giử sách thì mười lá vàng rớt xuống . Mỗi lá là năm vạn hoàng kim .

     

    Thời bấy giờ vàng rất quý . Năm lạng vàng đáng giá năm trăm lượng bạc .

     

    Ngô Chi Vinh lúc làm tri huyện huyện Tri An tuy thu nhặt nhiều được hơn vạn lượng bạc , nhưng khi bị cách chức hắn còn phải đút lót khắp nơi để khỏi bị xử trị . Món tiền tham nhũng trên một vạn lượng bạc đã hết nhẳn . Bây giờ hắn được đến năm lạng hoàng kim thì trong lòng mừng rở kể sao cho xiết . Hắn nghĩ thầm :

     

    -Lão họ Trang quả nhiên giảo quyệt . Hắn sợ mình lấy bộ sách về rồi vứt bỏ không thèm mở đến , nên hắn kẹp vàng lá vào trong sách để kể nào đọc bộ sách của con hắn là có phước lấy được vàng . Phải rồi ta đọc mấy thiên trong sách . Sáng mai lại vào tạ ơn cho vàng , đồng thời thuộc lòng mấy đoạn trong cuốn sách này để tán dương công trình của nhà hắn . Hắn nức lòng sẽ cho mình thêm mấy vạn lạng vàng nữa cũng chưa biết chừng .

     

    Ngô Chi Vinh nghĩ thế liền khêu đèn lên cho sáng để đọc sách .

     

    Hắn đọc tới năm Vạn lịch nhà Minh , rồi sau Kim thái tổ là Nổ Nhi Cập Xích lên ngôi quốc hiệu là Kim , dựng năm đầy lấy hiệu là Thiên Mệnh .

     

    Ðột nhiên trong lòng hắn run lên bụng bảo dạ :

     

    -Ðức Thái Tổ lập ra cơ nghiệp năm bính thìn . Vậy từ năm tỵ không nên dùng đến niên hiệu Minh triều mà phải nói là Ðại Kim Thiên Mệnh nguyên niên mới đúng .

     

    Ngô Chi Vinh lật sách coi tiếp thì năm đinh mão , Kim Thái Tôn lên ngôi rồi , niên hiệu là Thiên Thông . Vậy mà trong sách vẫn nói "năm Thiên Khởi thứ 7 nhà Minh " chớ không đề "Ðại kim Thiên Thông nguyên niên" .

     

    Sau năm bính tý nhà Kim đổi quốc hiệu là Ðại Thanh , đổi niên hiệu là Sùng Ðức thế mà pho sách này vẫn nêu "Sùng Trinh năm thứ 17" mà không đề "Ðại Thanh Thuận Trị nguyên niên" .

     

    Ngô Chi Vinh xem tới đoạn : Sau khi quân Thanh vào quan ải rồi , về năm ất dậu , trong sách còn nêu "Long Võ nguyên niên" .

     

    Ðến năm đinh hợi trong sách viết "Vĩnh Lịch nguyên niên" . Long Võ và Vĩnh Lịch là niên hiệu của Minh Ðường vương và Minh Quế vương .

     

    Hiển nhiên người làm sách vẫn coi Minh triều là chính thống chớ chẳng coi nhà Thanh vào đâu .

     

    Ngô Chi Vinh coi tới đây bất giác vổ bàn la lên :

     

    -Hỏng rồi ! Hỏng rồi ! Thế này không được !

     

    Ngô Chi Vinh đập bàn một cái ngọn đèn dầu chấn động ngã lăn ra , hắn và vạt áo đều bị dầy dầu , đèn lửa tắt ngấm .

     

    Trong bóng tối đột nhiên hắn chấn động tâm thần , bất giác mừng rở .

     

    -Phải chăng đây là cao xanh ban cho ta một phen đại phúc ? Thăng quan phát tài đều ở chuyến này .

     

    Hắn nghĩ tới chổ nức lòng hở dạ , bất giác hô hoán lên om xòm.

     

    Bổng nghe có tiếng khách trọ phòng bên cạnh đập cửa la gọi :

     

    -Khách quan ! Chuyện gì vậy ?

     

    Ngô Chi Vinh cười đáp :

     

    -Không có chi hết .

     

    Rồi hắn thắp đèn lên lại , mở sách ra coi tiếp . Mãi đến lúc gà gáy hắn để yên quần áo lên giường nằm . Hắn nghĩ tới 7,8 chục chổ trong sách có văn tự phạm húy và bị cấm kỵ rồi hắn cười khề khề không ngớt .

     

    Nên biết mỗi khi thay đổi một triều đại , tất cả các giấy tờ phải để ý đến niên hiệu đương kim . Tỷ như ngày nay trên đại lục người nào làm văn dài hoặc viết giấy mà vì vô tình nêu "Trung Hoa Dân Quốc năm thứ...." là tất bị tai vạ đến thân . Dù đó là thuật việc lịch sử về những năm Dân Quốc cũng không được . Gặp trường hợp này phải viết : "Năm Thuận Trị , Khang Hy triều Thanh" mới vô tội vạ .

     

    Ðây mới là nói trong những văn tự thông thường đã phạm tội dẫn dụ người ta nhớ tới triều đại trước .

     

    Pho Minh Thư Tập Lược đã trước thuật công việc của đòi Minh cấm ngặt cả văn tự thì lại là một mối họa lớn .

     

    Những người học giả văn sĩ tham dự vào việc biên soạn đa số chỉ giúp mỗi ngưới vai thiên , chớ chưa kịp tham duyệt toàn bộ . Mấy vị soạn những thiên tối hậu vốn căm hờn triều Thanh thấu xương , nên không dùng niên hiệu nhà Ðại Thanh . Trang Kiến Long vì hai mắt đui mù không thể phát giác được nên bị bọn tiểu nhân thừa cơ hội nước đục thả câu .

     

    Trưa hôm sau Ngô Chi Vinh liền mướn thuyền đi về phía Ðông xuống Hàng Châu . Hắn vào quán trọ viết thiếp cùng tờ bẩm và đưa cả pho sử vào cho tướng quân Tùng Khôi trong phủ .

     

    Hắn chắc mẩm Tùng Khôi nhận đưọc thiếp sẽ mời vào ngay vì lúc nhà Mãn Thanh đang truy thám rất gắt gao bọn phản nghịch . Ai cáo tố đều được thưởng rất hậu .

     

    Ngô Chi Vinh tưởng mình lập được công lớn này có thể phục hồi quan chức , không chừng còn được hoàng đế cho thăng lên ba bậc .

     

    Không ngờ hắn chờ trong khách điếm đến nữa năm cũng chẳng thấy tin tức gì . Hàng ngày hắn đến phủ tướng quân để nghe ngóng tin tức mà vẫn như đá chìm đáy biển . Thậm chí về sau bọn canh giử môn phòng không cho hắn vào nữa .

     

    Ngô Chi Vinh trong lòng nóng nãy vô cùng , lại thấy số vàng lá mà Trang Doãn Thành tặng cho đã đổi bạc tiêu xài gần hết . Việc cáo trạng không được một chút xíu gì kết quả , hắn vừa phiền não vừa kỳ dị .

     

    Một hôm hắn đi chơi trong thành Hàng Châu qua thư cụ Văn Thông , hắn lần mò coi sách để giết thì giờ . Bỗng hắn nhìn thấy trên vựa sách có ba bộ Minh Thư Tập Lược thì nghĩ thầm trong bụng :

     

    -Chẳng lẻ chổ ta bới móc chưa đũ để đánh ngã Trang Doãn Thành chăng ? Vậy ta phải tìm thêm những chổ văn tự đại nghịch bất đạo và sáng mai lại viết thiếp đưa vào phủ tướng quân nữa xem sao .

     

    Nên biết quan tuần phủ Triết Giang là người hán tộc . Còn tướng quân là người Mãn Châu . Ngô Chi Vinh sợ quan tuần phủ không thụ lý vụ này nên mới đưa cáo giác vào phủ tướng quân .

     

    Ngô Chi Vinh mở sách ra coi mới được vài trang đã giật bắn cả người lên . Toàn thân lạnh ngắt như té vào hồ băng . trông hắn lúc này không khác nhà sư đang vò vò cái đầu trọc . Vì hắn thấy không những văn tự phạm luật cấm kỵ trong sách không còn tăm tích gì nữa mà kể từ ngày Thanh Thái Tổ mở nước sắp xuống trong sách đều đổi niên hiệu nhà Ðại Kim Ðại Thanh . Cả đến việc công kích Châu Vệ đô đốc (một vị thân thích với tổ tông nhà Ðại Thanh) cùng những văn tự viết bằng chữ lớn như niên hiệu Long Võ , Vĩnh Lịch đều mất sạch. Những trang sách được đóng vào rất kỹ càng rất sạch sẽ không một vết tẩy xóa . Cuộc biến hóa này thật là kỳ quái !

     

    Ngô Chi Vinh hai tay cầm cuốn sách dứng ngơ ngẩn xuất thần trong thư quán hồi lâu . Bất giác hắn lớn tiến la :

     

    -Phải rồi !

     

    Hắn thấy những trang giấy trong sách còn trắng tinh và mới toanh liền hỏi chủ nhân thì quả nhiên những sách này của nhà xuất bản Hồ Châu mới đưa tới chừng bảy tám bửa .

     

    Ngô Chi Vinh bụng bảo dạ :

     

    -Thằng cha Trang Doãn Thành thật là ghê gớm ! Thế mới biết tiền bạc có phép thần thông . Hắn thu hết sách cũ về khắc lại sách mới , đem bao nhiêu những văn tự phản nghịch trong sách cửa đổi và san khắc lại . Chẳng lẻ vụ này mình chịu bỏ qua ?

     

    Quả nhiên những điều phỏng đoán của Ngô Chi Vinh rất đúng . Nguyên quan tướng quân Tùng Khôi là người Mãn Thanh không hiểu Hán tự . Một vị sư gia làm tân khách ở phủ tướng quân không muốn làm thành to chuyện , liền đem sách và thiếp của Ngô Chi Vinh bẩm lên quan tuần phủ Triết Giang để xin tuần phủ đại nhân tra xét .

     

    Vị tân khách ở phủ tướng quân họ Trình tên Duy Phiên là người phủ Thiệu Hưng tỉng Triết Giang .

     

    Trải hai triều đại Minh và Thanh , những tân khách trong phủ mười người có đến tám chín người nguyên quán ở Thiệu Hưng . Vì thế mới có hai chữ "sư gia" dùng để trỏ tân khách ở Thiệu Hưng . Người ta còn kêu bằng Thiệu Hưng sư gia .

     

    Những vị sư gia này đã theo đòi các bậc tiền bối đồng hương học được nhiều bí quyết hành nghề , nên xử lý mọi việc hình án cùng quân lương rất là chu đáo .

     

    Bao nhiêu công văn đều do tay sư gia thảo .

     

    Quan lại đã là người đồng hương thì những viên chức cấp dưới có công văn trình lên ít khi bị bác bỏ , vì thế mà những vị quan lớn nhỏ mới đến nhậm chức đều đưa lễ hậu , vàng bạc đón mời một vị "Thiệu Hưng sư gia" .

     

    Hai triều Minh , Thanh những người ở phủ Ðại Hưng làm quan to cũng không có nhiều , nhưng về việc thao túng mọi chính sự trong ? ? ? ? năm nay đã chiếm một trang kỳ tích trên lịch sử ? ? Trung Hoa .

     

    Trình Duy Phiên cũng là một người trung hậu , lại là một người làm việc đắc lực ở cửa công . Nói như vậy tức là quyền sinh sát , tuy ở trong tay quan phủ , nhưng sư gia thảo văn án cũng rất hệ trọng . Chỉ thêm bớt mấy chữ là có thể làm cho phạm nhân biến thành án nặng khiến trăm họ nhà tan cửa nát . Hoặc ngược lại , họ có thể cứu gở cho người thoát khỏi tội tử hình . Cũng vì thế mà có tiếng cửa công cứu người so với hiệu lực tu hành tại chùa chiền còn lớn hơn nhiều .

     

    Trinh Duy Phiên thấy vụ án Minh sử mà gây thành việc lớn thì không biết đến bao nhiêu người ở Tô Nam và Triết Tây phải nhà tan người chết .


  7. Huỳnh Tôn Hy nói :

     

    -Vụ "Minh Sử" đó khiến cho bọn danh sĩ Triết Tây chúng ta suýt bị mắc vào độc thủ hết . Chính sách của nhà Thanh rất tàn ác mà danh vọng Vãn Thôn huynh lại quá lớn . Ðình Lâm huynh cùng tiểu đệ cố ý đến đây khuyên Vãn Thôn huynh tạm thời ra khỏi nhà đi chơi xa để tránh cơn phong ba này ít lâu là hơn .

     

    Lã Lưu Lương hằn học nói :

     

    -Những ngày ở dưới quyền cai trị của bọn Thát Ðát (một bộ lạc phía Bắc nước Tàu , tức xứ Mông Cổ bây giờ) chó lợn kia thì thật sống không bằng chết . Hoàng đế Mãn Thanh nếu bắt được tiểu đệ đem về Bắc Kinh thì dù có bị bọn chúng băm vằm cũng thóa mạ không tiếc lời cho hã lòng căm tức rồi chịu chết .

     

    Cố Viêm Võ nói :

     

    -Vãn Thôn huynh hào khí ngất trời khiến cho bọn tiểu đệ rất khâm phục , nhưng tiểu đệ e rằng mình được thấy mặt hoàng đế Mãn Thanh , mà lại chết về tay bọn nô bộc đê tiện . Hơn nữa , hoàng đế Mãn Thanh chỉ là đứa trẻ nít chẳng hiểu chút gì . Bao nhiêu quyền chính trong triều đều do tên quyền thần Ngao Bái thao túng . Tiểu đệ cùng Lê Châu huynh nghĩ rằng chuyến đi này bọn chúng đem vụ án "Minh Sử" khua chuông gỏ mõ để làm nhục nhuệ khí nhân sĩ Giang Nam chúng ta là do ý muốn của họ Ngao .

     

    Lã Lưu Lương nói :

     

    -Ý kiến của hai vị rất đúng , Từ ngày quân Thanh vào qua quan ải hoành hành rất tàn nhẫn ở Giang Bắc mà không gặp sự gì ngăn trở . Khi chúng đến Giang Nam thì chổ nào cũng bị phản kháng , nhất là bọn văn nhân lại gia tâm đề phòng và quấy nhiễu bọn chúng không ngớt . Ngao Bái nhân cơ hội này liền ra sức uy hiếp sĩ tử Giang Nam . Hừ ! Lửa thiêu không chết hết được cỏ , mùa gió Xuân lại nẩy , trừ phi hắn đem bao nhiêu văn nhân sĩ tử Giang nam giết sạch sành sanh thì mới không còn người chống đối .

     

    Huỳnh Tôn Hy nói :

     

    -Phải rồi ! Vì thế mà bọn ta cần lưu lại tấm thân hữu dụng để xoay nhau tới cùng với bọn Thát Ðát . Nếu chúng ta trong lúc nhất thời mà nổi huyết khí , sinh cường , tức là mắc mưu bọn Thát Ðát đó .

     

    Lã Lưu Lương nghe nói tỉnh ngộ tự nhủ :

     

    -Hai vị huynh đệ Huỳnh , Cố chịu khó rét mướt đến vùng này một là để kiểm tra Y hoàng , hai là để khuyên ta đi ẩn lánh , Họ sợ mình trong lúc lúc nóng nảy không nín nhịn được , tự rướt lấy cái chết vô ích . Nổi khổ tâm của bạn hiền thật đáng cảm kích !

     

    Y nghĩ vậy liền hỏi :

     

    -Những lời vàng đá của hai vị nhân huynh , khi nào tiểu đệ chẳng tuân theo ? Sáng sớm mai cả nhà tiểu đệ sẽ đi lánh nạn .

    Hai vị Huỳnh , Cố cả mừng đồng thanh nói :

     

    -Phải vậy mới được .

     

    Lã Lưu Lương trầm ngâm một lúc rồi hỏi :

     

    -Có điều tiểu đệ chưa biết phải nên đến xứ nào ẩn lánh cho phải ?

     

    Ý nghĩ đến bên trời mờ mịt khắp thiên hạ chổ nào cũng có bọn Thát Ðát khó lòng tìm được nơi yên ổn , bất giác lẩm bẩm :

     

    Ðào nguyên nào biết nơi đâu để ẩn lánh bọn cuồng Tần đạo được .

     

    Cố Viêm Võ nói :

     

    -Giả tỷ mà trên đời này mà có chốn đào nguyên an lạc thì chúng ta cũng chẳng thể tự do lấy thân mình mà tới đó ẩn lánh được ....

     

    Lã Lưu Lương không chờ Cố Viêm Võ nói hết lời đã vổ bàn lớn tiếng :

     

    -Ðình Lâm huynh nói vậy khiến tiểu đệ nhớ tới câu "Quốc gia hưng vong , thất phu hữu trách" . Nếu chúng ta tìm đến đào nguyên để hưỡng thú tiêu dao tự tại mà bỏ mặc hàng triệu bách tính cho gót sắt của bọn Thát Ðát dày xéo thì yên tâm thế nào được ? Tiểu đệ lở lời xin nhân huynh lượng thứ .

     

    Cố Viêm Võ mĩm cười nói :

     

    -Mấy năm nay tiểu đệ bôn tẩu giang hồ , kết giao bằng hữu rất nhiều . Hai miền Nam Bắc sông Ðạt Giang , chẳng những văn nhân sĩ tử mới phản đối bọn Thát Ðát mà đến bọn lao động ở chốn thôn quê nơi nào cũng đằy những người lòng hào kiệt . Nếu Vãn Thôn huynh đồng ý thì ba người chúng ta kết bạn cùng đi Dương Châu . Tiểu đệ sẽ dẫn nhân huynh tới gặp mấy người đồng đạo được chăng ?

     

    Lã Lưu Lương cả mừng đáp :

     

    -Thế thì tuyệt diệu ! Sáng mai chúng ta cùng đi Dương Châu , Hai vị hãy ngồi chơi một chút , tiểu đệ vào nói cho nội nhân hay , để y thu xếp hành trang .

     

    Chẳng bao lâu , Lã Lưu Lương trở ra thư phòng nói :

     

    -Mời hai vị vào sãnh đường dùng cơm . Ðây là bửa cơm thường , không hết tình địa chủ tiểu đệ rất áy náy !

     

    Cố Viêm Võ cười nói :

     

    -Tiểu đệ biết diệu thuật nấu nướng của tẩu tẩu chẳng thua gì văn học của Vãn Thôn huynh . Hai năm trước tiểu đệ đã được nếm qua những món thịnh soạn của tẩu tẩu , mỗi khi nhớ lại thèm đến nhỏ nước miếng . Bửa nay bọn tiểu đệ đến đây một cách đột ngột chỉ mong được ăn một bửa cơm thường của Lã gia là đũ rồi .

     

    Huỳnh , Cố hai người vừa khen không ngớt miệng .

     

    Ba người cơm nước xong trở ra thư phòng , Lã Lưu Lương hỏi :

     

    -Về vụ án Minh Sử , bên ngoài đồn đại xôn xao nhưng một là lời đồn chưa chắc đã đúng sự thực , hai là người thuật chuyện vẫn đầy lòng úy kỵ không dám nói hết . Tiểu đệ ở đây khác nào ếch nằm đáy giếng nên không biết tường tận , xin hai vị nhân huynh cho biết đầu đuôi được chăng ?

     

    Cố Viêm Võ thở dài đáp :

     

    -Pho Minh Sử này bọn tiểu đệ đã được đọc rồi . Trong sách có nhiều đoạn tỏ ra thất kính với bọn Thát Ðát là chuyện có thực .

     

    Y ngừng lại một chút rồi tiếp :

     

    -Pho sách này do tay quan tướng quốc nhà Ðại Minh chúng ta là Chu Quốc Trinh soạn ra . Pho sách này còn nói cả đến Kiếm Châu Vệ ngoài quan ải đối xử với bọn Thát Ðát như thế nào .

     

    Lã Lưu Lương gật đầu đáp :

     

    -Tiểu đệ cũng nghe nói nhà họ Trang ở Hồ Châu đã tốn mấy ngàn lượng bạc mới mua được bản thảo pho Minh Sử ở trong tay người thừa kế của Châu tướng quốc đem về san khắc . Không ngờ vì thế mà gây nên đại họa .

     

    Tỉnh Triết Giang chia làm hai miền là Triết Tây và Triết Ðông .

     

    Triết Tây có ba phủ Hàng , Gia , Hồ , kêu bằng Hạ tam phủ .

     

    Triết Ðông gồm tám phủ : Ninh , Triệu , Thái , Kim , Cù , Nghiêm , Ôn , Sử , gọi là thượng bát phủ .

     

    Ba phủ Hàng Châu , Gia Hưng và Hồ Châu ở vào khu vực bến Thái Hồ , địa thế bằng phẳng , đất đai phì nhiêu nên sản xuất được nhiều lúa gạo , tơ tầm . Chổ phủ Hồ Châu ngày trước nay là huyện lỵ huyện Ngô Hưng .

     

    Nhà Thanh lại chia huyện Ô Hưng thành hai huyện Ô Trinh và Quí An . Cả mấy triều đại qua , Hồ Châu đã sản xuất ra nhiều danh sĩ .

     

    Ðời nhà Lương cũng rất nhiều tay thư họa nổi tiếng . Triệu Mạnh Phủ cũng là người Hồ Châu . Triệu dùng hai chữ Hồ Châu làm bút hiệu là mượn tên đất này .

     

    Người ta thường nói :

     

    -Bút Hồ Châu , mực Huy Châu , giây Tuyên Thành , nghiên Triệu Khánh là văn phòng tứ bảo nổi tiếng nhất .

     

    Trong phủ Hồ Châu có trấn Nam Tâm . Tuy nó chỉ là một trấn nhưng còn lớn hơn những châu huyện nhỏ . Trong trấn này có rất nhiều nhà giàu . Trang gia cũng là một đại phú nổi danh ở trấn Nam Tâm .

     

    Nhà đại phú Trang Doãn Thành sinh hạ mấy người con . Người con trưởng của Doãn Thành là Trang Kiến Long ham mê thơ , họa từ thuở nhỏ . Chàng kết giao với rất nhiều danh sĩ ở Giang Nam .

     

    Ðến đời Thuận Trị , Trang Kiến Long vì ham mê đọc sách mà thành hư mắt . Từ đó chàng đâm ra buồn bã , chán nãn sự đời .

     

    Một hôm có chàng thiếu niên họ Chu ở gần nhà đem bộ thủ Cảo đến cầm để mượn mấy trăm lạng bạc . Theo lời gã đó thì đó là một bản di Cảo của tổ phụ để lại . Tổ phụ gã chính là Chu Quốc Trinh , tướng quốc đời nhà Minh .

     

    Trang gia vốn sẳn lòng hào hiệp nên thấy chàng thanh niên là dòng dỏi Châu tướng quốc liền chiếu cố ngay . Trang Kiến Long vui lòng cho mượn tiền mà không cần giử di Cảo để làm tin .

     

    Nhưng gã họ Chu nói là mượn tiền để đi chơi xa . Nếu đem di Cảo của tổ tiên đi theo thì e rằng dễ bị thất lạc . Còn để di Cảo ở nhà cũng không yên dạ . Gã năn nỉ được gởi lại thảo Cảo của tổ tiên tại Trang gia cho chắc chắn .

     

    Cha con Trang Doãn Thành thấy gã thực tình gửi sách nên mới nhận giử cho . Gã thiếu niên họ Chu đi rồi , Trang Doãn Thành muốn giải lòng phiền muộn cho Kiến Long liền nuôi khách trong nhà để đọc sách cho con nghe .

     

    Khách đem di cảo nhà họ Chu ra đọc thì ra đó là bản thảo Minh Sử của Chu Quốc Trinh . Phần lớn trong pho thảo cảo này đã in thành sách và lưu truyền khắp nơi . Cuốn di cảo mà thiếu niên họ Chu cầm cho Trang gia có rất nhiều liệt truyện .

     

    Trang Kiến Long nghe khách đọc mấy ngày rất lấy làm hứng thú , chàng tự nhủ :

     

    -Ngày trước Tả Khâu Minh cũng bị đui mắt , sau lượm được pho Tả truyện mà để tiếng ngàn thu . Âu là ta biên soạn pho sử này để lưu truyền cho hậu thế .

     

    Nhà đại phú làm gì cũng dễ . Trang kiến Long đã nẩy ra ý nghĩ làm sách liền sai người đem sính lễ đi mời những tay danh sĩ về đọc từng thiên hết bộ Minh sữ cho chàng nghe . Chàng nhận thấy có nhiều chỗ nên thêm vào hay bớt đi liền đọc cho những tân khách ghi chép . Tuy nhiên chàng lại tự nghĩ :

     

    -Mình bị đui mắt không đọc được nhiều sách vở để khảo cứu mà đã đem bộ Minh sử này biên soạn và san khắc thì nội dung chẳng khỏi có chổ sai lầm , soạn sử mà sai trật tất bị người chê cười , chứ đừng nói đến chuyện thành danh .

     

    Trang Kiến long nghĩ vậy lại phí rất nhiều tiền mời những bậc danh nho soạn thảo lại để thành một pho sử hoàn toàn .

     

    Ðối với những nhà bác học dĩ nhiên phải tiền nhiều lễ hậu mới mời được . Trang Kiến Long đã tâm thành soạn sách, nên chàng rất kiên nhẫn không ngại tốn kém .

     

    Bến Thái Hồ vốn là một đất văn vật cực thịnh , chẳng thiếu gì túc nho bác học . Họ nhận lời mời của Trang gia liền tới coi . Một là họ thương tình Trang Kiến Long đui mắt mà tâm thành , hai là soạn sử sách là việc tốt đẹp nên họ đều ở lại Trang gia làm tân khách .

     

    Trong vòng nửa tháng người soạn cứ soạn , người nhuận chính cứ nhuận chính . Lại một số người phụ trách việc viết ra từng thiên . Vì thế mà pho Minh sử này là một bộ sách tập hợp rất nhiều tay đại thủ bút .

     

    Pho sử soạn chưa xong được bao lâu thì Trang Kiến Long từ trần . Trang Doãn Thành vì lòng thương con liền đem pho sách mà Trang Kiến Long đã hao tốn rất nhiều tâm huyết ra sao khắc và in thành sách .

     

    Muốn in một pho Minh sử thật không phải chuyện dễ dàng chóng vánh . Trước hết phải tìm thợ khắc chữ vào bản gỗ rồi sau mới mướn thợ in đem ra ấn loát .

     

    Trang Doãn Thành in pho Minh sử này rất công phu . Thợ khắc thợ in phải dùng đến rất nhiều . May Trang gia đã có nhiều tiền , nhà cửa laị rộng rãi đủ làm một công trường in sách .

     

    Tuy hằng ngày rất nhiều thợ làm mà cũng phải mất mấy năm trời mới in xong pho sách . Pho sách này lấy nhan đề là Minh Thư Tập Lược . Trang Kiến Long được nêu tên là soạn giả .

     

    Danh sĩ Lý Kim Tích đề tựa .

     

    Ngoài ra mười tám người góp công góp sức vào việc soạn sách cũng được đề tên :

     

    Mao Nguyên Minh.

     

    Ngô Chí Minh

     

    Ngô Chí Dũng

     

    Mao Thứ Lai

     

    Ngô Sở

     

    Ðường Nguyên Lâu

     

    Nghiêm Văn Khởi.

     

    Tường Văn Vi.

     

    Vi Kim Hựu.

     

    Vi Nhất Viên.

     

    Trương Huề.

     

    Huỳnh Nhị Dậu.

     

    Ngô Viêm.

     

    Phan Thánh Chương.

     

    Lục Kỳ.

     

    Tra Kế Tá.

     

    Phạm Tương .

     

    Lý Như Ðào .

     

    Trong sách nhắc cả đến nguyên cảo của pho sử này của họ Chu rồi đem thêm bớt mà soạn ra , Vì Chu quốc Trinh, tướng quốc trìều nhà Minh là nhân vật quan cao chức cả nên không tiện viết thẳng tên ông vào mà chỉ đề một cách hàm hồ là Chu Thị Nguyên Cảo .

     

    Hiện nay nhà Minh mới mất , nhiều người luyến tiếc rất ham đọc pho Minh sử này . Ai cũng lấy làm khoan khoái .

     

    Minh Thư Tập Lược đã được nhiều nhà bác học lấy bản thảo của Chu Quốc Trinh soạn thảo , chọn lọc thêm bớt thành một pho sách thể lệ đầy đủ mà cách trình bày lại rất rõ ràng . Nhà họ Trang còn kén người chữ tốt viết ra nên nó thành pho sách tận thiên tận mỹ .

     

    Minh Thư Tập lược sau khi xuất bản được rất nhiều người ưa chuộng , tin đồn lan ra khắp nơi . Nhà họ Trang đã sẳn tiền tài chỉ muốn dương danh nên sách bán giá rất hạ , số đông dân chúng đều mua được .

     

    Thanh danh Trang Kiến Long nổi lên như sóng cồn . Trang Doãn Thành thấy tiếng tăm của Trang Kiến Long lừng lẩy còn để lại khiến bao nổi thương đau vì mất con , nên lão được an ủi rất nhiều .

     

    Khi bản nguyên cảo về pho Minh sử ngày trước đưa tới Văn Châu có nhiều đoản văn chỉ trích , bới móc , đều bị ban soạn sách cắt bỏ , mà việc tán dương Minh triều dĩ nhiên là không bao giờ tránh được .


  8. 1. Phi Lộ 1

     

    Gió Bắc đìu hiu , tuyết rơi lả tả . Mặt đất đóng thành băng

     

    Một đội Thanh binh tay cầm gươm đao áp giải bảy cổ tù xa tắm mưa gội tuyết nhằm phía Bắc mà tiến đang đi trên đường lớn gần Hải Tân ở Giang Nam .

     

    Trong ba cổ tù phía trước có ba người đàn ông đều ăn mặc theo kiểu thư sinh . Ba người này là một lão già đầu tóc bạc phơ , và một người vào hạng đứng tuổi .

     

    Trong bốn cổ xe sau tù phạm đều là nữ nhân .

     

    Trong chiếc xe sau cùng có một thiếu phụ tay bồng một đứa bé gái nhỏ . Con nhỏ la khóc om sòm , má nó dổ thế nào nó cũng không nín .

     

    Một tên quân đi bên xe tức quá vừa đá vào thành xe "binh binh" vừa lớn tiếng quát :

     

    -Mi mà còn khóc hoài thì lão gia sẽ đá chết tươi .

     

    Ðứa nhỏ sợ quá càng khóc thét lên .

     

    Dưới thềm một tòa nhà lớn cách đường cái quan chừng mấy chục trượng có hai người sóng vai đứng đó . Một người là văn sĩ trung niên và một đứa nhỏ chừng 12 , 13 tuổi .

     

    Văn sĩ ngó ra đường thấy tình trạng nầy , khẻ buông tiếng thở dài . Cặp mắt đỏ ngầu , miệng lẩm bẩm nói như để mình nghe :

     

    -Tội nghiệp ! Thật là tội nghiệp !

     

    Cậu nhỏ hỏi ông :

     

    -Gia gia ơi ! Những người kia phạm tội gì vậy ?

     

    Văn sĩ đáp :

     

    -Ai mà biết họ phạm tội gì ? Hôm qua và sáng nay , đã có đến ba chục văn nhân nổi tiếng ở tỉnh Triết Giang ta cũng lâm vào tình trạng này . Bọn họ chẳng có tội gì mà bị liên lụy .

     

    Văn sĩ nói câu này rất nhỏ vì sợ bọn quan binh nghe rõ .

     

    Chú nhỏ lại hỏi :

     

    -Con nhỏ kia còn bú sữa mẹ , chẳng lẻ cũng làm nên tội ? Thật vô lý .

     

    Văn sĩ nói :

     

    -Ngươi cũng biết là quan binh vô lý thì khá đấy ! Hởi ơi ! Người ta là dao là thớt , mà mình là thịt là cá . Người ta là chảo là vạc , còn mình chỉ là hươu là nai .

     

    Chú nhỏ nói :

     

    -Gia gia ! Mấy bữa trước gia gia dạy hài nhi câu "Người là dao là thớt , mình là cá là thịt" là có ý nói người ta có quyền muốn chặc muốn thái thế nào cũng được . Vậy câu "Người ta là chảo là vạc , mình là hươu là nai" thì ý nghĩa cũng vậy hay sao ?

     

    Văn sĩ đáp :

     

    -Phải rồi !

     

    Văn sĩ nhìn bọn quan binh đi xa rồi , liền dắt tay chú nhỏ nói :

     

    -Ở ngoài gió lạnh vào trong nhà ta sẽ nói cho nghe .

     

    Ðoạn hai cha con đưa nhau vào ngồi trong thư phòng .

     

    Văn sĩ chấm bút vào nghiên mực viết lên giấy chữ "Lộc" rồi nói :

     

    -Hươu là giống dã thú . Tuy nó lớn mà tính rất thuần . Nó chỉ ăn cỏ xanh cùng lá cây để sống , chứ không ăn thịt như loài dã thú khác . Khi nó bị thú dữ đuổi bắt thì nó chỉ có cách tìm đường chạy trốn . Nhưng trốn không thoát sẽ bị người bắt ăn thịt .

    Văn sĩ lại viết hai chữ "Trục Lộc" rồi giải thích :

     

    -Cổ nhân thường đem con hươu ví với thiên hạ . Bách tính trong nước phần nhiều đều là người thiện lương , nhưng cũng bị giai cấp thống trị áp chế sát hại . Trong sách Lục Thao ghi chép những phương lược tranh thành cướp đất cùng cách hành binh bố trận , có một đoạn Khương Thái Công nói chuyện với Chu Văn Vương .

     

    Chú nhỏ nghe nói đến tên Khương Thái Công liền dương cặp lông mày lên đáp :

     

    -Gia gia nói đến Khương Thái Công hài nhi lại nhớ ra : Tiên sinh tám mươi tuổi mới gặp Chu Văn Vương . Thái Công cởi con Tứ Bất Tượng và có tên trong Phong Thần Bảng .

     

    Văn sĩ tủm tỉm cười nói :

     

    -Những chuyện trong Phong Thần Bảng không phải là sự thiệt đâu .

     

    Chú nhỏ hỏi lại :

     

    -Gia gia ! Khương Thái Công đã nói với Chu Văn Vương câu gì ?

     

    Văn sĩ đáp :

     

    -Khương Thái Công bảo : "Lấy thiên hạ như đuổi bắt con hươu rồi làm thịt chia nhau mà ăn . Con hươu rừng trốn chui trốn lũi mãi nhưng đến lúc cuối cùng cũng bị bắt . Có khi nhiều người chia nhau ăn thịt có khi một người ăn hết ".

     

    Văn sĩ ngưng lại một chút rồi nói tiếp :

     

    -Trong Hán thư có câu : "Nhà Tần để xổ mất con hươu , thiên hạ tranh nhau đuổi bắt . Ðó là nói về nhà Tần mất thiên hạ , quần hùng khắp nơi nổi dậy tranh cướp nhau . Sau cùng Hán Cao Tổ đánh bại được Sở Bá Vương tức là bắt được con hươu to lớn béo mập .

     

    Chú nhỏ gật đầu nói :

     

    -Hài nhi hiểu rồi . Trong tiểu thuyết thường nói chuyện "Ðuổi hươu ở Trung Nguyên" tức là quần hùng thiên hạ tranh đoạt nhau ngôi hoàng đế .

     

    Văn sĩ vui vẽ gật đầu rồi vẽ một cái đĩnh lên giấy giải thích :

     

    -Cổ nhân không làm bếp nặn nồi để nấu ăn , mà lại đúc cái vạc ba chân , chất củi đốt ở dưới gầm . Khi bắt được hươu rồi bỏ đỉnh nấu ăn . Có thể nói từ hoàng đế cho đến đại thần đều là những người rất tàn nhẫn . Khi họ không ưa ai là đổ cho người ta phạm trọng tội bắt bỏ vào vạc cho chết cháy . Trong sử ký có chép việc Lạn Tương Như tâu Tần Vương "hạ thần biết thần phạm tội khi quân đáng bị xử tử . Vậy thần xin bệ hạ cho quăng thần vào trong vạc" .

     

    Thằng nhỏ lại hỏi :

     

    -Gia gia ! Trong sách tiểu thuyết thường nói "Ðuổi hươu ở Trung Nguyên" , lại có câu "Hỏi vạc ở Trung Nguyên" Ý tứ hai câu này dường như chẳng khác gì nhau .

     

    Văn sĩ đáp :

     

    -Ðúng thế ! Vua Dũ nhà Hạ , thâu vàng ở chín Châu về đúc thành chín cái đỉnh lớn . Trên chiếc đỉnh nào cũng khắc tên chín Châu cùng đồ hình sông núi . Ðời sau ai làm chủ thiên hạ là giử chín cái đỉnh này. Sách Tả truyện có nói "Sở Vương coi duyệt binh ở Chu Cương . Vua Ðịnh Vương sai Vương Tôn Mẫn nghênh tiếp Sở Vương . Sở Vương có hỏi đến những cái đỉnh lớn nhỏ thế nào , nặng nhẹ ra sao ? Chỉ vị chúa tể thiên hạ mới có thể gìn giử chín đỉnh . Còn Sở Vương mới là một nước chư hầu mà hỏi đến chuyện đỉnh nặng nhẹ to nhỏ là trong bụng có mưu đồ bất pháp muớn đoạt ngôi nhà Chu .

     

    Thằng nhỏ lại hỏi :

     

    -Vì thế nên những từ ngữ "hỏi đỉnh" và "đuổi hươu" là có ý muốn làm hoàng đế . Còn câu "Chưa biết hươu chết về tay ai ?" tức là chưa hiễu ai sẽ làm hoàng đế phải không ?

     

    Văn sĩ đáp :

     

    -Ðúng thế ! Sau này những từ ngữ "Hỏi đỉnh" , "Ðuổi hươu" , lại được mượn để dùng vào việc khác . Nguyên điển cố này chuyên để nói về việc làm hoàng đế mới nhắc đến .

     

    Văn sĩ nói tới đây buông tiếng thở dài rồi tiếp :

     

    -Ngươi thử nghĩ mà coi , chúng ta là hạng bách tính thì chỉ có đường chết . Câu "chưa biết hươu chết về tay ai" bất quá là chưa hiểu ai giết con hươu đó . Có điều nhất định là nó phải chết .

     

    Văn sĩ nói tới đây cất bước đến bên cửa sổ nhìn ra ngoài thấy bầu trời ảm đạm tựa hồ sắp mưa tuyết lớn , bất giác than rằng :

     

    -Trời già độc địa làm chi ? Mấy trăm người vô tội phải đi trên đường băng tuyết . Nếu bây giờ lại mưa tuyết nữa thì còn thêm phần khổ cực .

     

    Bỗng thấy trên đường lớn ở phía Nam có hai người đội nón rộng vành sánh vai đi tới .

     

    Khi hai người gần đến nơi , Văn sĩ nhận ra diện mạo thì vui mừng reo lên :

     

    -Huỳnh Bá và Cố Bá của ngươi đã tới đó !

     

    Văn sĩ liền lật đật chạy ra nghênh tiếp , Y hô lớn :

     

    -Lê Châu huynh và Ðình Lâm huynh ! Không hiểu cơn gió nào đã thổi hai vị giáng lâm ?

     

    Người mé hữu hơi mập , dưới cầm để bộ râu đen . Lão họ Huỳnh tên gọi Tôn Hy , tên tự là Lê Châu , người ở Dư Diệu tỉnh Triết Giang .

     

    Người mé tả đã cao nghệu lại ốm nhách , mặt mũi đen sì . Lão họ Cố tên gọi Viễm Võ , tên tự là Ðình Lâm , người ở Côn Sơn tỉnh Giang Tô .

     

    Hai lão Huỳnh , Cố là những nhà đại nho đương thời . Sau khi nhà Minh mất , hai lão đau lòng quốc biến , đi ẩn không chịu ra làm quan , bửa nay hai lão đưa nhau đến Sùng Ðức .

     

    Cố Viêm Võ tiến gần lại mấy bước đáp :

     

    -Vãn Thân huynh ! Hiện nay có việc rất khẫn yếu nên mới tới đây thương nghị với nhân huynh .

     

    Nguyên văn sĩ này họ Lã tên Lưu Lương , biệt hiệu là Vãn Thôn ở huyện Sùng Ðức , phủ Hàng Châu , tỉnh Triết Giang đã lâu đời y cũng là một nhà ẩn dật nổi danh vào hồi cuối Minh đầu Thanh .

     

    Lã Lưu Lương thấy hai người sắc mặt nghiêm trọng thì không khỏi hồi hộp , vì y đã biết Cố Viêm Võ là tay cơ biến phi thường . Lúc lâm sự lão vẫn bình tỉnh mà bây giờ lão nói là việc khẩn yếu thì dĩ nhiên không phải chuyện tầm thường , liền đáp :

     

    -Mời hai vi vào trong nhà uống chén trà giải hàn rồi sẽ nói chuyện .

     

    Lã Lư Lương liền đưa hai người vào nhà và bảo chú nhỏ :

     

    -Bảo Trung ! Ngươi đi bảo mẫu thân là có Huỳnh bá và Cố bá đến chơi . Hãy sắp lấy hai mâm thịt cừu để nhâm rượu .

     

    Chỉ trong khoảnh khắc Lã Bảo Trung (tứcchú nhỏ) và người anh em là Lã Tuấn Trung đưa ra ba cổ đủa chén bày lên bàn trong thư phòng .

     

    Một tên lão bộc mang rượu nhấm vào .

     

    Lã Lưu Lương chờ ba người dọn rượu xong lui ra liền đóng cửa thư phòng lại nói :

     

    -Huỳnh huynh ! Cố huynh ! Chúng ta hãy uống ba chung đã .

     

    Huỳnh Tôn Hy vẽ mặt thê lương gục gặc cái đầu . Còn Cố Viêm Võ thì tự mình rót rượu uống sáu chung liền .

     

    Lã Lưu Lương nói :

     

    -Phải chăng hai vị nhân huynh tới đây về việc có liên quan đến "Minh Sử" ?

     

    Như thủ giang sơn (non nước thế này) mà chìm đắm vào tay Dũ Ðịnh . Chúng ta phải nuốt mối căm hờn sống trộm nơi đây khiến người bi phẩn không bút nào tả xiết . Vãn Thôn huynh sao không đề vào một bài thơ để biểu lộ thành ý của Nhị Chiêm tiên sinh ?

     

    Lã Lưu Lương đáp :

     

    -Ý kiến của Cố huynh hay lắm !

     

    Lã Lưu Lương cầm bút trầm ngâm một chút rồi viết lia lịa trên bức họa .

     

    Chỉ trong khoảnh khắc Lã Lưu Lương đã đề xong một bài :

     

    "Phải chăng vì nhà Tống mà xuống phương Nam ? Tình huống này thật đáng tủi hổ . Non nước đi về đâu ? Ngó lại giang sơn lòng chẳng vui . Nay ta tỉnh ngộ vẽ bức họa này hai hàng lụy tuôn ra xối xả . Lấy việc ngày nay mà coi việc trước trước này cũng vậy mà thôi . Trong lòng ta u uất khôn lời mà vẽ ra bức họa đầy nước mắt .

     

    Vì thế mà bức họa không thơ . Lời thơ đã có sẳn ở bốn chữ . Khách anh hùng sinh chẳng gặp thời khác nào kẻ mù muốn trông , người què muốn bước . Bao giờ mây tạnh mù tan , giang sơn rạng rỡ thì nơi nơi ca khúc liên hoan " .

     

    Lã Lưu Lương đề xong quăng bút xuống đất , hai hàng nước mắt chảy dòng dòng .

     

    Cố Viêm Võ đắc ý vổ tay khen :

     

    -Khoái quá ! Khoái quá ! Thật là lời lẻ lâm ly tuyệt diệu !

     

    Lã Lưu Lương nói :

     

    -Bài này nghe không đũ hàm súc , chẳng có gì đáng kể . Tiểu đệ chỉ đưa ra hậu ý của Nhị Chiêm tiên sinh mà thôi , để người coi bức họa hiểu được nội dung .

     

    Huỳnh Tôn Hy nói :

     

    -Ngày nào trùng hưng cố quốc , giang sơn mù tạnh mây tan thì dù ở sơn cùng thủy tận , lòng người cũng khoan khoái vô cùng ! Ðúng như câu "Nơi nơi ca khúc liên hoan" .

     

    Cố Viêm Võ nói :

     

    -Câu kết trong bài này thật là tuyệt diệu ! Tất có một ngày diệt trừ Di Ðịch , lấy lại giang sơn . Khi đó khiến cho người ta nghĩ đến nổi phẩn uất hồi này càng thêm phần hùng tráng .

     

    Huỳnh Tôn Hy từ từ cuốn bức họa thủng thẳng nói :

     

    -Bức họa này không thể treo được . Vãn Thôn huynh nên dấu đi thì hơn . Nếu để bọn gian nhân như Ngô Chi Vinh trông thấy , chúng sẽ mở cuộc điều tra . Dĩ nhiên Vãn Thôn huynh gặp chuyện rắc rối mà còn để lụy cho Nhị Chiêm tiên sinh nữa .

     

    Cố Viêm Võ đập bàn thóa mạ :

     

    -Tên cẩu tặc Ngô Chi Vinh thật là khả ố ! Ta hận mình không ăn tươi nuốt sống mi được .

     

    Lã Lưu Lương nói :

     

    -Nhị vị đến chơi nói là có việc khẩn yếu mà chúng ta là bọn thư sinh chỉ ngâm thơ để học , chưa nhắc đến việc chính . Không hiểu là việc gì ?

     

    Huỳnh Tôn Hy đáp :

     

    -Bọn tiểu đệ tới đây là được tin quan trọng về Nhị Chiêm tiên sinh và Y Hoàng tiên sinh . Theo tin tức mà đệ và Cố huynh lượm được bửa trước thì ra vụ án "Minh Sử" làm cho Y Hoàng tiên sinh cũng bị liên lụy . Lã Lưu Lương giật mình kinh hãi nói :

     

    -Y Hoàng huynh cũng bị liên lụy ư ?

     

    Huỳnh Tôn Hy đáp :

     

    -Ðúng thế ! Tối hôm trước bọn tiểu đệ lật đật tới Lý Hoa trấn ở Hải Minh , Y Hoàng tiên sinh không ở nhà , nghe nói là y đi kiếm bạn ở phương xa . Viêm Võ huynh thấy sự thể nguy cấp , vội vặng người nhà của Y Hoàng tiên sinh phải trốn đi ngay đêm . Bọn tiểu đệ nhớ tới giửa Y Hoàng tiên sinh cùng Vãn Thôn huynh có mối thâm giao , vội tới đây thăm hỏi .

     

    Lã Lưu Lương ngập ngừng hỏi :

     

    -Y...Y không đến đây , chẳng hiểu đi đâu ?

     

    Cố Viêm Võ nói :

     

    -Nếu y ở nhà lúc này dĩ nhiên đến đây tương hội . Tiểu đệ đã đề lên vách thư phòng một bài thơ . Nếu y trở về là hiểu ngay và biết đường trốn lánh . Chỉ sợ y không biết tin ló mặt ra ngoài thì bị nhà cầm quyền bắt được thì hỏng bét .


  9. 12. Biển Trên Núi

     

    Tôi sinh ra ở biển. Lớn lên ở biển. Và sau này rồi cũng sẽ ra đi từ biển. Suốt những năm thơ ấu, tôi đứng trên bờ. Chân trời rất có thể là tấm khăn lụa xám trong đêm mù. Cũng có thể là chiếc cầu tuổi nhỏ không bao giờ tôi qua hết được.

     

    Cha tôi ngồi còng lưng tỉa lá sâu trên bụi hoa chưa lúc nào ra hoa, trầm ngâm: "Cuộc đời có rất nhiều... Sau lưng và trước mặt bao giờ cũng có những chiếc cầu như vậy!" Tiếng sóng vội vào vách đá như tiếng mưa rào. Một lát lại buồn buồn như tiếng ai khóc hờ trong gió. Tôi hỏi cha câu hỏi cũ như tiếng băng cassette quay lại cũ mèm: "Thế cây này không ra hoa hả cha? Thế cha đã qua được bao nhiêu chiếc cầu rồi hả cha?". Cha không trả lời. Mẹ cũng không trả lời. Chỉ có tiếng một con chim lạ bay vụt qua mái nhà. Kêu những tiếng khàn, đục như tiếng đêm.

     

    Một đêm tôi nhìn ra cửa sổ. Trăng lấp liếm sau bóng mây, tỏa một thứ ánh sáng mờ xuống góc vườn. Mùi hương dại ở đâu ngào ngạt, thấm vào môi, vào lưỡi ngòn ngọt. Tựa như lần đầu mình được ăn chiếc kẹo bi màu xanh đỏ. Chao ôi là thơm và ngọt. Tôi giật mình kinh ngạc. Từ bụi hoa không bao giờ ra hoa, một quầng sáng lung linh xuất hiện. Đó là một bông hoa màu đỏ rực lên như lò than, nở bung trên cành khẳng khiu. Cổ họng tôi nghẹn lại. Nỗi vui sướng vỡ ra dần thành những giọt nước mắt trong suốt. Chuyện gì xảy ra như trong mơ, như trong chuyện cổ tích thần tiên của tuổi thơ. Bởi vì sớm mai bụi hoa vẫn xanh ngắt một màu lá. Tôi ngẩn ngơ đi giữa những bụi cây. Mọi người nhìn tôi thương hại. Riêng mẹ bảo: "Con gái lớn rồi. Đi với me lên Đà Lạt. Ở với dì Ba năm bữa nửa tháng, thay đổi khí hậu!". Tôi ôm mẹ, cười mà lòng vẫn ngơ ngẫn "Thế nào cũng được. Nhưng rõ ràng đêm qua một bông hoa đã nở. Rõ ràng là mình đã thấy nó. Mình không quên là mình đã nhìn thấy nó!" Rồi tôi nghĩ, hẳn Đà Lạt cũng sẽ đẹp như quầng sáng lung linh trong đêm trăng non. Những tiếng lá thông hồn nhiên và những bờ sương mù tỏa khói. Những kỷ niệm khó quên. Nhưng quan trọng nhất, hẳn rằng Đà Lạt sẽ vui hơn vùng biển của tôi.

     

    Nhưng Đà Lạt thì khác hẳn! Cả thành phố như được ướp trong nước đá. Mỗi buổi chiều những tảng đá được hun nóng, nhỏ nhễu nhão vài giọt lên mái tôn. Khoảng bốn giờ chiều, đã thấy âm u và buồn. Nhất là buồn, thấy nhà dì Ba ai cũng nằm thở dài trên tràng kỷ. Con Út bảo: "Hồi nào em xuống biển chắc vui hơn!" Tôi cười trừ trong bụng "Vui gì! Cũng thế thôi. Chỉ được cái tưởng tượng..." Tôi lấy xe đạp của con Út, đạp vòng quanh thành phố. Đất gì bé bằng lòng bàn tay mà bao nhiêu là cây cối. Lá thông réo như tiếng nước sôi. Nhiều lúc giật mình tưởng mưa rào đang trút xuống. Đạp xe ngược dốc, gió thổi muốn bay cả xe mà nghe mồ hôi ra ướt đẫm áo. Tôi thò đầu qua một lỗ rào nhỏ. Cơ man nào là hoa mọc với dây tơ hồng. Những bông hoa to bằng cái bát. Sương buổi chiều bâu trên cành hoa như những giọt hương tiết ra từ nhụy. Tôi rụt người suýt nữa bị gai hàng rào cào toạc áo. Bỗng dưng thấy muốn khóc. thấy lòng nao nao. Thấy nhớ quay quắt bụi hoa không bao giờ ra hoa của cha, lúc nào cũng xanh ngắt một màu tội tội. Hẳn lúc này cha cũng đang còng lưng ngồi nhổ lá sâu vào bảo thầm: "Sau lưng và trước mặt bao giờ cũng có những chiếc cầu như vậy!" Mà cha thì chưa bao giờ thấy được bông hoa đỏ rực đã nở vào một đêm nào đó của tháng Năm. Chưa bao giờ cha được sống với một đêm kỳ ảo như thế của tháng Năm.

     

    Tôi nằm dài trên bãi cỏ. Không nghĩ gì, không buồn gì. Chỉ thấy lòng đương rất dễ chịu. Nắng đã làm tan hết giá, mặt đất ấm lên và tỏa mùi nhựa thông nồng nồng.

     

    "Mùi đất thật quen thuộc - Tôi thầm nghĩ - Nó gợi mình nhớ đến điều gì nhỉ? À, những miền đất thơ ấu. Mình đã từng nghĩ đến, càng lớn mình càng hay nghĩ về những miền thơ ấu ấy. Dù sao điều đó cũng không vô ích... ". Tiếng con Út vang lên lảnh lót như những bóng nắng chạy trên lá:

     

    "Anh mang hoa gì ra chợ vậy?"

     

    "Bông mặt trời".

     

    "Xạo hoài, bông bất tử đấy!".

     

    Tiếng cười bật lên trầm và hóm. Tôi ngóc đầu dậy. Con Út đã biến mất. Một thằng con trai với đôi mắt đen nháy nhìn tôi không chớp.

     

    "Chị ở đâu lên vậy?".

     

    Tôi cười: "Dưới biển".

     

    "Tốt rồi" - Nó cũng cười. Nụ cười ngộ nghĩnh. Nhưng đẹp. "Tôi cũng thích biển".

     

    "Thế lại khác - tôi nghĩ - ở dưới biển với thích biển thì khác nhau xa. Khác rất xa...".

     

    "Biển đẹp lắm phải không chị?"

     

    "Ừ, chắc là thế! Biển rất xanh và rộng, và có nhiều sóng tung bọt trắng xóa. Buổi trưa trên biển đầy vàng!".

     

    "Tôi biết rồi! Tôi đã thấy rồi!"

     

    "Ở đâu?". Bổng dưng lòng tôi như có sóng trào lên. Tôi nhớ những dải cát ướt mịn. Nhớ và thương những buổi chiều ngồi đợi sóng hồn nhiên đưa mặt trời vào bờ. Và những chân cầu tuổi thơ. "Đó, chị thấy chưa?" Nó đưa tay chỉ lên trời. "Biển rất xanh và có nhiều sóng. Những đám mây trắng là sóng. Sóng xô thuyền bồng bềnh". Tôi nheo nheo mắt. Đúng là biển, biển thật rồi! Chỉ có điều chiếc cầu tuổi thơ đã biến mất. Hay chính là tôi đã bước qua hết chiếc cầu tuổi nhỏ ấy? Hay chắc là chiếc cầu ấy đã ở sau lưng? "Chị ngồi chắc vào! Thuyền đang trở buồm. Và chúng mình sẽ trôi đi mãi!" Tôi cười sung sướng như đang được tung mình trong biển cả. "Chúng mình sẽ trôi đi mãi. Thấy chưa, biển rất xanh và nhiều sóng to trắng xóa". "Biển có nhiều mặt trời nữa!". "Thật à? Vậy mà tôi không biết!". Nó cười, nhìn thúng hoa bất tử. "Mỗi bông hoa là một mặt trời. Rất nhiều mặt trời". Tôi mơ màng: "Hai chúng mình cũng là hai mặt trời. Những mặt trời không sợ bão!".

     

    Nắng lên được một ngày nữa rồi mưa tầm tã suốt ba ngày. Tôi đứng ở cửa sổ nhìn ra ngoài. Cây cối làm mình làm mẩy trong mưa. Vật gì cũng bị bạc màu phân nửa nom ảm đạm và buồn bã. Dì Ba nhìn tôi tội nghiệp: "Năm nay trở trời mưa hoài!" Tôi cười xòa để dì vui lòng: "Cũng tốt dì ơi. Đỡ mỏi chân...". Mà thật ra lòng bứt rứt khó chịu. Tôi thò cổ ra ngoài. Lạnh ngắt như kim châm. Biển đã chuyển sang màu xám chì và lạnh ngắt như kim châm.

     

    "Dì với Út về đi. Mai mốt con lại lên!" Bóng mẹ con dì khuất dài sau màn mưa trắng như bụi, càng lúc càng nặng hạt. Tôi đứng chần chừ dưới mưa, rụt người trong tấm áo phông màu nước biển. Tôi không hiểu mình đang chờ đợi gì ở những con người bước lầm lũi dưới mưa kia! Chỉ biết rằng tôi mong chờ lắm như vào những đêm tháng Năm xa xôi. Có ai đó níu vai tôi rất mạnh, hơi thở phả ấm gáy: "Tặng nè". Nó đưa cho tôi một bộc hoa gói kín, cặp mắt đen buồn buồn.

     

    "Hoa gì vậy?".

     

    "Bất tử".

     

    "Không phải - tôi cười - Hoa mặt trời. Bông mặt trời nhỏ".

     

    Tôi ngó lên trời. "Hôm nay không có biển".

     

    "Khỏi, Biển trên áo đây rồi. Cần gì..." Nó mím miệng bước đi.

     

    Tôi áp mặt vào cửa kính, thấy buồn, thấy thương nó liêu xiêu trên con đường xanh ngắt một màu cỏ và cây. Mới chợt hiểu ra mình chờ đợi điều gì từ bấy đến giờ. Mai này có thể quên - Tôi nhắm mắt thầm nghĩ - Nhưng những ngày này, những kỷ niệm này đã thật đẹp hơn điều mình nghĩ!

     

    Tôi lại ra đứng trước biển. Thấy chân trời là chiếc cầu bằng lụa xám chưa bao giờ tôi qua được. Tôi lại ngồi nhìn cha tỉa lá sâu trên bụi hoa không bao giờ ra hoa và đêm đêm ra đứng ở cửa sổ để chờ mong một điều kỳ diệu nào đó sẽ xảy ra. Lúc ấy gió bắt đầu lên và thổi lanh như gió Đà Lạt. Tiếng cha trở mình trên chõng và nói mê: "Cuộc đời có nhiều... ".

     

    Một buổi chiều dọn dẹp nhà cửa, bỗng nhiên một bông bất tử lăn ra từ góc tủ. Sắc vàng của nó ánh lên như một quầng lửa đỏ. Tôi nắm chặt mặt trời nhỏ trong tay, thẫn thờ. Vì tôi chợt nhớ rằng , hình như có một lần nào đó, tôi đa đi qua và để lại sau lưng mình chiếc cầu bằng lụa xám của tuổi thơ. Và chắc chắn là đã có một lần như thế...

     

    Nguyễn Thị Châu Giang


  10. 11. Xóm Người Mù

     

    Xóm Người Mù. Không biết tự bao giờ cái tên gọi ấy đã trở nên quen thuộc. Không thể nhớ nổi người khiếm thị đầu tiên nào đã dùng bước giang hồ ở khu dân cư trải dọc triền sông này, rồi rủ rê thêm những người đồng cảnh ngộ quy tụ lại, chọn nơi đây làm "đất lành chim đậu".

     

    Ra đi từ nhiều miền quê khác nhau. Trẻ có, già có, gặp gỡ đâu đó dọc những ngả đường bươn chải kiếm sống họ dắt dìu nhau về, thoạt tiên vài người rồi dần dà đến vài chục, và, sống đạm bạc khiêm cung giữa bao người lành lặn khác. Ban đầu chính quyền địa phương đặt vấn đề đòi trục xuất, riết làm ngơ vì chẳng nghe ai kiện cáo, tị nạnh gì. Đèn nhà ai nấy sáng, không hẳn đùm bọc, nhưng tuyệt đại đa số người trong xóm giềng đều tỏ ra thông cảm, sống chan hòa thuận thảo. Có lẽ có cô tôi là ngoại lệ, không thích đã đành, còn hết sức lấy làm khó chịu bởi không dưng phải lọt thỏm giữa một khu xóm như thế. Có lần cô bảo:

     

    - Bạn hàng hễ ai nghe tao cho biết số nhà, tên đường, tên phường thì cứ y như rằng người ta hỏi có phải ở Xóm Người Mù không? Không dưng mang tiếng mù lây. Chun đụt dưới mái nhà này lỡ ăn nên làm ra nên không đành bỏ đi nơi khác, chớ không tao xới khỏi lâu rồi. Cái xóm gì mới bảnh mắt ra ngõ đã gặp người lò dò bị gậy phát ngán. Bao nhiêu cái Tết có cáp vàng tao cũng đâu dám xuất hành đầu năm!

     

    Là chị hai của cha tôi, cô xa nhà sống theo kiểu thân tự lập thân hồi còn trẻ, giờ xấp xỉ tuổi năm mươi, chưa chồng con dù nhan sắc đến nỗi nào, khó tính là điều dễ hiểu, nhưng tôi vẫn không thể hiểu nổi sao cô hẹp lòng đến vậy.

     

    Rời quê ra tỉnh học trọ, mỗi sáng sớm tôi ra chợ tiếp cô bày hàng quần áo thời trang, giày dép, mỹ phẩm, chiều tiếp dọn hàng. Từ vài tháng nay bỗng có người tình nguyện làm thay, tôi bỗng rảnh rang. Ông ta kém cô vài tuổi, luôn "hình dong chải chuốt, áo quần bảnh bao". Nhờ ông, hình như dạo này cô đâm ra trẻ lây, đâm ra thích chưng diện với lắm bộ đồ mô-đen mặc rồi đứng uốn éo trước gương hệt những người mẫu thời trang không khoe chướng, cô hỏi, chẳng muốn cô buồi tôi đành miễn cưỡng khen đẹp. Đêm đêm, tôi đến lớp ngoại ngữ học thêm thì ông đeo cô đi chơi bằng xe Dream. Chiếc xe cô nhún nhường cho biết vốn là hàng còn nguyên thùng, mua để tiện việc ông đưa đón. Chưa hết, cô bê về cả dàn máy karaoke để giải sầu. Thỉnh thoảng hai người kề vai song ca trông rất mùi mẫn. Thỉnh thoảng mở tiệc đãi bạn bè tại nhà. Nhưng cái đám cưới lắm lần nghe cô bàn tính mãi chưa thấy thực hiện.

     

    Dù cô luôn rầy la ngăn cấm, tôi vẫn lén chơi với đám người mù trong xóm. Đứa hát rong, đứa bán vé số dạo, đứa đan sọt đan thúng,... Trong số ấy tôi thân nhất con Thắm hát rong. Con nhỏ ông Tư đờn cò đã "nhặt" về trên một chuyến tàu Thống Nhất. Nó gầy gò đến độ qua cầu gió có thể thổi baỵ Nó hay khiến tôi nhớ tới con em gái dưới quê nên thường lén cô tiếp tế cho hai cha con chút ít lương thực, hoặc thuốc men lúc đau ốm. Thắm bị mù từ thưở lọt lòng, chẳng biết tí gì về thế giới chung quanh, chỉ nghe kể rồi mường tượng. Thuộc khá nhiều bài ca do nghề nghiệp, riêng món vọng cổ luôn bị ông Tư bắt bẻ, ca hoài chưa ngọt, chưa rặt giọng đàng trong theo ý ông muốn. Có hôm nó hỏi tôi:

     

    - Anh ra sao anh hai?

     

    - Thì cũng giống hầu hết mọi người.

     

    - Có đẹp trai không cơ!

     

    - Đẹp xấu tùy người đối diện - Tôi nói đại. Nó phụng phịu:

     

    - Anh quên người đối diện hổng có mắt sao? Thôi thì chắc anh đẹp như ông Lục Vân Tiên hoặc Thạch Sanh trong truyện bố Tư kể, vì anh cũng tốt bụng như họ.

     

    - Xấu như Trương Chi thì có, đừng có ham tưởng tượng.

     

    - Ai nói Trương Chi xấu, riêng em vẫn cho là đẹp.

     

    - Hiểu rồi, Thắm cũng đẹp lắm.

     

    - Xạo quá mạng vậy anh hai?

     

    Đại để, chúng tôi thường trò chuyện vớ vẩn kiểu ấy. Uống nước rạch Đầu Sấu bao năm, cố nói tiếng Nam bộ, giọng Hà Bắc vẫn còn vương lại vài âm hao như là dấu ấn của quê quán, dù quê quán ấy nay đã trở nên xa vời vợi, mờ nhạc trong trí nhớ nó. Những lúc Thắm theo ông Tư đi hát rong đâu đó cả tháng mới quay về, tôi thấy nhớ cái giọng thỏ thẻ nửa Nam nửa Bắc của nó. Sau một chuyến đi xa, bao giờ nó cũng tặng tôi một món quà gì đó, dù rẻ tiền cũng khiến tôi cảm động.

     

    Không ít lần hễ nghe ông ấy và cô hát karaoke, tôi bắt gặp Thắm đứng lặng lẽ ngoài rào bông bụp. Biết tỏng nó rất thích trò chơi hiện đại ấy, một đêm đôi tình nhân vừa lên xe ra khỏi cổng, tôi rủ nó đến nhà, ngồi vào ghé salon hẳn hoi, và mở máy cho Thắm tha hồ ca, tôi giúp nó đọc lời những bài chỉ thuộc lõm bõm. Nhìn vẻ mặt hân hoan khó tả, nghe giọng bội phần diễn cảm, tôi cảm thấy vui như đang đãi nó một bửa tiệc thịnh soạn. Hai đứa vui nên "dượng" và cô về lúc nào không haỵ

     

    - Trời đất, bộ mày khùng rồi sao Khánh? Dám mời con nhỏ dơ dáy thượng lên cả salon, còn bày đặt hát xướng. Bộ mày mê nó lắm sao thằng ông con? Này, cút mau! - Vừa đay nghiến, cô vừa nhào tới đẩy xua Thắm ra khỏi cửa. Quýnh quáng, con nhỏ không kịp cầm gậy, ngã lăn từ bậc thềm xuống sân, bể cả mắt kiếng đen, bật khóc tức tưởi. Ông ấy chỉ khoanh tay đứng nhìn lắc đầu cười. Tôi đỡ Thắm dậy, đặc chiếc gậy vào tay nó, đổ quạu, quên cả giữ kẻ:

     

    - Nhẫn tâm vừa thôi, cô không thương xót kẻ tật nguyền chút nào sao?

     

    - Mầy, mầy dám lên giọng chửi tao hả đồ mất dạy? - Cô gào, chảy chồm xỉa xói. Ông ấy ra vẻ kẻ cả khoác tay ngăn, cất giọng du dương:

     

    - Kìa em, nguôi giận đi nào. Chậc, chỉ là chuyện nhỏ. Thôi, cho anh xin!

     

    Từ hôm ấy Thắm luôn tránh găp tôi, không nhận cả chiếc kiếng mới tôi mua đền nó. Vào một ngày mưa từ ga Hòa Hưng quay về, ông Tư đờn cò ngã bịnh. Tuy được chòm xóm tận tình giúp đỡ đưa vào bịnh viện điều trị nhưng ông không qua khỏi. Sau đám tang chừng vài hôm, đã nguôi giận, Thắm tìm gặp tôi rủ ra chợ Cái Răng ăn kem với vẻ mặt buồn rượi. Tôi ngạc nhiên chẳng nghe nó nhắc đến bố Tư, lại tỉ mỉ nhắc kể từng người tốt kẻ xấu trong xóm, chi li từng kỷ niệm vặt, nhỏ nhoi của hai đứa, đoạn mĩm cười:

     

    - Còn sao trên trời ở xóm mình có giống nơi khác không anh hai?

     

    - Giống!

     

    - Bèo dưới bến cũng thế chứ?

     

    - Thế! Tôi nhại giọng Hà Bắc cốt làm nó vui.

     

    - Vậy là dù đi bất cứ nơi đâu em ngước "nhìn" trời cũng sẽ mường tượng ra sao ở xóm mình, qua khúc sông nào cũng "thấy" bèo của bến nhà, chắc là không buồn lắm đâu.

     

    - Thắm nói gì lạ vậy? Tính bỏ đi sao? Đi đâu?

     

    - Đố anh biết? - Nói xong nó cười. Nước mắt lấp lánh trên má. Ngỡ chỉ nói đùa chơi, hôm sau Thắm mang theo cây đờn cò bỏ đi mất biệt. Câu đố đêm ấy tôi vẫn nhớ nhưng không cách chi tìm thấy câu trả lời.

     

    Bây giờ tôi đã vào đại học. Mỗi lần ra chợ tiếp cô bày hàng và chiều dọn về như trước đây. Cô tôi lại tiếp tục sống cô đơn. Sau trận đánh ghen tàn độc của bà vợ và tám đứa con kéo từ Vĩnh Long sang Cần Thơ vào một ngày không nhớ đẹp hay xấu trời, ông "dượng" ra đi không lời từ biệt, quên cả chiếc Dream. Bây giờ cô tôi luôn mang kiếng đen vì con mắt trái bị axít làm hỏng, trở nên trầm lặng, ít nói và, hình như trong con mắt còn lại những người mù chung xóm chẳng còn đáng ghét nữa.

     

    Mường Mán


  11. 10. Bến Lội

     

    Chiều chưa xuống nhưng nắng cũng không còn gắt. Thư thấy quanh mình là một chiều màu xanh. Sau lưng, về bên trái là mảng rừng xa xa mà theo lời kể trước của Vân, có suối nước nóng mà nó sẽ dẫn Thư đi chơi vào sáng hôm sau. Phía trước, đi hơn trăm thước Thư đã trông thấy biển và nghe được tiếng sóng hiền hòa. Những chiếc thuyền đánh cá đậu thành cụm và trên bờ cát ngập chân người có rất nhiều cái thúng lớn đường kính có đến hai thước. Vân giải thích đó là những chiếc thuyền thúng của dân câu mực. Cùng lúc này, Thư nhận ra rằng thật sự trước mắt mình chưa phảI là biển. Phía bên kia còn có một dải đất trồng dương gần kín. Vân gật đầu khi Thư hỏi:

     

    - Đúng rồi ! Biển ở phía sau bãi dương. Còn đây chỉ là một cái vịnh nhỏ. Tên nó là bến Lội.

     

    Những bước chân liêu xiêu trên cát đưa Thư theo Vân tới trước một căn nhà gỗ lợp tôn thiếc. Trẻ con trong xóm biển nhìn Thư tò mò. Người lớn thì cười hỏi thăm Vân mới về. Nơi hiên nhà, một chú bé mười bốn, mười lăm tuổi có khuôn mặt rắn rỏi, nước da đen cháy vừa nhìn thấy Vân đã bỏ vội mảnh lưới trên tay xuống chiếc chõng tre, reo lên:

     

    - Chị hai về ! - Chú bé nhìn Thư với ánh mắt dè dặt và nói nhỏ: Chào chị, rồi lại nói với Vân: Má qua ông Tư, để em đi kiêu má về nghen chị hai !

     

    Không đợi ai có ý kiến, chú bé nhảy xuống đất, phóng đi như một con sóc. Vân cười nói với Thư:

     

    - Thằng Hào, em tao đó !

     

    Vân là bạn học của Thư ở lớp dự bị đại học. Dân dưới tỉnh, lại là dân miệt biển lên Sài Gòn học, vậy mà nhan sắc của nó qua mặt hết thảy bọn Thư, cả tới cái làn da bánh mật cũng là một nét duyên dáng. Bọn Thư có lúc tò mò hỏi Vân:

     

    - Chắc má mày trước kia là hoa khôi?

     

    Không ngờ các thầy bói đoán mò mà trúng. Vân hãnh diện kể:

     

    - Má tao hồi đó là hoa khôi trường Trưng Vương ở Sài Gòn này chớ đâu ! Nhưng bây giờ má tao khác lắm rồi. Gần hai chục năm sống với ba tao và miệt biển...

     

    Thư không thể không tưởng tượng ra một chuyện tình đẹp giữa cô nữ sinh hoa khôi với một chàng trai miệt biển để cuối cùng cô gái chấp nhận rời xa thành thị về một nơi xa xôi hẻo lánh với người mình yêu. Nơi ấy là đây, cái xã ven rừng góc biển này...

     

    Nước ngọt mà chẳng khác nước lợ, hoàn toàn giống mùi nước máy có clo hòa tan quen thuộc với Thư ở Sài Gòn, nhưng trong hoàn cảnh này, những gáo nước cũng giúp cô trút sạch bụi đường xa, cảm thấy dễ chịu.

     

    Khi Thư trở ra nhà ngoài, cô thấy Vân, Hào đang ngồi nói chuyện với một người đàn bà vừa già vừa xấu. Mái tóc của bà ta lốm đốm bạc, da mặt đầy tàn nhang và cái miệng móm hóp lại. Vân nói với Thư:

     

    - Má tao đang chờ coi mắt mày đó Thư !

     

    Thư hơi sững người. Tuy nhiên, cô vẫn đủ bình tĩnh lên tiếng chào má Vân:

     

    - Cháu chào thím !

     

    Thực tế hoàn toàn khác với những gì Thư tưởng tượng. Trong đầu cô, hình ảnh má Vân đã được phác ra, tuy không thật chi tiết nhưng cũng khá rõ. Đó là một phụ nữ ngoài bốn mươi có khuôn mặt như của Vân, gầy hơn một chút, có đôi mắt tròn như của Vân, sâu hơn một chút, có làn da bánh mật như của Vân, đậm hơn một chút... Tất cả đều ngược lại. Có lẽ, trừ giọng nói dịu dàng:

     

    - Ngồi xuống đây uống miếng nước đá đi cháu. Ở nơi xa xôi heo hút này, nước đá mắc đã đành, còn hiếm nữa. Uống miếng nước cho nó mát. Con Vân kể cho thím nghe về cháu hoài, nó nói lên Sài Gòn, may mà nó có được một cô bạn thân là cháu...

     

    Thư ngồi xuống. Thư uống nước đá lạnh. Thư nghe má Vân nói. Nhưng trong đầu cô thì không ngớt nghĩ ngợi về sự bất ngờ. Cô nhìn người đàn bà kỹ hơn, một người đà bà miệt biển lam lũ. Có lẽ nhận định ban đầu của cô là thái quá. Đúng là khuôn mặt của Vân, đúng là đôi mắt của Vân, nhưng chúng chỉ còn hiện lên rất mờ nhạt dưới lớp màu của thời gian, khí hậu và sự lao lực, làm thành hình ảnh hiện tại của má Vân.

     

    Người mẹ, sau một lúc đi xuống bếp làm gì đó, trở lên nói với con gái và con trai:

     

    - Má tính thế này, chiều nay má sẽ làm món gỏi cá trích đãi khách, thêm nồi cháo nữa cho ấm bụng. Trong lúc má làm bếp thì con đó Vân, con đưa bạn ra bãi Dương ngắm biển chiều. Thằng Hào qua ông Tư mượn cái thuyền thúng đưa hai chị đi nghe con ! Khoảng sáu giờ mấy đứa về ăn rồi mình tính chương trình tối và sáng mai...

     

    Bà quay sang Thư:

     

    - Cháu đi chơi với con Vân cho vui. Về đây mà cứ ở nhà, buồn không chịu nỗi đâu. Hồi mới xa Sài Gòn về đây, thím khóc hoài đó...

     

    Chiều đang xuống, trời xanh xám không gió. Chiếc thuyền thúng đúng là một cái thúng khổng lồ, ba người: Thư, Vân và Hào ngồi trong đó gọn lỏn. Vân và Hào mỗi đứa một mái chèo, vừa giống người chèo thuyền, vừa giống hai hộ vệ của Thư. Hào đã hết lạ khách, nó nói một tràng với Thư:

     

    - Chị Thư đừng có sợ ! Cái thuyền thúng này không có lật được đâu ! Ra ngoài khơi, người ta ngồi trên này câu mực hàng giờ mà sóng gió cũng chẳng làm gì được. Chị sợ thì cứ vịn cho chắc, đừng có đứng lên. Chuyến về chị sẽ quen, về Sài Gòn chị tha hồ khoe với các chị bạn ở trên...

     

    Vân nạt em:

     

    - Thôi đi, cái miệng mày bữa nay sao nhiều chuyện vậy !

     

    Tất cả đều lạ lẫm với Thư. Trên những chiếc thuyền lớn đang neo bến, người ta sinh hoạt như trong một căn nhà, bếp lên khói, phụ nữ giặt đồ, đưa võng ru con... Một chiếc thuyền thúng bơi ngược chiều từ bãi Dương vào, trên thuyền là một cô gái trẻ hỏi vọng qua:

     

    - Mới về hả Vân? Mạnh giỏi không?

     

    - Ừa ! Mới về ! Thằng nhỏ mày sao rồi?

     

    - Mập lắm ! Tối qua chơi nghen !

     

    Hào nói với Thư:

     

    - Bạn học cũ của chị Vân đó ! Bả lấy chồng, mới sinh con.

     

    Thư kêu lên ngạc nhiên:

     

    - Bạn của mày hả Vân? Bả bao nhiêu tuổi?

     

    - Mười tám ! Ở đây, tuổi này lấy chồng sinh con đâu có lạ...

     

    Chiếc thuyền thúng không thể kéo lên bãi cát khi còn cả ba người ngồi trên. Hào nhảy ùm xuống mé nước. Vân nhẹ nhàng hơn. Cô bảo Thư:

     

    - Xuống đi Thư ! Rồi ba đứa mình đẩy thuyền lên bãi.

     

    - Nhưng... nước có sâu không?

     

    - Đây nè, nhìn coi tiểu thư, nước chỉ tới đầu gối. Xuống đi, đừng có sợ... Ở bến này, người ta còn lội qua lúc nước rút là chuyện thường...

     

    Tới khi đã lên bãi cát, Thư nhìn về phía cuối bến mới thấy là Vân nói không sai. Đằng đó nước cạn, nhiều người lớn, nhỏ lội qua lại như đi dạo chơi, nước ngập cao nhất cũng chỉ tới bụng. Cô tắc lưỡi, hỏi bạn:

     

    - Sao họ không chèo thuyền qua như bọn mình hả Vân?

     

    - Đâu phải ai cũng có thuyền mà đi. Nhưng người nghèo, người ta chịu cực giỏi lắm...

     

    Không thể thấy mặt trời lặn trên bờ biển Đông. Nhưng bầu trời tím lịm vẫn có đôi ba vệt sáng hắt. Gió biển không nhiều nhưng ẩm và lành lạnh. Hào tấp vào một đám bạn trang lứa đang lựa cá. Thư đi theo Vân dọc bãi biển chiều.

     

    - Quê tao buồn quá phải không Thư?

     

    - Ừ !

     

    - Người nghèo khổ nhiều hơn giàu có.

     

    - Ừ !

     

    - Mày thấy má tao rồi chớ, chẳng còn chút dấu vết nào của một thời con gái... Đúng ra, tất cả chỉ thay đổi hẳn từ khi ba tao mất tích ngoài khơi, hồi thằng Hào lên mười... Từ đó tới nay, một mình má tao đảm đương mọi việc để lo cho chị em tao ăn học. Thằng Hào tháng trước mới bị bả la một chặp vì nó xin cuối năm nay thi tốt nghiệp cấp 2 xong, nghỉ học đi biển... Má tao nói, má tao đã bị biển cướp mất người chồng, bà không thể để mất thêm đứa con trai... Nói rồi bả khóc...

     

    Thư nhìn ra biển khơi. Biển chiều hiền hòa là thế mà cũng đã từng hung dữ, tàn nhẫn cướp đi những con thuyền và những người đàn ông trên đó. Cô nhìn Vân, lòng không khỏi xúc động:

     

    - Kìa Vân, mày khóc à...

     

    Vân lau nước mắt, cười gượng:

     

    - Tao nhớ ba tao !

     

    Những hình ảnh hiện ra thật nhanh trước mắt Thư. Ba cô mỗi ngày hai buổi với chiếc Cup đến bệnh viện làm nhiệm vụ một bác sĩ nội khoa, còn má cô thì chỉ rời nhà tới phòng tiếp bạn đọc của tòa báo sau khi đã trang điểm làm trẻ lại gương mặt một thiếu phụ ngoài bốn mươi. Ở nơi đây, làm sao có những quán kem như ở đường Lê Lợi mà Thư vẫn thích rủ bạn bè hùn tiền đi ăn, nếu không có đứa nào đủ sức bao cả bọn, để nhìn ngắm người người qua lại với đủ thứ mốt áo quần...

     

    - Nè con nhỏ kia, mày nghĩ ngợi gì vậy?

     

    Vân đã trở lại tâm trạng bình thường, hỏi. Thư cười đáp:

     

    - Tao nghĩ tới chàng !

     

    - Thôi đi, đừng xạo !

     

    - Nói đùa chớ, tao tính đề nghị mày, lát nữa về, để em Hào chèo thuyền thúng một mình, còn tao với mày lội qua bến Lội.

     

    - Rồi ! Nổi máu phiêu lưu ! Nhưng tao sẽ chiều ý mày, tiểu thư ạ. Lâu lâu tiểu thư cũng nên sống với bà con dân dã một phen cho biết chớ.

     

    Má Vân đứng trước hiên nhà đợi, vẻ nóng ruột. Bà hỏi ngay khi Thư theo chân Vân tới trước nhà:

     

    - Sao nổi hứng bất tử vậy hai cô?

     

    Vân đáp:

     

    - Nó muốn thử sức để coi ngày mai có thể đi bộ tới suối nước nóng tuốt trong rừng không đó mà má !

     

    - Thôi vô nhà đi. Trễ lắm rồi ! Cá trích tươi rói, gỏi ngon lắm...

     

    Hào đang dọn chén đũa trong nhà. Chú bé hỏi Thư:

     

    - Chị hết sợ rồi phải không? Em nói rồi mà... Mai chị về Sài Gòn tha hồ mà khoe với bạn chị...

     

    Má Vân đốt đèn dầu để ở một đầu bàn. Khi ánh sáng không đủ để soi rõ từng chi tiết trên gương mặt bà, Thư mới nhận ra rằng người mẹ vẫn có khuôn mặt đẹp theo nghĩa đẹp của tâm hồn. Có lẽ, nhan sắc của nhừng người mẹ đều đã trao hết cho con cái khi họ phải xắc quần lội qua bến Lội đến với biển đời...

     

    - Nè con nhỏ kia, cầm đũa đi chớ ! Hay là mày nhớ Sài Gòn rồi?

     

    Vân giục bạn. Thư cầm đũa sau khi trả lời:

     

    - Tao nhớ má !

     

    Khôi Vũ


  12. 9. Bệnh Tim Của Tôi

     

    Tôi không còn tin vào mắt mình nữa khi vị bác sĩ già ghi vào hồ Sơ bệnh án: Nhịp tim không bình thường 45 nhịp/phút. Chân tôi phù, mặt tôi húp có chăng chỉ là bệnh phù tại sao lại liên can đến tim ? Bác sĩ giải thích sự ngạc nhiên ấy cho tôi bằng giọng chầm chậm:

     

    - Bệnh phù của em là ăn uống thiếu chất. Sinh viên thường hay mắt bệnh này. Em sẽ khỏi nếu biết chú ý ăn uống và uống nhiều B1 vào nhưng nhịp tim của em có vấn đề đó. Thôi hãy cứ nằm viện điều trị đi!

     

    Vậy là tôi phải làm thủ tục nhập viện, nằm cùng phòng với những bệnh nhân nước da xanh rờn thiếu máu. Tôi nghĩ miên man. Bệnh phù này cũng dể hiểu thôi - như bác sĩ nói - Tôi chỉ là một trong nhiều trường hợp của sinh viên ở ký túc xá mắc phải. Bởi vì với chúng tôi học cũng nhiều (chơi cũng nhiều) nhưng ăn chẳng bao nhiêu. Suất cơm nhà bếp nhạt phèo chỉ đủ để duy trì sự sống và sinh họat học tập, lương calo nghèo nàn của mỗi bửa ăn làm thân thể to bự của tôi cứ xẹp dần. Năm tháng vào ký túc xá mà tôi sụt mất ba kg. Tôi phù là đúng quá rồi. Nhưng bệnh tim? Trước đây tim tôi đập bình thường vớ 75 nhịp/phút. Vậy do đâu? Bắt đầu từ bao giờ? Tôi nào biết, bởi có khi nào tôi đếm nhịp tim tôi đâu? Tôi nghĩ mãi. Tôi có bị gì không nhỉ? Ốm đau? Không! Tai nạn? Vậy cái gì tác động đến con tim tôi? Chợt tôi giựt thót mình khi nhớ lại lời ba tôi nói ( khi một lần mẹ tôi đùa với tôi về chuyện vợ con) "Thằng này mà vợ với con gì, thấy con gái là thót tim ra ngoài". Tôi tự liên hệ với hoàn cảnh sống hiện tại của mình có phải vậy không? Chẳng lẽ...

     

    Trước đây tôi ở nhà người quen đi học, nhưng năm nay do xe hỏng tôi vào ở ký túc xá. Tôi ở phòng số 11, phòng bốn đứa: Một đã có vợ, con` hai đứa có bồ, riêng tôi quan hệ rối rắm ấy thì nói như mẹ tôi nói "Mầy chỉ là đứa con nít sống lâu năm".

     

    Đối diện với phòng tôi là phòng số 10 trong đó có bốn anh em học sau tôi một khóa. Lúc mới vào thấy họ it' nói, cửa phòng thường hay đóng nên tôi chẳng dám làm quen. Rồi một lần cánh cửa phòng đối diện ấy mở ra bên này cảm hứng tôi cầm đàn, chế lại lời thơ của Nguyễn Bính "Phòng 10 ở cạnh phòng tôi, cách nhau sân hẹp với đôi bức tường. Bao người em gái dễ thương, cùng tôi cũng một con đường... ăn cơm". Bổng bên kia có tiếng vỗ tay rôm rả. Một cô trong phòng bước ra:

     

    - Anh Thìn ơi! Hát nữa đi! Hay lắm!

     

    Không hiểu vì câu hát ấy hay sao mà từ đó các cô bắt đầu "quan tâm" đến tôi. Khi thì "Anh Thình ơi! Nhờ anh đóng hộ giùm em cái kệ sách" khi thì "Bóng điện phòng em cháy rồi anh thay hộ giùm em đi!" Ôi, nghe sao mà ngọt xớt.

     

    Tôi rất ngại vào phòng nữ nhưng mấy em nhờ chẳng lẽ mình không giúp? Nhiều lần tôi cũng bạo dạn dần. Tôi không dám ngồi chơi lâu bên phòng ấy. Ngại lắm! Thường xong công tác tôi tim` cớ cáo lui. Tôi dần biết được tên các em trong phòng: Lan Bự để phân biệt vơ"i Lan gầy, Quỳnh trưởng phòng. Riêng một người tôi chú ý nhất đó là Trinh ngoại giao - phụ trách đối ngoại phòng.

     

    Từ chổ xã giao bằng chuyện học hành thỉnh thoảng gợi cho nhau mấy nụ cười, dần dần quan hệ giữa chúng tôi có phần thân thiện hơn và chính sự thân thiện ấy nên mấy em không còn "giữ kẽ" với tôi như trước nữa, cứ gặp dịp tôi sang là mấy em hạch tôi đủ điềụ Nào là bạn bè tôi anh nào dể tính, anh nào đẹp trai, rồi đến cô X, cô Y và cuối cùng là đến chuyện đời tư của tôi. Có lần Lan Bự hỏi tôi:

     

    - Hỏi thật anh nhé! Anh đã có người yêu chưa?

     

    Hỏi gì mà kỳ vậy? Thật không tế nhị tí nào! Mà nếu có dại gì tôi gật đầu kia chứ! Nhưng tôi cũng cười đáp lại:

     

    - Về cái khoản đó thì... thì thỉnh thoảng cũng có.

     

    Cả phòng không nín cười được. Tôi liếc nhanh về cuối phòng, thoáng bắt gặp ánh mắt Trinh em vội quay đi, mái tóc em che mất nụ cười. Lan Bự cũng chưa tha tôi:

     

    - Sao anh thỉnh thoảng? Tình yêu mà anh nói như là thư từ không bằng!

     

    Tôi cười hì hì:

     

    - Vậy thì chưa có.

     

    - Anh mà chưa có! Không tin - Lan Bự chanh chua.

     

    Trời ơi! Chẳng lẽ lại tin tôi có? Biết vậy thì hỏi làm gì? con gái thật lắm chuyện! Nghĩ vậy nhưng tôi không buôn cãi nữa. Thật tình mà nói đấu khẩu với mấy em tôi... dễ thua lắm! Bởi các em hơn tôi với tỉ lệ 4: 1 thực ra thì 3: 1 vì Trinh thường it' tham gia vào các đối chất, em chỉ ngồi nghe thỉnh thoảng nhìn tôi cười hoặc nói một câu (thường là bênh vực cho tôi).

     

    Các em hơn tôi chẳNg qua là "ỷ nhiều hiếp it'". Vốn là một thằng nhát gái nên những lần như vậy tôi cũng suýt bị "thót" tim. Tôi ít khi nào nói chuyện với Trinh. Nếu vào phòng tôi thường bắt chuyện với một ai đó, khi thì Lan gầy khi thì với Lan Bự Thỉnh thoảng tôi bắt gặp ở cúi phòng ánh mắt Trinh diệu dàng,cảm mến nhưng em vội quay đi che giấu vẻ thẹn thùng. Hình như bản năng của con gái vốn nhạy cảm với thứ ngôn ngử bằng ánh mắt ấy nên nếu mổi lần sang phòng các em mà vô phước phòng đông đủ thì sớm muộn gì đề tài của các em cũng hướng tôi về với Trinh. Tôi quê dễ sợ! Đâm ra lúng túng, khó sử nhất là sự có mặt của Trinh. Tốt nhất những lúc ấy tôi phải đ'anh bài chuồng cho lẹ. Nhưng lúc về phòng nằm một mình ánh mắt, nụ cười và tất cả những gì thuộc về Trinh cứ gợi lại cho tôi, đem đến cho tôi một cảm giác vừa bâng khuâng, vừa xao xuyến. Chính em, em đã đem lại sự điều hòa cho trái tim tôi. Sống bên cạnh "Những cô gái láng giề'ng" ấy tâm trạng tôi lúc nào cũng thấp thỏm (nhưng cũng có lúc bồi hồi). Nhiều lúc nghĩ tôi thầm phát câu. Tại sao phòng tôi ba thằng bạn còn lại các em không dám hó hé một lời mà cứ chọc tôi hoài, ghét ghê!

     

    Nhưng điều đó đã thấm vào đâu. Có một lần tôi phải trực phòng vì thứ bảy tụi trong phòng về quê hết. Sáng chủ nhật tôi dậy hở trể, xách xô đi tìm nước định xô cửa bước ra thì trời ơi! Ai đã khóa mất bên ngoài. Thôi đúng rồi! Trò nghịch của mấy em rồi! Tôi kêu lên:"Phòng 10 ơi mở cửa!". Tôi nghe tiếng đáp lại bên kia: "Ai đó, tự nhiên vào cửa không khóa!" Tôi chẳng biết cách nào nữa. Tức! Phòng chỉ có một cửa ra vào, giờ khóa mất tôi đành chôn chân trong bực tức. Tôi hét lên: "Mở cửa mau!" vẩn yên lặng, suy nghĩ một hồi tôi tìm cách trả thù khá hạ sách: Vào mùng ngủ tiếp. Cơn tức xuống dần rồi giấc ngủ cũng đến. Trong lúc mơ màng thì"Cọc! Cọc! Mở cửa!" Tôi mở mắt nhìn ra. Định quậy kiểu gì nữa đây? Nhưng tiếng gọi cũng chẳng còn nữa. Tôi mom men đến dòm qua khe cửa thì ổ khóa ở ngoài đã mở từ lúc nào. Tôi xách xô ra bồm nước, tiếng cười trong phòng 10 đuổi theo bước chân tôi. Bổng giọng của Lan gầy ở phía cửa sổ vọng ra "Ngủ gì đến giờ mới dậy!" Tôi quay lại ném cho em một cái nhìn tức tối, em vội rụt đầu nấp kỷ sau cánh cửa. Về phòng một lát tôi định ra quán tìm cái gì lót dạ, nhìn đồng hồ 9 giờ rồi! Giờ này xôi bắp đâu mà còn. "Thật các em hại tôi". Chợt có tiếng gõ cửa. Tôi hỏi vọng ra "Ai đó, vào đi!" Tim tôi như thót lại người vào phòng là Trinh. Em cười chào rồi đến ngồi trên chiếc giường đối diện với tôi. Giọng em nhỏ nhẹ:

     

    - Anh Thìn, phòng 10 nhờ em sang gặp anh.

     

    - Chuyện gì vậy? Tôi hỏi.

     

    - Để xin lỗi anh về chuyện khi sáng.

     

    Tôi bậc cười nghĩ đến trò nghịch của mấy em. Tôi có tức mà chẳng giận chút nào, Tôi hỏi lại:

     

    - Ai chơi trò quái ác đó?

     

    Em cười:

     

    - Ai cũng có quyền ngịch hết chỉ trừ mình em.

     

    - Sao vậy? Tôi hỏi:

     

    - Vì em không có khiếu nghịch nhất là với anh.

     

    Vừa lúc đó Lan Bự bước vào, em cười với tôi.

     

    - Xin lỗi anh nghe! Anh cho em mượn tờ báo.

     

    Tôi đáp lại bằng nụ cười rồi nhìn vào sách bánh trong tay em:

     

    - Bánh của ai vậy?

     

    - Của tụi em. Lan bày bánh lên mặt báo đặt ở chiếc rương làm bàn học của tôi rồi nói:

     

    - Anh ăn bánh đi!

     

    Trinh cũng bẻ bánh mời tôi. Lan vừa cắn bánh vừa nhìn tôi:

     

    -Anh Thìn, anh còn giận tụi em không?

     

    Tôi cười chưa đáp kịp em lại giụt:

     

    - Anh nói đi! Anh nói "Hết" đi!

     

    Kiểu ấy tôi làm sao giận các em chứ!

     

    Tôi đáp thành thật "Ừ, hết rồi!" chỉ nghe có vậy Lan bỏ bánh chạy ù về phòng nói to:

     

    - Ảnh hết giận rồi tụi bây ơi!

     

    Rồi tiếng cười của các em bên ấy vọng qua, tôi cảm thấy vui vui. Trinh nói:

     

    - Tụi nó sợ anh đói bụng nên mua bánh cho anh đó!

     

    Ôi! Kiểu này mấy em càng nghịch tôi càng có lợi!

     

    Trinh tiếp:

     

    - Anh đừng có giận, tụi nó nghịch nhưng mến anh lắm.

     

    - Còn em, em có mến anh không? Hỏi rồi tôi mới nghĩ mình liều. Tim tôi đập cấp tám.

     

    Em liếc nhìn tôi rồi cúi xuống:

     

    - Trong phòng em là người ghét anh nhất!

     

    Em kéo dài tiếng "Nhất" làm tim tôi muốn rụng luôn!

     

    Con gái họ nghĩ xuôi nhưng thường nói ngược phải không các bạn?

     

    Chuyện là thế đó! Cứ thử một người nào nhát gái chưa có người yêu như tôi về đăng ký ở phòng 11 chắc hiểu thế nào là nguyên nhân của bệnh tim.

     

     

    Ba ngày trôi qua tôi hết phù, nhịp tim vẫn chưa khá hơn. Tôi xin phép ra viện mua thuốc ký túc xá tự điều trị, vị bác sĩ già nhìn tôi ái ngại nhưng cũng thông cảm cho tôi. Ông đo lại nhịp tim tôi một lần nữa. Tôi vào phòng nằm ngay ngắn đưa tay cho ông bắt mặt, vừa lúc đó tim tôi như muốn nhảy lên vì tôi bắt gặp bên ngoài ánh mắt quen thuộc của Trinh, tiếp đến của Quỳnh, Lan gầy rồi Lan Bự. Tôi mĩm cười ngỏ ý chào, các em đáp lại bằng nụ cười thân ái.

     

    Tôi nghe lòng xúc động. Các em đối với tôi thân thiết quá! Tình cảm của tôi lúc này không biết diển tả sao cho đúng nghĩa, chỉ biết rằng lòng tôi đang vui, vui lắm!

     

    Sau một lúc bác sĩ gật đầu:

     

    - Ờ nhịp tim hôm nay có khá hơn.

     

    Tôi suýt bậc cười. Rõ ràng bác sĩ làm sao hiểu được ánh mắt ngoài kia đang tăng nhịp cho trái tim tôi.

     

    Ra khỏi phòng, tôi chào các em một lượt. Để tránh sự ồn ào, tôi mượn thêm chiếc băng dài ra đặt bên chiếc ghế đá ở hành lang. Vừa ngồi xuống các em đã hỏi tôi đủ chuyện nào tôi đã khỏe chưa? Ăn cơm được không? Bao giờ ra viện? Tôi đáp lại để các em an tâm:

     

    - Hôm nay anh ra viện.

     

    - Thật hả? Lan Bự mừng rở. Vậy là anh được về rồi! Mấy ngày nay vắng anh tụi em buồn chết được.

     

    - Không có ai để các em quậy nữa chứ gì? Nghĩ vậy nhưng tôi không nói ra chỉ mĩm cười đáp lại lời Lan.

     

    Quỳnh lấy từ sách nào bánh, nào trái, đặt lên ghế rồi nói:

     

    - Tụi em đến thăm mang quà cho anh này, anh vui không?

     

    Tôi đáp lại thành thật: vui mà xúc động nữa.

     

    Chúng tôi ăn bánh nói chuyện. Một lúc tôi phát hiện Quỳnh khều chân Lan Bự, Lan Bự đứng dậy lóng ngóng:

     

    - Thôi thế này. Bây giờ Trinh ở lại với anh một lát nhận giấy xuất viẹ^n, anh và Trinh chờ tụi em ở cổng. Tụi em giờ phải đi thăm một đứa ở khoa ngoại. Đồng ý nhé!

     

    Tốt nhất lúc này tôi đáp lại bằng cái gật đâù. Chào tôi lần nữa các em đi. Tức cười chưa! Đi thăm bạn ở khoa ngoại mà các em đi về hướng căn tin.

     

    Tôi ngồi bên Trinh im lặng. Một lúc sau Trinh nói:

     

    - Anh đã khỏe hẳn chưa? Mấy ngày nay em lo cho anh quá!

     

    Hồi nhỏ khi làm xong một bài tóan đố, thường mẹ tôi cho một cục đường, tôi chạy ù ra ngỏ nhâm nhi mà nghe vị ngọt của đường chạy dần vào cổ. Còn bây giờ lời nói của em còn ngọt ngào hơn cục đường của mẹ tôi xưa.

     

    Tôi nắm bàn tay em để nghe con tim thổn thức bồi hồi. Tôi muốn nói nhỏ, thật nhỏ nhưng đủ để mình em nghe thôi: Trinh ơi, anh khỏi bệnh rồi!

     

    Võ Nhật Thủ

    (ĐHBK Đà Nẵng)


  13. 8. Bay Theo Những Cánh Diều

     

    Gió vẫn thổi vù vù, ùa vào nhà, lật tung và quăng tờ lịch xuống đất. Bây giờ là tháng giêng mà!

     

    Đúng rồi. Tháng giêng là tháng của những cơn gió. Gió thổi lồng lộng, gío kiến thằng bù nhìn vẫy tay xua chim nhiệt tình hơn, gío lùa những ngón tay to của mình làm rối tung mái tóc những cây dừa. Tháng của trò chơi thả diều... Bầu trời cao hơn ruộm vàng màu nắng và những con diều, không cầu kỳ với chiếc khung to dầy ren tua như của các nghệ nhân mà thật đơn sơ, thậm chí xấu xí, nhưng nó mang trên đó bao kỳ vọng của trẻ thơ: "Cao hơn, cao hơn nữa đi!".

     

    Trong óc tôi chợt hiện lên một hình ảnh chú bé cởi trần, mớ toc' cháy nắng, tay cầm lon, tay quấn chỉ, mắt đăm đăm hướng về phía con diều với niềm say mê bất tận "cao hơn, cao hơn nữa đi!". Đó chính là tôi của năm, saú năm về trước. Mùa diều nào cũng vậy, chú ấy đã làm tôi tự hào biết mấy với đám con nít xóm trên về những con diều rất ư to, đẹp. Nhưng cả hai năm nay, không còn ai làm diều cho hai anh em tôi nữa. Tôi vĩnh viễn mất chú ấy rồi. Đó là người mà trừ những người thương yêu trong nhà ra, không ai tôi có thể quí hơn được.

     

    Tôi lần dở những trang an-bom trong óc. Mỗi trang đều hiện lên hình ảnh chú ấy...

     

    ... Hồi xưa, không biết đã bao lâu, khi giặc Tây đã rút đi, ông nội tôi cùng với người bạn thân nhất của mình từ Sài Gòn về đây phá hoang mang theo những người vợ rất trẻ của mình. Thế là mọc lên hai ngôi nhà cạnh nhau, cùng nhìn ra sông, cùng sinh họat chung một bên sông... Hai nhà sinh con đẻ cháu và đám trẻ này được quí như của chung, cùng leo trèo ổi, mận của hai nhà, cùng nghe chuyện kể không bao giờ kết thúc của hai người già. Xích mích cũng có đôi khi nhưng cuối cùng vui vẻ cả.

     

    Chú Nhân là con trai út của chú Tám. Tôi gọi bằng chú vì theo ngôi thứ chứ thật ra tuổi của chú chỉ đúng bằng tuổi của chị lớn của tôi thôi. Nói đến một chàng trai nông thôn, người ta thường liên tưởng đến một gương mặt chất phác, mớ tóc húi cua, những cơ bắp cuồn cuộn, tấm lưng rộng tạo vóc dáng dậm thấp. Út của tôi (tôi thường gọi vậy) thì không. Nhìn vào người thanh niên này bạn có thể thấy tất cả những gì thanh tú, ngời sáng: thân hình cao thẳng, khuôn mặt thuôn thuôn với nước da nâu hồng mịn màng, đôi mắt to với tia nhìn thẳng đôi lúc xa xăm, trông có vẻ lạnh lùng nhưng thật đáng tin cậy, cộng với chiếc mũi thẳng khiến chú đẹp như một thiên thần trong tranh thánh mà tôi đã được xem ở nhà anh thợ vẽ quảng cáo. Tôi cũng không hiểu sao công việc nặng nhọc lại không làm mất đi vẻ thanh tú đó.

     

    Chú Út là một chàng trai tốt, gánh vác mọi việc trong nhà nhất là khi anh trai sang ở quê vợ. Chú khỏe mạnh và cũng thật khéo tay. Mùa diều nào chú cũng làm cho anh em tôi những co diều thật đẹp. Những lúc như vậy, chi Hai tôi lại dò dò đi nấu khoai khao mấy chú cháu. Chị Hai nói: "Út làm diều đẹp vì Út mơ làm phi công, Út sẽ bay như diều vậy!". Tôi để ý thấy dạo ấy chị tôi và chú có một cái gì đó khang khac'. Buồn nhất là họ không còn tắm sông chung với nhau nữa, chỉ đôi khi chị mang đồ ra giặt lúc chú tập bơi cho lũ chúng tôị Chứ trước kia thì vui khỏi phải nói. Cả hai băng sông mót dái khoai (củ nhỏ, mọc trên dây) về nấu, leo chót vót lên đọt bần hái trái chín sau đó "bom" ùm xuống sông,... rồi những vụ mùa cùng giúp người lớn vỡ khoai, kết bó chở lên chợ bán những cành mai trong những ngày sắp tết... Những ngày ấy thật đáng nhớ.

     

    Nhưng đâu phải lúc nào con người ta cũng gặp đều tốt đẹp. Ông Tám đau nặng và qua đời. Đó là một mất mát lớn đối với chúng tôi. Chú Út phải nghĩ học vì hiện giờ chú là người đàn ông duy nhất của gia đình. Ước mơ không thành. Sau đó, chú xin được một chân "ta chạp" trong lò đường bên kia sông. "Tả chạp" là gì không hiểu chỉ biết là chú phải giúp việc cho những người nấu đường. Độ vài ba ngày chú mới về nhà, vào lúc chạng vạng tối, và lần nào cũng như lần ấy, ghé vào nhà bếp gọi chị tôi.

     

    - "Cho Hòa cái này nè!".

     

    Và tôi biết. Đó là một cây mía rốc vỏ sẵn được nhúng vào chảo đường luc' đường đang tới. Chị tôi thích món đó lắm. Món quà thật hấp dẫn nhưng luôn kiến chị tôi nhớ lại một lần, cũng "Cho Hòa cái này" và... và gói nhỏ đựng một chú chuột đỏ hỏn khiến chị một phen kinh hoàng.

     

    Một năm sau, chị tôi trúng tuyển vào đại học. Trường ở tận thành phố nên chị phải ở lại ký túc xá. Nhìn chị quỳ trên giường thu sếp đồ đạc, nghe má dặn dò lối ăn cách ở, tôi buồn nẫu ruột, như thể chị sắp phải theo chồng biệt sứ vậy. Tôi cảm thấy mất mát một cái gì đó.

     

    Chú Út vẫn đi đi về về, vẫn mang về cho tôi những cây mía nhúng đường nhưng trông chú có vẻ buồn. Sau đó vài tháng, chú cũng trúng tuyên nghĩa vụ. Tôi lại phải nhìn chú tới lui thu xếp đồ đạc, nghe bà T'am dặn dò lối ăn cách ở... tôi lại buồn nẫu ruột, cảm giác mất mát hệt như lúc chị Hai đi vậy... Chú đi rồi, chú Tư phải trở về ở, mang theo một bà thím mập ú ù và một lô con nít. Chúng đùa giỡn hò hét suốt ngày nhưng chẳng làm tôi vui được chút nào hết.

     

    Có một lần về phép, cũng tháng giêng, chú Út cũng lại làm cho anh em tôi những con diều, vẫn rất đẹp, rất to, rất đáng tự hào. Chú nheo mắt nhìn tôi: "Có khi nào cu Ti mơ làm phi công không? Bay cao hơn diều mà chẳng cần sợi nhơ này đâu!"... Tôi không ngờ đó là lần cuối cùng, chú làm diều cho tôi.

     

    Tôi nhớ hoài ngày chủ nhật hôm đó. Một thanh niên mặt quân phục ghé vào sân nhà bà T'am. Suýt nữa tôi đà reo lên... nhưng không phải, một khuôn mặt lạ. Anh ta có vẻ rất vội vàng, để lại trên ván một chiếc ba lô và ra đi. Điều gì vậy?... Những người phụ nữ oà lên nức nở. Tiếng khóc lần sang nhà tôi. Hai nhà cùng khóc như họ đã cùng đến đây, cùng xây dựng và cùng yêu thương con cái của nhau. Tôi hiểu điều gì sảy ra rồi. Tội nghiệp chị Hai, chưa kịp mừng vì trông thấy bóng quân phục lúc nãy thì... Chị bê thau quần aó đi như chạy về phía bên sông, ngồi xuống, ôm mặt nức nở, vai chị run lên. Còn tôi, tôi nấp sau chiếc xe bò lặng lẽ khóc. Tôi khóc cho chú và cũng vì thương chị nữa. Tôi đã lớn và đã phần nào hiểu được tình cảm của chú và chị.

     

    Bây giờ cũng lại tháng giêng, gió vẫn lồng lộn trên ngọn cây. Ngọn dừa trên bến sông quay quắt những tàu lá như muốn làm vặn vẹo cả thân dừa cao kều còng xuống như tấm lưng người già. Nắng mưa, mưa nắng, thời gian cứ trôi và nó vẫn đứng đó như một nhân chứng ghi nhận tất cả những thay đổi của cuộc sống, của con người ở đấy.

     

    Một cánh diều màu xanh ai đó thả rất cao đẫm nắng. Chú bay lên rồi ư! Không có sợi nhợ nào giữ được chú ư! Trong bộ đồ bay nhưng chú không ngồi trong máy bay mà bay với đôi cánh hẳn hoi, hệt như những thiên thần trong bức tranh thánh đằng nhà anh thợ vẽ quảng cáo...

     

    Bích Phương

    (Hóc Môn)


  14. 7. Bay Đi Bướm Phượng

     

    Kỉnh đi bên trái tôi, như buổi trưa đi học về nào cũng thế. Trưa nắng nóng như rang. Bọn tôi đã đi chung như thế này bao lâu rồi nhỉ? Nửa năm? Dám lắm! Từ khi tôi phát hiện ra rằng anh chàng cứ toán hiền khô này "ngụ" ở cùng đường tôi. Thế là thành cái lệ, buổi sáng Kỉnh đi bên phải tôi đến trường và buổi trưa, bên trái. Có một lần tôi phát hiện ra cái luật đó và hỏi Kỉnh. Anh ấp úng nói một cái gì đó. Rồi thôi.

     

    Trong lối nhìn của mọi người, Kỉnh và tôi là đôi bạn chí cốt và không tỳ vết. Một lần đi ngang qua hành lang B - tôi vô tình nghe một nhỏ tóc dài lớp B cười:

     

    - Thằng Kỉnh với con Ty hả? Trời đất, bộ mày không thấy mái tóc nó sao? Đờ-mi gạc-xông như nó mà biết yêu ai dám tao lộn cổ chết lắm à!

     

    Tôi phẩy tay. Hóa ra thiên hạ đang nói về bọn tôi đấy. Tôi với Kỉnh thân nhau ư? Hừm... tại sao không? Kỉnh hiền khô và học giỏi, tôi lanh lợi và học .... không giỏi lắm. Thế là rõ, ai "hoạt" chuyện người đó không xâm lấn điạ hạt của nhau làm gì? Vậy là hợp nhau quá rồi còn gì?

     

    Thế nhưng đôi khi tôi vẫn tự hỏi không biết tôi và Kỉnh đã thực sự thân nhau chưa? Như lúc này vật, chẳng biết Kỉnh đang nghĩ gì mà cứ im lặng như ngậm hột thị mặc cho tôi huyên thuyên trên khắp đường về. Hay là anh chàng còn quá xúc động về buổi lễ bế giảng sáng nay? Hay hồi hộp về vụ hè hấp dẫn sắp tới? Vô lý! Hè chỉ có ý nghĩa đối với một con nhỏ ham chơi như tôi thôi, chứ như với Kỉnh ... Độc thoại hoài cũng chán, mỏi miệng tôi bắt chước Kỉnh im lặng luôn. Không khí nặng nặng.

     

    Gần đến nhà tôi đột nhiên Kỉnh mở miệng:

     

    - Ty ... Rồi anh mở cặp ra. Tôi vấp phải cục đá và la lên:

     

    - Phượng, Kỉnh ơi!

     

    Kỉnh giật mình đóng cặp lại: - Gì Ty?

     

    Tôi mừng cuống quít. Cây phượng nhà bà Bảy trổ bông rồi, mà lại là mấy cái bông trổ đầu tiên trong xóm nữa mới ác chứ!

     

    - Phượng! Thôi Ty về nhe. Hè rảnh ghé Ty chơi!

     

    Rồi tôi vọt vào nhà. Mẹ tôi đang làm cơm trong bếp. Bà đưa tay lên trán quệt mồ hôi:

     

    - Phụ mẹ dọn cơm ăn nhanh rồi qua bà Bảy nấu dùm nồi cơm, con. Bà Bảy mày trưa nay mắc đi ăn giỗ bên bác Ba.

     

    Tôi ngẩn người: - Vậy nấu cơm làm chi?

     

    - Hình như có cháu bà Bảy mới về làm luận án đề án gì đó.

     

    Hồn tôi lại bay lên cây phượng với những chùm hoa hiếm hoi rực rỡ đầu mùa. Một thoáng tôi sực nhớ đến Kỉnh. Hình như ban nãy anh chàng định nói gì đó với tôi thì phải. Mẹ tôi khuyến cáo:

     

    - Đi qua bển nhớ đem theo tập ôn nghe con. Mày thiệt... Năm sau thi hết cấp rồi còn nhỏ nít gì nữa!

     

    Những chùm hoa đỏ thắm lại đầy ắp hồn tôi. Mẹ nói cực kỳ chí lý! Một lát nữa thôi tôi sẽ rinh sang nhà bà Bảy một chồng vở dày cộm. Nhưng chẳng phải vở Toán - Lý - Hoá nào cả, mà sẽ là chín quyển vở ép bướm phượng trong bộ sưu tập của tôi!

     

    Tôi lò dò bước ra vườn. Buổi trưa ngoài này mát tuyệt. Nồi cơm đã chín đang vùi than trong bếp, còn bóng dáng cháu bà Bảy đâu tôi chả thấy tăm hơi. Ai đó đang mắc võng ngủ dưới tán phượng. Chắc hắn chớ không ai. Tôi tiến lại gần và đánh giá sơ lược "nhân vật"... Ủa, gì mà trông như con nít thế này? Một tên con nít cao lêu nghêu. Tôi chui đầu qua võng và trèo lên cây. Tên này dở! Chứ tôi đang ngủ mà bị ai nhìn trộm dứt khoát sẽ bật dậy và hách xì một hơi ba cái cho coi!

     

    Vậy, nhưng tôi hoá ra lại còn dở hơn, vì chùm phượng ưng ý nhất đã tuột khỏi tay tôi và rơi trực chỉ ... mặt hắn.

     

    Hắn ta bật dậy (dĩ nhiên) và chộp lấy chùm phượng vứt đi theo bản năng. Tôi bị vướng lùng nhùng trên cây, và cũng gần như theo bản năng, hét lên:

     

    - Ê! đừng có dụt chùm phượng của tôi!

     

    Gã con nít lêu nghêu giật mình nhìn sững lên cây, cú nhìn khủng khiếp đến nỗi tôi chỉ thiếu điều sờ lên đầu để biết chắc mình chưa mọc sừng! Tôi thụ động "né" cú nhìn của anh ta và chuyển hướng sang chùm phượng. Hỡi ơi, bây giờ như nó chỉ còn là một túm giẻ! Tôi nổi đóa vùn vụt leo xuống.

     

    - Trời ơi chùm phượng cưng của người ta..

     

    Đầu tôi nóng phừng phừng. Hắn ta không hề nao núng:

     

    - Chị chưa giải thích vì sao chị lại ở đây.

     

    - Tại sao... Tại sao cái con khỉ! Là vì nội anh nhờ và tôi nấu cơm dùm anh đó biết chưa!

    Rồi tôi đùng đùng bỏ về. Anh chàng đứng ngây người ra một lát rồi la lên:

     

    - Uả! Vậy ra ... em là bé Ty đó hả?

     

    Tôi lầu bầu: "Hổng lẽ tui là anh sao!"

    Cái giò dài ngoằng của anh ta ba bước đuổi kịp tôi:

     

    - Hê, hiểu lầm! Xin cô nương thứ lỗi! - Anh ta cười, miệng toét ra tới mang tai - Ty cũng phải thông cảm cho tôi chứ! Không dưng đang ngủ ngon lành bị "pháo kích", mở mắt ra thấy đạo tặc..

     

    Tôi trợn tròn mắt lên. Anh ta lại toét miệng ra:

     

    - Quên, xin lỗi!

     

    Tôi lẩm bẩm:

     

    - Làm tan nát chùm phượng của người ta rồi mà còn xin lỗi ... xin lỗi!

     

    - Xin lỗi ... Uả quên! Nhưng mà ngày mai tôi sẽ đền cho Ty một chùm phượng khác, đảm bảo đẹp đàng hoàng!

     

    Tôi nhìn anh ta nghi ngờ:

     

    - Anh ... không nói cuội chứ?

     

    Anh ta giơ hai ngón tay lên trời theo kiểu chữ V:

    - Cuội ... bà bắn!

     

    Trưa hôm sau anh chàng quả có đền tôi một chùm phượng khác thật. Kèm theo đó là một cái cùi tay có bôi thuốc đỏ và băng keo thuốc. "Gì vậy?" Tôi hỏi. Anh ta cười (lại cười):

     

    - Cái hàng rào đầu xóm nó muốn xin tí huyết của tôi giữ lại ... làm tin!

     

    Bà Bảy cười. Bọn bay giống in con nít. Không biết có phải bọn tôi giống con nít thật không, thế nhưng với chùm phượng, Huy đã đặt niềm tin thứ nhất vào lòng tôi.

     

    Rồi anh ta dạy tôi cách ép bướm không bị sậm cánh, rồi lại đến cách vê các vòng màu sắc lên trên ... Đó là niềm tin thứ hai. Cho đến niềm tin thứ mười lăm thì thôi tôi không đếm nữa. Chúng tôi trở thành bạn thân của nhau và lần này chẳng bao giờ tôi có dịp thắc mắc không biết tôi với Huy có thực sự thân nhau hay không. Ở thôn quê thật có lắm trò. Bọn tôi vác cần câu đi câu cá lòng tong, trèo lên cây trứng cá cạnh bờ ao và vo lá dưà làm kèn thoểi toe toe ... Khi những cơn mưa bắt đầu trút xuống dày hơn là lại có thêm một trò dầm mưa bắt dế. Mẹ tôi có lần nửa đuà nửa thật:

     

    - Bác giao thằng Ty cho mày đó nghe Huy!

     

    Thế là anh chàng kiêm luôn chức gia sư khó thương nhất của tôi!

     

    Một hôm tôi chợt phát hiện ra trên khuôn mặt Huy vắng đi nụ cười quen thuộc. Anh chàng im lặng ngồi thổi kèn lá toe toe. Khuôn mặt này thật lạ lùng với tôi, và qả thật nó chẳng hợp với Huy chút nào. Trông như mặt chú hề lúc buồn! Tôi bứt rứt ngồi im, cố phát hiện ra nguyên nhân. Tiếng kèn lá cứ toe toe mãi bên tai làm tôi phát khùng. Tôi giật cái kèn ra khỏi tay Huy và vứt xuống ao:

     

    - Chẳng có mống nào chịu nghe tiếng kèn của Huy nữa đâu. Nào, nói đi, cái gì vậy?

    Giọng Huy xuội lơ:

     

    - Mai ta trở về Sài Gòn. Hết hè rồi!

     

    Tôi giật mình. Quả tình tôi ... Đã hết hè rồi sao? Tôi hít một hơi dài và lấy bộ thật nghiêm trang:

     

    - Ừm ... thì Huy về ... Thôi nào, lấy phong độ lại đi. Mặt Huy mà buồn thì ...

     

    - Chắc là về rồi đây ta sẽ... nhớ ở đây lắm!

     

    Tôi trợn tròn mắt lên:

     

    - Cuội ...

     

    Hai ngón tay lại giơ thẳng lên trời theo hình chữ V: - Cuội bà bắn!

     

    Kỉnh lại đến rủ tôi đi khai giảng đầu năm. Qua ba tháng dài không gặp bây giờ trông Kỉnh khác hẳn đi. Vẫn lúc đi bên phải và lúc về bên trái, nhưng bây giờ trong im lặng của Kỉnh có điềm tỉnh của một người lớn. Tôi biết, sách vở đã làm Kỉnh chững chạc thêm, chắc hẳn trong ba tháng hè anh đã chúi mũi suốt ngày vào mấy cuốn đề thi. Tôi nhại lại câu thơ Hàn Mạc Tử:

     

    "Kỉnh giờ lớn quá nhận không ra".

     

    Kỉnh cười hiền khô:

     

    - Bộ Ty tưởng Ty không lớn sao?

     

    Tôi nhìn Kỉnh nghi ngờ: Bộ tôi lớn thật ư?

    Con đường đến trường sáng muà thu thật đẹp. Tôi lơ mơ ngắm những cánh đồng xanh rì chạy tít tắp ra khỏi tầm mắt, và đột nhiên sực nhớ ra:

     

    - Ỡ ... bộ hồi bế giảng năm rồi Kỉnh định đưa gì cho Ty hả?

     

    Kỉnh quay mặt đi:

     

    - Không chẳng có gì.

     

    Kỉnh ít nói giờ lại ít nói hơn. Mọi người đều chấp nhận điều đó như chuyện bình thường. Một đưá miệng chóp chép tối ngày thì đưá kia phải bù lại chứ sao! Chỉ có mẹ tôi thôi. Đôi khi dường như bà cảm thấy có một cái gì đó - ừm - bất bình thường. Mấy lần bà im lặng ngồi nhìn tôi rồi nói:

     

    - Sao ... thằng Kỉnh ít nói quá vậy con?

     

    Thực tình tôi chẳng thích lắm chuyện động chạm đến tính khí bạn bè tôi. Tôi nhún vai cười:

     

    - Đó là ý trời!

     

    Ừ phải, đó đúng là ý trời, nên chúng tôi chẳng bao giờ có chuyện để cãi vả nhau, hay đúng hơn, Kỉnh chưa bao giờ buồn cãi lại tôi. Kỉnh hiền quá. Chúng tôi lại đi cùng nhau suốt mỘt năm mười hai như một đôi bạn thân trước mắt mọi người. Thế nhưng vẫn có đôi lúc tôi lại tự hỏi không biết tôi và Kỉnh có thực sự thân nhau không?

     

    Kỉnh lại im lắng đi bên trái tôi. Nắng trưa chớm hè gay gắt. Hôm nay là ngày bế giảng năm học cuối cùng của tôi. Năm nay muà phượng trổ muộn hơn mọi năm. Tán lá trên cây phượng nhà bà Bảy vẫn xam um. Tôi tắc lưỡi:

     

    - Nhanh thiệt Kỉnh hả. Mới đây mà đã một năm rồi. Nhớ ngày bế giảng năm rồi ...

     

    Kỉnh im lặng. Anh lúng túng rút từ túi áo ra một mẩu giấy gấp tư:

     

    - ... Cho Ty cái này.

     

    Tôi nhìn theo dáng Kỉnh đi khuất dần sau rặng râm bụt, kinh ngạc đến không mở miệng ra được. Cái gì kỳ vậy? Kỉnh đâu phải con người của những trò này?

     

    Tàng trứng cá cạnh ao nhà mát rượi, nhưng điều đó là thứ yếu. Tôi chỉ cần một chỗ thật yên tĩnh và không ai dòm ngó để tự do nghiên cứu mẩu giấy của Kỉnh:

     

    Ty ơi,

     

    Hôm lễ bế giảng năm rồi đó, Ty nhớ không, tôi đã định nhờ Ty viết ít dòng vào quyển lưu bút dùm tôị Để ít ra trong ba tháng hè tôi còn có một cái gì đó... Vậy mà ....

     

    Ty biết đó, Ty có nhiều bạn bè. Nhưng tôi chỉ có Ty thôi. Vì vậy ... mà thôi. Hôm đó về tôi suy nghĩ lại rồi. Tất cả những trò lưu bút, lưu niệm này đều vớ vẩn đối với Ty, phải không?

     

    Thế nhưng với một con bướm phượng ... Ty làm dùm tôi một con thật đẹp nha? Kể từ hôm nay... Tôi biết khó mà còn cơ hội để gặp nhau thoải mái như những ngày qua. Một con bướm phượng sẽ nhắc tôi về những ngày tháng bên phải - buổi sáng và bên trái buổi trưa cùng Ty. Hưá nha Ty?

     

    Kỉnh

     

    Tôi ngồi ngẩn tò te cố sắp xếp những ý nghĩ trong đầu lại, nhưng vô hiệu quả. Hoá ra Kỉnh không đơn điệu và "hiền quá" như tôi tưởng. Tôi bối rối gõ gõ đầu mẫu giấy vào lòng bàn tay, và sực nhớ đến ước mong một con bướm phượng của Kỉnh. Năm nay phượng trổ bông muộn. Tất cả các tán phượng trong xóm đều vẫn xanh um. Làm sao bây giờ?

     

    Khuôn mặt trẻ con và đám tóc bù xù nhuốm đầy bụi đỏ ló lên khỏi chạc cây trứng cá, như trong mơ. Tôi dụi dụi mắt. Á ... Huy thật ư?

     

    - Ê! Tôi hét lên rồi bổ nhào về phía anh ta. Huy cười:

     

    - Coi chừng rớt xuống đất dập mũi bây giờ!

    Huy bây giờ gầy nhom và đen thui. Chỉ có nụ cười là không đổi. Tươi rói.

     

    Tôi không biết tại sao hôm đó tôi lại có thể nói nhiều đến thế. Suốt cả chín tháng ròng chứ ít sao? Khi dừng lại để thở, tôi phát hiện ra nãy giờ một cánh tay của Huy cứ giấu ra sau lưng.

     

    - Mỏi không? Tôi đâm ngang.

     

    - Miệng hả? Đâu có mỏi. Nãy giờ ta đã nói gì đâu!

     

    Tôi phẩY tay:

     

    - Không phải. Cái tay cứ bị bẻ cúp ra đằng sau lưng đó!

     

    Huy cười. Mắt anh chàng lóe lên một tia tinh quái:

     

    - Đố Ty biết sau lưng ta có gì?

     

    Tôi cười nịnh:

     

    - Thôi thân quá mà... Xí muội mận chứ gì?

    Huy xoè tay ra. Một chùm phượng đỏ rực lên trước mắt tôi như một chùm lửa nhỏ. Thật-quá-sức-tưởng-tượng! Tôi líu lưỡi:

     

    - Huy... Huy kiếm đâu ra... hay vậy?

     

    Huy chìa ra cái khủy tay rướm máu chưa kịp bôi thuốc:

     

    - Ban nãy về ngang xóm trên thấy trên cây có độc một chùm này - Huy nghiêng đầu sang tôi - Không dưng nó làm ta nhớ quá. Đúng một năm rồi!

     

    Tôi chúi mũi vào chùm phượng. Một hai ba bốn... sáu cánh, tất cả, cộng một cánh đốm chấm trắng nữa là bảy. Tuyệt vời! Tôi buột miệng:

     

    - Vậy là được rồi!

     

    - Gì được?

     

    - Chùm phượng này nè. Sáu cánh đỏ được một bướm kép ba - cái cánh chấm trắng xẻ đôi chia đều ra làm cánh phụ... Thế nào Kỉnh cũng thích lắm!

     

    -... Kỉnh?

     

    - Bạn Ty đó. Ty tưởng hắn đơn điệu lắm nhe... ờ, mà hắn cũng hiền lắm nữa... Ủa mà, không phải - Tôi phẩy tay, bực cho cái lối ăn nói không ra đầu đũa chi của mình - Mà Huy biết hôn ....

     

    Nụ cười trên mặt Huy vụt tắt. Tôi lúng túng im bặt và nhìn chăm chăm vào đôi mắt Huy. Không dưng chúng làm tôi sợ... Ê, đừng nhìn tôi cái kiểu như thế chứ. Không còn cái vẻ chú hề buồn thuở nào trên khuôn mặt Huy lúc vắng nụ cười. Bây giờ nó nhuốm vẻ mặt của một ông kẹ.

     

    - Đó. Huy dúi chùm lửa nhỏ vào tay tôi: - Ty mang về mà ép bướm kép đi... Ừ, để làm vui lòng cái anh chàng Kỉnh gì đó của Ty đi!

     

    Dáng Huy lêu đêu và buồn bã. Tôi ngồi im cố nắm bắt lại vấn đề trong cái đầu rối rắm đầy sự kiện. Chùm phượng không ai giữ rơi tỏm xuống ao và lập tức bị bao lại bởi một bầy lòng tong ranh ma. Tôi vò vò mẩu thư Kỉnh trong tay. Cái gì kỳ vậy? Tôi ngồi thừ người ra. Vậy là sao? Tự dưng Huy giận dữ với tôi quá vậy chứ?

     

    Rồi một cái gì đó lóe lên trong đầu tối tăm của tôi. Tôi vội cho ngón tay vào miệng và ngậm lại. Trời ơi, sao tôi có thể ngu ngốc đến thế? Tôi lăng xăng xoay ngang xoay dọc trên cái chạc cây trứng cá. Phải làm gì đây? Cái gì bây giờ?

     

    Chùm phượng của tôi đang bập bềnh trên mặt nước. Tôi cuống quýt tụt xuống chạc cây và nhào xuống ao, lính quýnh giành giật nó lại từ lũ lòng tong háu đói. Rồi tôi rũ nước cho kỳ ráo từ những cái cánh đỏ rực nhỏ nhoi, không nhận ra những giọt nước mắt đang ràn ruạ trên má tôi. Rồi tôi băng ngang hàng rào dâm bụt nhà bà Bảy. Huy ơi Huy ơi! Tôi gào thầm trong lòng. Tôi thực sự chẳng biết sẽ nói gì với Huy đây, nhưng nhất định tôi sẽ nói...

     

    Lê Đỗ Quỳnh Hương


  15. 6. Bài Thơ Về Hạnh Phúc

     

    Mười sáu tuổi, tôi theo gia đình vào Suối Nghệ. Mười bảy tuổi, tôi bắt đầu tập tễnh làm thơ. Nhà tôi chỉ có hai anh em và má. Má tôi rất thích thơ. Tôi biết điều đó tại vì hồi nhỏ má thường ru tôi ngủ bằng thơ mà! Chính vì lẽ ấy mà bây giờ tôi không lấy làm ngạc nhiên là tôi cũng biết làm thơ ! Chỉ riêng có anh Lâm là chúa ghét thơ. Bởi vậy cho nên điểm môn văn của anh ấy là toàn gậy với gộc.

     

    Tôi nhớ có một lần anh Bình đưa cho anh Lâm một bài thơ gì đó, gọi là hay lắm! Anh Lâm xem xong, lầm bầm câu gì không rõ rồi đút xuống gầm gường.

     

    Một buổi trưa tôi hì hục moi ra từ cái "khung trời" hỗn độn ấy một mảnh giấy đã úa vàng. Anh Lâm hét lên: "Gái!"

     

    Tôi nhe răng cười: - Em hỗng có lục thư của anh đâu mà sợ!

     

    "Sợ gì!" - Anh Lâm chồm lên, chụp lấy tay tôi, giật mạnh. Mảnh giấy đứt hai, chao mình, rơi xuống đất.

     

    Anh Lâm à lên một tiếng nhẹ nhõm rồi lắc đầu:

     

    - Đồ khùng! ngày đến tối cứ thơ với thẩn, tao méc má cho coi!

     

    Rồi anh lườm tôi: "Bộ mi thích bài thơ đó lắm hả!". Mặt anh lúc đó nghiêng nghiêng về một bên, trông phát ghét! Tôi nổi khùng thật sự. Quai hàm bạnh ra, tôi hét lên trả đũa: - Tui cũng méc má cho anh coi!

     

    Có lẽ tiếng hét của tôi còn to hơn tiếng của anh Lâm nên lúc tiếng coi vừa phóng ra khỏi miệng, giọng tôi đã vỡ, ùa ra thành tiếng khóc: Hu! hu hu!...

     

    - Thôi, thôi, thôi!

     

    Anh Lâm hoảng hốt xua xua hai tay còn hai chân xỏ lẹ vào đôi dép nhựa và phóng lên xe. Đến đầu sân, anh ngoái lại:

     

    - Thôi nín đi mà! Mít ướt!

     

    Và anh cút đi. Tôi nghe trong làn gió:

     

    - Nói má ba giờ anh về.

     

     

    Buổi chiều, anh Lâm về. Má tôi vừa têm trầu vừa hỏi: "Sao trễ vậy con?". Anh Lâm nhìn sang tôi, cười cười.

     

    - Tụi con ráng giải cho xong bài toán, má à!

     

    Và anh nháy mắt với tôi. Tôi lầm bầm bưng rổ rau ra hiên ngồi rữa. Tôi nghe má "khảo" anh:

     

    - Anh em ở nhà xéo xắt nữa phải không Lâm?

     

    - Dạ đâu có!

     

    - Sao má thấy mặt em Gái ỉu xìu vậy?

     

    - Dạ, con cũng không biết nữa!

     

    Tiếng má thì thầm. Tôi cố căng tai ra, nghiêng đầu... Tôi chỉ nghe loáng thoáng: "... lớn rồi... yêu thương nhau mà sống... học hành ... đừng để... con không cha...".

     

    Tôi nghe tiếng khóc của anh Lâm.

     

    Đêm. Trăng lên. Trăng mười sáu. Trăng mênh mông và mát lạnh. Tôi tựa lưng vào thành giếng, nghĩ tới lời nói má lúc ban chiều.

     

    Ba mất khi tôi tròn ba tháng tuổi. Năm đó anh Lâm cũng vừa lên bốn. Má ẫm hai con trở về Tiên Phước. Bữa sắn, bữa cơm ...

     

    - Gái!

     

    Một cái gì giống như chiếc lá cọ vào gáy tôi, ngọ nguậy. Anh Lâm. Tôi chùi mắt : "khóc nữa hả!". Tôi bỏ đi. Cái lá chạy theo, cọ vào má tôi: - Anh đền cho nè!

     

    Tiếng anh như van lơn. Tôi mềm lòng:

     

    - Đền cái gì?

     

    - Bánh.

     

    - Xạo!

     

    Anh Lâm bật cười dúi vào tay tôi:

     

    - Giỡn chơi, đây nè! Anh năn nỉ gần chết thằng Bình mới chịu chép cho.

    Tôi cầm tờ giấy trên tay chạy vội vào nhà:

     

    - Hèn chi hồi chiều! Ồ, anh Lâm tội quá!

     

    Vậy là ngày hôm sau, tôi đã có trong tay hai bài thơ mới: Một của Dương Hương Ly và một của tôi. Tôi chìa bài thơ của tôi cho anh Bình xem, mũi phập phồng... Lúc đó cả anh Bình và anh Lâm đang bàn cãi nhau. Anh Bình bảo:

     

    - Nhà Lan ở đường 23! Tao biết.

     

    Anh Lâm chui mũi:

     

    - Biết cái khỉ khô!

     

    - Sao hông biết! - Anh Bình phùng má lên. Tôi thấy trái cóc trên cổ anh đang trổi lên, tụt xuống. Tôi muốn binh anh qua chừng mà không biết phải làm sao. Mà tôi cũng tức nữa! Mặc kệ nhà cô Lan cô Liếc nào đó! Có vậy mà cũng cãi nhau.

     

    Anh Lâm đưa tay ra:

     

    - Cá nè! Một chầu yaourt! Tao đã đạp xe đến tận nhà.

     

    Anh Bình nhìn sang tôi: "Bao luôn Gái nữa?" Anh Lâm giật đầu. Tôi thấy anh Bình cũng đưa tay ra. Cái ngón trỏ cong lai: Rồi!

     

    Anh Bình hỏi anh Lâm:

     

    - Mày vào nhà luôn?

     

    - Không.

     

    - Thế lúc đó mày làm gì?

     

    - Tao về.

     

    - Trời đất! Ha, ha, ha ... Anh Bình phá lệ cười, hay tay vỗ đồm độp xuống măt. bàn:

     

    - Lầm rồi ông ơi!

     

    Anh Lâm trợn mắt:

     

    - Sao lầm?

     

    - Chứ sao không! Tao hỏi mày nè! Trước nhà nàng có cây gì?

     

    - Cây mít.

     

    - Cây gì nữa?

     

    - Chịu! Lúc đó nàng vào nhà còn tao phải quay xe về thôi. Mấy con chó dữ quá!

     

    Nói xong, anh Lâm ngồi thừ người ra, nghĩ ngợi. Khuôn mặt đỏ bừng. Anh Bình thôi cười, quay sang tôi:

     

    - Thơ của Gái hả đâu, đưa anh xem!

     

    Tôi hí hững: - Đây nè, hay hơn mấy bài trước.

     

    Tôi chăm chú nhìn vào mắt anh Bình. Đôi mắt của anh đang mở to, mở to... Anh ngước lên:

     

    - Ủa! Sao giống.

     

    - Giống gì? - Tôi ngơ ngác.

     

    - Giống bài thơ của Dương Hương Ly anh chép cho Lâm quá vậy!

     

    - Đâu có giống!

     

    Tôi cãi lại, cảm thấy phật ý. Anh Bình nhìn tôi:

     

    - Ừ, thì không giống. Nhưng em chỉ cần sửa lại một chút thôi, ví dụ như...

     

    Tôi mong ngày chủ nhât.. Bởi vì ngày ấy anh Lâm sẽ trở về nhà sau một tuần ở trọ. Rồi chủ nhật cũng tới. Anh Lâm về, có cả anh Bình. Cả hai đều gầy đi trông thấy. Tôi biết cả hai đang mất ngủ cho kỳ thi vào đại học.

     

    Anh Bình lôi trong cái túi da đã sờn ra một bịch ni lông:

     

    - Cóc! Tôi reo lên.

     

    - Không phải cóc. Khế! Anh Bình nheo mắt, cười và đưa tay sờ vào cục u giữa cổ: "Cái này mới là cóc nè!". Tôi ôm bịch cóc phóng ra sau nhà. Cái mặt nóng bừng bừng. Anh Lâm nói với theo: "Ăn chua như quỷ ấy!". "Kệ! Làm quỷ mà được ăn chua... thì quỷ hay ma gì cũng được".

     

    Ngày anh Lâm và anh Bình nhận giấy báo vào đại học, tôi là người vui nhất. Một, tôi vui vì hai anh của tôi đậu vào đại học, đó là lẽ đương nhiên! Hai, ngày hôm đó bài thơ của tôi được anh Bình thưởng cho một quyển sổ màu xanh kèm theo một bịch ổi to tướng, anh Bình bảo: "Cuốn sổ là để Gái chép thơ".

     

    Má anh Bình may cho anh một cái áo mới. Má tôi may cho anh Lâm một cái quần tây, màu nâu sẫm. Anh Lâm đưa bàn tay vuốt vuốt cái áo kẻ ô, nói với anh Bình:

     

    - Cái áo này đi với quần của tao là nhứt!

     

    Anh Bình gật gù:

     

    - Ừm! ừm! Tao bữa, mày bữa.

     

    Tôi biết hồi còn đi học, hai anh đều mặc chung đồ và rất thân với nhau. Một bữa khác, anh Bình bảo tôi đưa cho anh đọc lại bài thơ lần nữa. Bài thơ có tất cả mười bốn câu. Tôi chép trong một tờ giấy học trò. Anh Bình chỉ đọc một loáng là xong. Anh lật qua, lật lại tờ giấy. Lần nữa, lần nữa, rồi nhắm mắt. Tôi tưởng anh ngủ. Bỗng dưng anh mở mắt ra:

     

    - Gái biết hạnh phúc là gì không?

     

    Tôi triết lý:

     

    - Hạnh phúc là... là một khái niệm quá mơ hồ, không hiện hữu. Nó khó tìm, chợt đi, chợt đến...

     

    Tôi cố vặn óc nhớ xem cái câu đó nó ở trong cuốn sách nào nhưng không nhớ nổi. Cái kim đâm vào tay nhức buốt. Trời! Hạnh phúc. Sao mà khó vô cùng.

     

    - Còn anh? Tôi hỏi lại.

     

    Anh Bình cười, bẻ ngón tay kêu rắc rắc:

     

    - Anh thấy Hạnh phúc đâu có khó tìm, đâu có chợt đi, chợt đến...

     

    - Vậy chớ nó ở đâu?

     

    Tôi tò mò nhìn anh Bình. Cây ghi ta trên tay anh khẽ rung lên những âm thanh vui tai, nhảy nhót:

     

    - Ở đây.

     

    Anh nhìn sâu vào mắt tôi, một thoáng. Tôi quay đi:

     

    - Em không giỡn đâu!

     

    Anh Bình cười, chỉ tay vào thùng đàn và treo trên vách:

     

    - Gái không tin sao? Hạnh phúc nó ở quanh đây, chỉ tại em không nhìn thấy.

     

    Và anh bước ra. Tôi nhìn cây ghi ta trên vách. Nó cũng đang nhìn tôi:

     

    - Gái không tin sao? Hạnh phúc...

     

    Một tháng sau, anh Lâm và anh Bình lên đường đi học. Hai anh sẽ đạp xe xuống Bà Rịa rồi từ đó đón xe đi Sài Gòn. Hôm tiễn đưa, có cả cô Lan, cô Hồng, cô Huệ và nhiều người bạn nữa. Các cô đều là bạn chung trường với anh của tôi. Cô Lan có cặp mắt to tròn, vừa cười vừa dúi vào tay anh Lâm một cái gì đó dài dài. Tôi đoán có lẽ một phong Sôcôla. Anh Lâm ghiền sôcôla lắm!

     

    Cô Hồng cứ bẹo má tôi bảo tôi giống em cô ở nhà. Tôi nghĩ hoài không biết em cô Hồng có một cái nuốt ruồi trên mắt như tôi không? Cô Huệ có mái tóc dài thật là dài. Cô ấy là con của ông chủ tiệm vàng Kim Minh chợ Quang Phước. Cô Huệ giành chở dùm cái túi xách cho anh Bình.

     

    Tôi cảm thấy buồn buồn mà không biết buồn vì cái gì. Tôi không đi tiễn. Tôi nhét vào xách anh Lâm hai cục xà bông tôi mua chiều hôm qua bằng tiền để dành... hai tháng trước cùng với một phong chuối ép. Anh Lâm bẹo má tôi:

     

    - Ở nhà đừng nhõng nhẽo với má nhe cô nương! Lớn rồi!

     

    Nói xong anh vỗ vỗ vào cái túi xách. Cái mũi hít hít:

     

    - Á à! Chuối! Chuối! Bình ơi!

     

    Tôi chuồn ra sau vườn, băng qua vườn của cô Thơm. Tôi chạy xuống đồng.

     

    Ba tháng sau anh Lâm về thăm nhà. Anh đem về cho tôi một cái kẹp tóc có hình con bươm bướm. Anh bảo:

     

    - Em kẹp cái kẹp tóc này chắc đep.. Đừng có thả bù xù nữa!

     

    Tôi cầm cái kẹp tóc và nhìn ra ngoài đầu ngõ. Nắng chiều vàng hơn mọi bữa. Cây mít lá cũng vàng hơn mọi bữa. Tôi không hỏi vì sao anh Bình không về.

     

    Sang ngày thứ hai, buổi sáng, anh Lâm đưa tôi một quyển sổ màu tím nhạt:

     

    - "Gái! Thằng Bình nó nhờ em chép giùm cho nó cái bài thơ hôm trước". Tôi nhăn mặt: "-Dể làm chi vậy?"

     

    Anh Lâm lắc đầu, cười:

     

    - Có trời biết! Hắn nói đọc thơ cho đỡ nhớ nhà!

     

    Ngày sau nữa, anh Lâm trở về Sài Gòn. Bài thơ của tôi cũng về thành phố. Tôi chợt mỉm cười khi nghĩ tới lúc anh Bình đọc nó - bài thơ "của tôi":

     

    ... Hạnh phúc là gi?

    Bao lần em lúng túng

    Hỏi anh Lâm hoài, nghĩ mãi cũng không ra!

    Chờ đến ngày cất bước đi xa ....

     

    THU AN

    (Bà Rịa - Vũng Tàu)


  16. 5. Bài Thơ Hoa Phượng

     

    Là một thành viên của lớp 12B, cái lớp nổi tiếng là ồn ào, lộn xộn nhất trường nhưng tôi lại rất trầm lặng, ít nói và thật thà. Sự trầm lặng qúa đáng của tôi nhiều lúc đã làm cho tụi bạn phát cáu lên được. Thôi thì đủ biệt danh mà họ gán ghép cho tôi. Nào là "cô nàng lãnh đạm", nào là "hòn đảo cô đơn", nào là "người đến từ thế giới suy tư", vân vân và vân vân. Cũng may là thượng đế chí công không nỡ ban phát cho tôi cái nhan sắc "ma chê quỷ hờn" và cái bộ óc ngờ nghệt như Thị Nở nên cũng có khối đứa cần đến tôi. Khối đứa thích nói chuyện với tôi vì một lẽ đơn giản: Tôi biết làm thơ. Những vần thơ con cóc, con nhái của tôi được tụi bạn chuyền tay nhau đọc và đánh giá là "có giá trị"

     

    Một buổi sáng mùa đông rét mướt, thầy dạy văn bước vào lớp, mặt tái mét, toàn thân run lên vì lạnh. Sau lưng thầy, những cơn gío bão lạnh thấu xương còn cố đuổi theo. Tụi con gái lớp tôi nhao nhao:

     

    - Thầy ơi! lạnh không thầy?

     

    - Lạnh quá thầy hén, nghỉ một bữa nghen thầy!

     

    Thầy nở nụ cười hiền hòa làm ấm hẳn lớp học. Minh "lém" được dịp hô to:

     

    - Thầy đồng ý rồi các bạn ơi! Mình đi ăn kem đi!

     

    Ngọc Bích gạt ngang:

     

    - Gặp mặt ông là kem với kẽm. Lạnh thí mồ! Tôi đề nghị đi ăn bò bíạ

     

    - Bò bía cũng chẳng ấm áp gì! Tôi đề nghị đi ăn bánh lọt giò heo. Nóng hôi hổi, vừa thổi vừa ăn - ý kiến của Quang cận coi bộ hấp dẫn hơn cả.

     

    Thầy nhìn cả lớp cười, hiền như một ông tiên. Bỗng thầy ra lệnh một cách bất ngờ:

     

    - Các em lấy giấy rạ Hôm nay các em sẽ làm thợ Chủ đề là "Hoa phượng".

     

    - Thể thơ gì thầy? Lớp trưởng hỏi.

     

    - Thể gì cũng được. Em nào nộp bài xong cứ việc ra chơi. Tôi sẽ lấy điểm này là điểm kiểm tra 15 phút.

     

    Tiếng lục cặp, tiếng rút giấy lào xào lào xào diễn ra không ngớt. Tụi bạn tôi hớn hở ra mặt, tay ghi ghi chép chép lia lịa. Có đứa cố nặn óc tìm tòi, bộ mặt khó đăm đăm trông giống hệt thi sĩ... dỏm. Có đứa mang bộ mặt "thần thừ" ngồi ủ rũ. Những cánh thư từ đủ mọi phía đáp la liệt xuống bàn tôi. Những lời cầu xin tha thiết kích thích cái dạ dày trống rỗng của tôi quá cỡ: "Hòn đảo cô đơn ơi! Bạn giúp tôi với. Dù chỉ 2 câu thơ thôi cũng được. Món chè đậu xanh nước dừa đang đợi bạn đấy" "Cô nàng lãnh đạm yêu dấu của tôi ơi! Thi sĩ nổi như... cồn của lớp! Bạn là một người tốt nhất trần gian, lẽ nào bạn đành lòng nhìn tôi bị điểm một. Lẽ nào bạn không thích món bún bò ngon tuyệt hảo?" Những bức tình thơ ngào ngạt mùi đồ ăn đầy sức cám dỗ bị người nhận phũ phàng gạt qua một bên. Những người gởi chờ mãi chẳng thấy thư hồi âm đành tuyệt vọng quay sang hì hục với cây viết và tờ giấy.

     

    Tôi lơ đễnh đưa mắt đảo một lượt quanh sân. Hai hàng phượng vĩ buồn ủ rũ, cành cây trụi lá đứng trơ ra đương đầu với những cơn gío rét dữ dội. Tôi nhìn đăm đăm vào những hàng phượng tội nghiệp. Trong óc tôi, những cánh phượng lung linh đỏ rực loáng thoáng hiện ra rồi biết mất. Phượng đã ngủ quên rồi giữa mùa đông giá rét. Vần thơ của tôi cũng trốn biệt trong cây viết dại khờ. Mười lăm phút trôi qua, một đứa nộp bài, rồi hai đứa, ba đứa..., rồi cả lớp. Tụi bạn nhốn nháo ùa ra khỏi lớp, cười nói râm ran cả sân trường. Một luồng gió lạnh thổi ùa vào căn lớp trống trải, toàn thân tôi chợt run lên. Mắt tôi vẫn chăm chú dán vào hai hàng phượng gầy trơ xương. Bỗng có tiếng giầy lộp cộp đi về phía tôi. Tôi hốt hoảng nhìn lên và bắt gặp cái chau mày của thầy. Tờ giấy trắng trong tay tôi run run, rã rời.

     

    - Thúy Loan! Em làm cho thầy vô cùng thất vọng. Thầy cứ ngỡ sẽ được đọc một bài thơ rất hay của em. Vậy mà...

     

    Tôi đáp lời thầy với vẻ dửng dưng, lạnh lùng:

     

    - Thưa thầy, chắc thầy cũng biết là làm gì có hoa phượng vào tháng này.

     

    - Tôi đồng ý như vậy. Nhưng diều chủ yếu là em phải tưởng tượng, phải biết tưởng tượng. Em nghe rõ chưa?

     

    Thầy mỗi lúc một lớn tiếng làm tôi phát hoảng lên. Những lý lẽ yếu ớt của tôi đưa ra để biện hộ cho mình:

     

    - Nhưng tưởng tượng bất cứ điều gì cũng phải dựa trên sự thật, thưa thầy. Em không thể ngợi ca màu sắc đỏ rực của hoa phượng khi tận mắt em chứng kiến hai hàng phượng trong sân trường đều không còn một chiếc lá.

     

    Thầy đứng ngây ra nhìn đứa học trò bướng bỉnh như nhìn một tinh tú lạ. Thầy giật phắt tờ giấy trắng run run trong tay tôi. Mặt thầy đỏ gay, ánh mắt tóe lửa nhìn tôi giận giữ:

     

    - Em giỏi lý luận lắm! Tôi cho em con zêrô để em hiểu thế nào là... lười biếng.

     

    Nói và làm. Con số không to bằng quả trứng vịt được ngòi bút quái ác của thầy điểm rất nhanh, giữa tờ giấy trắng. Tôi lơ đểnh quay mặt đi chỗ khác. Vẻ dửng dưng lạnh lùng che giấu con tim run rẩy đau nhói trong tôi.

     

    Từ đó tụi bạn không còn nhìn tôi bằng đôi mắt ngưỡng mộ đối với một thi sĩ nữa. Họ ngày càng xa lánh và lạnh nhạt tôi. Tôi càng thu mình nhỏ lại trong cái vỏ ốc chật hẹp và nhìn họ bằng ánh mắt giễu cợt. Vẻ kiêu căng ngạo mạn của lũ bạn lúc nào cũng phô trương trên mặt không cần dấu diếm. Bởi một lẽ đơn giản: những bài thơ của họ được điểm lớn. Tôi mĩm cười chua chát khi nhớ lại con số không to tướng đỏ chói của thầy. Tôi tự trách mình sao qúa thật thà. Sao không làm như lũ bạn: cóp pi thơ để được điểm lớn. Tôi trách cho trí tưởng

    tượng của mình quá nghèo nàn. Trách thói quen không biết giả dối của mình.

     

    Tôi đang ngồi suy nghĩ vẩn vơ chợt nhỏ Hằng nhéo vào vai tôi một cái đau điếng:

     

    - Loan nè, bạn cứ mãi làm "hòn đảo cô đơn" saỏ Còn mấy tháng nữa là nghỉ học rồi mà.

     

    Bích nắm tay tôi thân mật:

     

    - Loan, nhà thơ nổi tiếng của lớp ơi! Bạn mơ ước gì? Nói đi, tụi này sẽ vô chùa van vái

    Phật trời phù hộ cho bạn.

     

    Thắng "ca sĩ" cất giọng thanh thanh:

     

    - Loan phải mơ ước thật cao nghen! Để khi nó rớt xuống là vừa tầm với mình, như một

    nhà văn nào đó đã nói trên báo.

     

    - Trước tiên, mình xin các bạn đừng gọi mỉa mai mình là nhà thơ nữa. Dù sao, mình cũng bị

    điểm không môn làm thơ mà.

     

    Minh "lém" cắt ngang - Chứ Loan tưởng tụi này giỏi lắm hả? Nói thiệt nghen, toàn là... ăn

    cắp thơ của người ta không đó.

     

    Cái thông báo "thận trọng" của Minh chẳng có gì mới mẻ đối với tôi. Tôi đã thấu tận tim gan của họ từ khi thầy mới đọc lên những bài thơ tiêu biểu. Tôi tiếp tục phát biểu cảm tưởng của mình:

     

    - Ước mơ của mình rất giản dị và rất thấp. Bởi vậy mình không sợ bị rớt xuống đâu.

     

    - Ước mơ gì mà thấp dữ vậy nhà thơ? Nói nhanh ra đi! Bạn làm tụi mình sốt cả ruột hà.

     

    - Mình dự định sẽ thi vào ngành sư phạm vì mình thích làm cô giáo.

     

    "Tư tưởng lớn" của tôi vừa được tuyên bố, lập tức những bộ mặt hớn hở của tụi bạn chợt xìu xuống như bong bóng xì hơi. Tôi đọc được cả sự thất vọng ê chề lẫn sự khinh bỉ trong mắt mỗi đứa và tôi tự hỏi: Chẳng lẽ thi vào sư phạm là một cái tội hay sao? Chẳng lẽ thầy cô giáo, những người hết lòng truyền thụ kiến thức cho thế hệ đi sau là những người có tội? Dẫu sao, tôi cũng cảm thấy tự hào vì mình đã dám làm một việc mà không ai dám làm: Thi vào sư phạm.

     

    Thấm thoát mà ngày thi tốt nghiệp đã cận kề. Suốt ngày tôi đóng kín cửa phòng, không cho gió độc lọt vào để yên tâm mà "sôi kinh nấu sử". Kết quả thi học kỳ hai, điểm số tôi cao nhất lớp. Thầy cô ngỡ ngàng nhìn tôi với ánh mắt nghi hoặc. Tụi bạn tiếp xúc với tôi với bộ mặt hình sự xen lẫn sự ganh tị - Những "cây" văn, "cây" toán, "cây" sinh... giờ đây nằm la liệt dưới chân tôi. Một vài đứa bị cấm thi tốt nghiệp than thở: "Kỳ này mấy ổng, mấy bả gác căng quá" Con điểm 9 đỏ chói nằm một cách kiêu ngạo trên bài thi môn văn của tôi là đề tài muôn thưở cho tụi bạn xầm xì bàn tán. Hành chữ to đậm của thầy chủ nhiệm phê trong sổ học bạ cứ mãi lởn vởn trong óc tôi: "Giỏi, đáng khen, nhưng đây chưa phải là kết quả cuối cùng". Tôi cười thầm trong bụng: "Bây giờ người ta nghi ngờ cả sự thật vì cuộc đời đã có quá nhiều dối trá".

     

    Trưa hè oi ả, ông mặt trời như một núi lửa khổng lồ rượt đuổi như muốn thiêu sống những người đi đường. Nắng chang chang như táp vào mặt. Nắng chan mỡ gà trên những ruộng lúa vàng tươị Những cây phượng đỏ rực rỡ ở ven đường như sắp bốc cháy - chiếc xe đạp của tôi lồng lên trên sỏi đá lạo sạo. Con lộ đá ngoằn ngoèo như con rắn lượn đã dài lại càng dài thêm. Bụi tung lên mù mịt làm tôi muốn ngộp thở.

     

    Tôi đến cổng tưởng đã hơn hai giờ. Mồ hôi nhễ nhại ướt cả áo. Vừa thấy tôi, tụi bạn đã chạy ra, reo hò ầm ĩ:

     

    - Đãi tụi mình đi, Loan đậu thủ khoa rồi! Hoan hô! Hoan hô!

     

    Rồi không cho tôi kịp có ý kiến, cả bọn công kênh tôi lên, đi thẳng đến trước bảng thông báo. Nhìn thấy con số bốn mươi tròn trịa cạnh tên mình, tôi nhảy cỡn lên như trẻ nít. Thầy cô và cả các bạn lớp khác cũng bao vây lấy tôi. Nhìn tôi bằng ánh mắt trìu mến và tự hào. Tôi bỗng thấy mình trẻ con, mình bé lại trước sự quan tâm chân tình ấy.

     

    Một lúc sau, căn tin đã vang lên tiếng nói cười vui vẻ. Những cái miệng xinh xinh cười nói huyên thuyên như ngày hội. Những ly chè, ly kem được vét sạch sẽ mà chẳng đứa nào muốn về. Đứa nào cũng muốn ngồi với nhau thêm "một chút" nữa. Và những cái "một chút" ấy cứ nối tiếp nhau, trôi qua thật nhanh. Khi bóng hoàng hôn lãng vãng đến trong sân trường, tụi bạn kéo nhau ra về. Có đứa đòi chở tôi về tận nhà, tôi xua tay từ chối.

     

    Sân trường vắng ngắt, hoàng hôn buông phủ lên những ngọn cây. Tôi thơ thẩn đi dưới hai hàng phượng vĩ, lòng tràn ngập bao nỗi vui buồn lẫn lộn. Cơn gío cuối ngày nhè nhẹ thổi, những cánh phượng rực lửa loạng choạng rời cành đậu xuống vai tôị Tôi cúi nhặt những cánh phượng nhỏ xíu, nghe nỗi cô đơn thấm tận vào hồn. Cây viết và quyển sổ con trong tay tôi động đậy liên tục. Tôi ngồi dựa vào gốc cây, mắt đăm đăm nhìn lên những cành hoa đỏ rực. Ôi! Màu đỏ của hoa phượng, màu máu con tim và cũng là màu của... con số không tròn vành vạch thầy điểm giữa tờ giấy trắng thuở nào.

     

    Trong óc tôi, những vần thơ đã được phượng hình rồi bất giác ào ào tuôn ra trên đầu ngòi bút.

     

    Tôi viết, viết mãi... Những vần thơ xuất phát từ con tim, từ tấm lòng non dại chợt vỡ

    ùa ra như tiếng ve ngân dài giữa mùa hạ.

     

    Bóng thầy dạy văn thấp thoáng ẩn hiện ngoài cổng trường. Tôi hốt hoảng vừa chạy theo thầy vừa kêu lên thảng thốt:

     

    - Thầy ơi! Bài thơ... bài thợ..hoa phượng!

     

    Tia nắng cuối ngày rưng rưng rọi thẳng vào chùm hoa phượng rực lửa rồi tắt ngấm. Bóng áo xanh của thầy đã biến mất trong dòng xe cộ nhộn nhịp. Tôi nghe lòng mình rưng rưng, đôi tay bé bỏng rã rời nắm chặt lấy bài thơ viết muộn.

     

    Hạt Huyền


  17. 4. Bài Học Tuổi Thơ

     

    Thằng con tôi 11 tuổi, học lớp sáu. Qua mùa thi chuyển cấp, nhân một buổi chiều cho con đi chơi mát, nó kể... Đang hỏi nó về chuyện thi cử, nó chợt hỏi lại tôi:

     

    - Ba! Có bao giờ ba thấy có một bài luận văn nào không điểm không ba? Con số không cô cho bự bằng quả trứng gà. Không phải cho bên lề, mà một vòng tròn giữa trang giấy. Thiệt đó ba. Chuyện ngay trong lớp của con, chứ không phải con nghe kể đâu.

     

    Tôi chưa kịp hỏi, nó tiếp:

     

    - Còn thua ba nữa đó, ba. Ít nhứt ba cũng được nửa điểm. Còn thằng bạn con, con số không bự như quả trứng.

     

    Thằng con tôi ngửa mặt cười, có lẽ nó thấy thú vị vì thời học trò của ba nó ít nhứt cũng hơn được một đứa.

     

    Số là cách đây vài năm, có một nhà xuất bản gởi đến các nhà văn nhà thơ quen biết trong cả nước một câu hỏi, tôi còn nhớ đại ý, nhà văn nhà thơ thời thơ ấu học văn như thế nào, nhà xuất bản in thành sách "Nhà văn học văn". Đọc qua, nghe các nhà văn nhà thơ kể, tất nhiên là mỗi người có mỗi cuộc đời, mỗi người mỗi giọng văn, nhìn chung thì người nào, lúc còn đi học, cũng có khiếu văn, giỏi văn. Nếu không thì lấy gì làm cơ sở để sau này trở thành nhà văn? Rất lô-gích và rất tự nhiên. Duy chỉ co bài của tôi là hơi khác, có gì như ngược lại. Tôi kể, hồi tôi học ở trường Trung học Nguyễn Văn Tố (1948 - 1950) tôi là một học sinh trung bình, về môn văn không đến nỗi liệt vào loại kém, nhưng không có gì tỏ ra là người có khiếu văn chương. Và có một lần, bài luận văn của tôi chỉ được có một điểm trên hai mươi (1/20). Đó là kỷ niệm không quên trong đời học sinh của tôi, môn văn.

     

    Khi con tôi đọc bài văn đó, con tôi hỏi:

     

    - Sao bây giờ ba là nhà văn? Và bạn bè tôi cũng hỏi như vậy. Tôi cũng đã tự lý giải về mình, và lời giải cũng đã in vào sách rồi, xin không nhắc lại.

     

    Tôi hỏi con tôi:

     

    - Luận văn cô cho khó lắm hay sao mà bạn con bị không điểm.

     

    - Luận văn cô cho "Trò hãy tả buổi làm việc ban đêm của bố".

     

    - Con được mấy điểm?

     

    - Con được sáu điểm.

     

    Con tả ba như thế nào?

     

    - Thì ba làm việc làm sao thì con tả vậy.

     

    - Mấy đứa khác, bạn của con?

     

    Thằng con tôi như chợt nhớ, nó liến thoắng:

     

    - A! Có một thằng ba nó không hề làm việc ban đêm mà nó cũng được sáu điểm đó ba.

     

    - Đêm ba nó làm gì?

     

    - Nó tả ba nó đi nhậu à?

     

    - Dạ không phải. Ba nó làm việc ban ngày nhưng khi nó tả thì nó tả ba nó làm việc ban đêm, ba hiểu chưa?

     

    - Còn thằng bạn bị không điểm, nó tả như thế nào?

     

    - Nó không tả gì hết, nó nộp giấy trắng cho cô.

     

    - Sao vậy?

     

    - Hôm trả bài lại cho lớp, cô gọi nó lên, cô giận lắm, ba. Cô hét: "Sao trò không làm bài". Nó cúi đầu làm thinh. Tụi con ngồi dưới, đưá nào cũng run cho nó.

     

    - Nó là học trò loại "cá biệt" à?

     

    - Không phải đâu ba, học trò tiên tiến đó ba.

     

    - Sao nưã? Nó trả lời cô giáo như thế nào?

     

    - Nó cứ làm thinh. Tức quá, cô mới quất cây thước xuống bàn cái chát: "Sao trò không làm bài?" Tới lúc đó nó mới nói: "Thưa cô, con không có ba". Nghe nó nói, hai con mắt của cô con mở tròn như hai cái tô. Cô đứng sững như trời trồng vậy ba!

     

    Tôi bỗng nhập vai cô giáo. Tôi thấy mình ngã quỵ xuống trước đưá học trò không có ba.

     

    Sau đó cô và cả lớp mới biết được, em mồ côi cha vưà lọt lòng mẹ. Ba em hy sinh trên chiến trường biên giới. Từ ấy, má em ở vậy, tần tảo nuôi con...

     

    Có người hỏi em: "Sao mày không tả ba của đưá khác". Em không đáp, cuối đầu, hai giọt nước mắt chảy dài xuống đôi má.

     

    Chuyện cuả đứa học trò bị bài văn không điểm đã để lại trong tôi một nỗi đau. Em bị không điểm, nhưng với tôi, người viết văn là một bài học , bài học trung thực. Sáng tạo không đồng nghĩa với bịa đặt.

     

    Giữa những dòng chữ bịa đặt và trang giấy trắng, tôi xin để trang giấy trắng trung thực trên bài viết.

     

    Nguyễn Quang Sáng


  18. 3. Bây Giờ Ba Ở Đâu

     

    Tôi cố thu mình trong chiếc áo lông để thấy mình bé nhỏ hơn giữa bầu trời vắng lạnh đang nhuộm sắc sang đông. Những giọt sương thi nhau rơi xuống dưới mái hiên nhà. Mấy con chim cu gù cánh trên cành cây đẫm sương đêm, giờ này tôi nhớ đến ba, nhớ đến gói quà đêm sinh nhật ba đã gởi tặng cho tôi. Sinh nhật cuả tôi đúng ngay vào muà đông giá lạnh, buổi sinh nhật ấy không có mặt ba. Tôi đã khóc suốt đêm ấy và nghe lòng mình băng giá như không khí mùa đông ngoài cửa sổ. Tôi chưa mở gói quà ấy ra vì tôi nâng niu quý trọng nó như một bảo vật. Thấy nó tôi nghe lòng mình được an ủi phần nào. Món quà ấy là niềm vui lớn lao nhất của tôi và nó sẽ luôn luôn đúng nghĩa và xứng đáng với tình cha con. Ba tôi làm chức thuyền phó khá bận rộn đối với ba tôi. Đồng thời lương của người cũng đủ dư để nuôi mẹ và tôi. Tôi thương ba hơn mẹ vì... mỗi việc gì đều có lý do của nó thôi và giờ đây tôi đang dõi mắt về hướng chân trời để tìm một cánh buồm mang đầy tình thương.

     

    - Kha đâu rồi con?

     

    Nghe tiếng mẹ hỏi, tôi vội vã bước vào nhà. Căn nhà sáng trưng ánh điện, khác hẳn với cảnh vật bên ngoài làm nổi bật thân hình đầy sức sống của mẹ. Mẹ nhíu mày.

     

    - Ngồi gì ngoài sương vậy con, vào đây giúp mẹ một tay?

     

    Tôi biết mẹ sắp đi dạ hội vì mẹ đang trang điểm. Tôi chẳng bận hỏi đến điều đó làm gì. Tôi giúp mẹ sơn móng chân, móng tay và bới tóc. Mẹ còn nhiều nét đẹp lắm, trên khuôn mặt mẹ không vương một nét sầu, không giống như khuôn mặt bánh... bèo của tôi.

     

    Tôi thầm trách Thượng đế đã ban cho ba tôi một người vợ đẹp nhưng phóng túng và lãng mạng. Mẹ làm thư ký văn phòng nên dễ bị lôi cuốn. Tôi hơi khó chịu vì chiếc váy đầm mẹ đang mặc áo bó người, màu sắc lòe loẹt và cổ quá hở. Điều này khiến đôi lúc tôi phải mỉm cười, vì mẹ chơi trội còn hơn tôi và còn vượt mặt nhiều cô gái trẻ khác. Mẹ dặn dò tôi qua loa rồi phóng xe đi.

     

    Tôi đứng lặng giữa nhà và bật khóc Không biết tôi khóc cho tôi hay tôi khóc cho ba. Mãi đến 11h đêm mẹ vẫn chưa về, tôi biết đêm nay mẹ sẽ không ngủ ở nhà, tôi tắt đèn lên giường và trằn trọc.

     

    Có tiếng chim rúc ở ngoài cửa. Tôi trở mình và kéo chăn phủ kín cả khuôn mặt, trời lạnh quá sương phủ mờ cả cửa kính. Tôi nhìn căn phòng trong ánh sáng lờ mờ của ban mai. Trong nhà yên ắng không một tiếng động và tôi thấy một cánh buồm hiện ra. Trên đó có người hùng mà tôi kính yêu đang sẵn sàng đưa tay đón tôi về phiá người, nhưng sóng biển lại đẩy cánh buồm đó xa dần, xa dần và tôi như rơi xuống một vùng trời chao đảo.

     

    11 giờ sáng, tôi nhận được thơ của ba từ tay chú đưa thơ quen thuộc. Mẹ không về, chắc đêm qua mẹ ngủ nhà bạn và sáng ra mẹ ghé vào sở. Tôi ấp lá thư của ba lên ngực và nghe lòng vui sướng. Tôi vào phòng kéo chăn đến cổ, tay run run xé bì thư.

     

    "Tiểu Kha!

     

    Con gái yêu dấu cuả ba. Con đừng buồn ba vì sinh nhật cuả con ba không có mặt. Dù hôm ấy ba đã viết thư cho con, nhưng sao ba vẫn ray rứt không yên. Ba luôn nhớ đến mười tám ngọn nến hồng mà trước khi con thổi tắt chắc trong mắt con đã long lanh. Con biết không bây giờ đã là mùa đông, khí trời lạnh, sương mù giăng lối, có đôi chỗ nước đã đóng băng. Tàu bè đi rất khó khăn, ba ở bên này không biết lúc nào mới về thăm con được, con hãy siêng năng học tập, và luôn nhớ rằng có ba đang nhìn con bước trên đường đời...

     

    TB: "Con à! ba đã viết nhiều lá thư cho mẹ, sao không thấy mẹ hồi âm cho ba, ba rất buồn khi phải viết thư cho mẹ và con, đáng ra ba viết thư chung cho mẹ cùng vui đọc thư ba, đây là theo ý của con mà thôi. Chúc con luôn vui vẻ trong cuộc sống và con nhớ nhắn với mẹ những gì ba viết trong thư. Hôn con".

     

    Ba của con.

     

    Bây giờ tôi đã hiểu rằng mẹ không còn thương tôi và ba nữa. Tôi đút lá thư vào hộc giường và nghe nước mắt mặn môi.

     

    Hôm nay mẹ về khuya, tôi lục đục mở cửa cho mẹ, mẹ vịn lấy vai tôi miệng nghe nồng hơi rượu. Mẹ ngồi sà xuống ghế tháo giày, tôi vội đi rót nước cho mẹ uống. Khi tôi lên thì mẹ đã ngủ gục nơi ghế. Tôi lắc đầu ngán ngẩm, giá như tính tôi giống tính mẹ thì... Tôi dìu mẹ vào phòng và về phòng mình. Tôi nhìn chăm chăm lên trần nhà và không khóc được, tôi không biết nói gì để khuyên mẹ, mẹ đã làm cho tôi khổ nhiều rồi: Nếu như tôi có một người mẹ như mẹ nhỏ Trâm ở cạnh nhà. Tiếng con thạch sùng tắc lưỡi giữa đêm khuya, chắc nó cũng hiểu tâm trạng của tôi bây giờ.

     

    Sáng ra mẹ đi làm sớm. Tôi cũng dậy đi học, mẹ nhìn tôi dặn.

     

    - Đi học về con nhớ lau chùi nhà sạch sẽ và cắm hoa nữa nhé!

     

    Tôi gật đầu dạ nhỏ và không muốn nói cho mẹ hay là đêm qua mẹ bị say? Điều này sẽ làm cho mẹ bị xúc phạm. Tôi lẳng lặng ôm cặp dắt xe ra cổng và đạp xe giữa buổi sáng mùa đông lạnh buốt.

     

    Tiếng chuông chấm dứt giờ học vang lên. Tôi đạp xe về và nhớ đến nhiệm vụ mẹ giao, chắc mẹ có khách bởi vì không ngày nào tôi không lau nhà cả, hôm nay bỗng dưng mẹ lại... Tôi nhớ đến sinh nhật nhỏ Hạnh vào tối nay nó dặn tôi tan học thì phải đến giúp nó. Chắc sinh nhật cuả nó vui lắm. Có mẹ có ba và anh chị, sao nó sướng thế nhỉ, còn tôi... Con bé tủi thân này... Nhưng mà còn phải cất cặp sách, thay đồ đã và làm nhiệm vụ chớ.

     

    Tôi trờ đến trước cổng nhà. Ngôi nhà có cửa đóng kín mít vẫn đứng đợi tôi về mở cửa như mọi ngày. Tôi lấy chìa khoá loay hoay mở cổng rồi mở cửa. Ngôi nhà tĩnh mịch quá nhưng tôi đã quen rồi, tôi không sợ, cất cặp sách , thay quần áo và lau chùi nhà xong, tôi đạp xe đến nhà nhỏ Hạnh, tôi muốn ghé vào sở báo cho mẹ hay, nhưng tôi lật đật quá lại sợ nhỏ Hạnh trách, cũng chẳng sao mẹ có chìa khóa riêng rồi và chắc mẹ cũng chả trách tôi. Vì mẹ ít quan tâm đến sự vắng mặt cuả tôi. Nhưng tôi không phải vì vậy mà tôi hư hỏng được, và tôi luôn luôn kính trọng mẹ. Nhỏ Hạnh đón tôi ở ngã tư đường với nụ cười hớn hở, nó giao cho tôi hai cái giỏ to tướng và chúng tôi cùng đạp xe vào chợ...

     

    Anh Trường, anh hai của nhỏ Hạnh đưa tôi về đến cổng, tôi đưa tay xem đồng hồ đã 11 giờ 30 khuya rồi còn gì, rối rít cám ơn anh, tôi bước nhanh vào nhà trong chiếc áo len của nhỏ Hạnh. Đêm lạnh quá, bầu trời xám xịt sương mù bao phủ làm cho cảnh vật đen ngòm. Tôi đẩy cánh cửa khép hờ bước vào và gọi nhỏ: - Mẹ ơi!

     

    Không có tiếng trả lời, tôi bước về phía phòng mẹ, có tiếng động và tiếng nói. Tôi đứng lặng lại và nghe tim mình đập mạnh. Tiếng nói rì rầm của một người lạ trong phòng mẹ... Bây giờ tôi phải làm gì đây? Tôi thẫn thờ bước ra thềm và lao nhanh xuống con dốc, gió phần phật quanh tôi cắt xé da thịt tôi, tôi vẫn chạy miết, chạy miết cho đến khi tóc tôi ướt đẫm sương đêm, và thân hình tê dại khụy xuống dưới gốc thông già. Cành thông vi vu điệu nhạc muôn thuở làm rơi lộp độp những hạt sương đêm trên tóc, trên mặt tôi. Mưa! mưa lớn lắm, nước dâng ngập cả địa cầu, tôi thấy mình trôi đi trong tiếng gọi mơ hồ của ba vọng lại "Tiểu Kha con"...

     

    Ngọc Thu


  19. 2. Băng Qua Mùa Lũ

     

    Suốt mấy hôm nay trời mưa dầm dề. Chợ chiều ế ẩm. Má chẳng buôn bán được gì , đành ở nhà. Hết than dài, lại thở vắn. Hết đứng lại ngồị Hết đi ra lại đi vộ Bơ phờ, hốc hác. Như mắc bệnh tâm thần. Má hối thúc mấy chị em tôi tranh thủ làm gấp cái chuồng tạm trên gò đất cao sau nhà rồi lùa con heo nái sắp đến ngày sinh đẻ và mấy chú heo lứa vào nhốt chung. Lũ heo thật quái ác, tham lam, ích kỷ, giành ăn, không chịu ở chung, táp lộn nhau bầm bập, kêu la eng éc tối ngày. Phần mưa nhèm nhẹp, phần lo dọn cửa dọn nhà để phòng lũ lụt, đã mệt càng thêm mệt. Chán ơi là chán. Nhất là mấy bà quỷ heo, củi đuốc chụm không cháy mà lúc nào cũng inh ỏi đòi ăn.

     

    Sáng bào ba cũng ra hiên đứng dòm trời ngó đất, lắc đầu bảo:

     

    - Năm nào cũng vậy hết. Hễ tới muà này là mưa lụt liên miên. Ớn thiệt. Nhà ở gần sông có cái sướng mà cũng có cái khổ. Nghĩ ông trời cũng hay đó chớ. Không ai sung sướng trọn đời, chẳng khổ chuyện này cũng khổ chuyện nọ. Ổng thiệt công bình. Hèn chi người ta gọi ổng là ông trời.

     

    Rồi ba đội nói cời, mặc áo tơi vội vã ra đi đến tối mịt mới về. Má thương ba nên chẳng phiền hà chi, chỉ nhìn theo hứ, rồi nhằm vào mấy chị em tôi mà phân trần:

     

    - Lụt lội đến nơi chẳng lo gì, cứ lo triết với lý rồi bỏ đi suốt ngày. Chẳng ngó ngàng gì tới nhà cửa. Chẳng bén mảng gì tới vợ con. Thiệt bực ba tụi bay hết sức. Không có tao, chắc tụi bây chết nhăn răng hết từ hồi nào rồi.

     

    Mấy chị em tôi chỉ biết rụt cổ, thè lưỡi rồi bươn bả đội mưa đến trường.

     

    Mưa càng ngày càng to và càng dai dẳng. Dăm hôm sau, lũ tràn vàọ Ba má bắt mấy chị em tôi ở nhà, cấm không cho đi học. Cả khu xóm nghèo ven sông lênh láng nước, mênh mông, trắng xóa. Ai cũng lo lắng phập phồng, ơi ới gọi nhau:

     

    - Đói! Đói đến nơi rồi! Mắm muối dự trữ đã hết rồi!

     

    Lũ dâng lên cao một ngày một đêm rồi bỗng nhiên đứng cầm chừng, ngâm bốn ngày bốn đêm nữa rồi mới chịu rút từ từ.

     

    Mưa ngớt hột. Bà con trong xóm, già trẻ gái trai chợt ùn ùn kéo đến chật nhà. Ai nấy cũng nhìn ba hớn hở trầm trồ:

     

    - Nếu không có chú Sáu, chắc bà con xóm mình chết ngủm hết vì cây lụt này.

     

    Má và mấy chị em tôi ngơ ngác. Bác Tư, người cao niên nhất trong xóm giải thích:

     

    - Nhờ chú Sáu chịu khó chạy tuốt lên huyện kêu ca, nên mấy ông trên huyện cắt cử Ban phòng chống lụt bão xuống hiệp lực cùng thanh niên trai tráng trong xã gấp rút, khẩn trương đào rộng và nạo vét con mương chính dẫn vào hồ chứa nước Am Chúa kịp thời, chớ không thì thôi...

     

    Ba khục khặc cười:

     

    - Chuyện chẳng có gì. Chẳng qua là nhờ công sức của bà con.

     

    Mấy chị em tôi nhìn ba tự hào. Có lẽ cảm thấy có lỗi với ba, má âu yếm liếc ba một cái rồi mỉm cười bỏ chạy ra sau chuồng heọ Bỗng má la toáng lên:

     

    - Trời ơi! Ba nó ơi! Bác Tư ơi! Bà con ơi! Mấy con heo lứa sao nằm ngay đơ cán cuốc, sùi bọt mép hết trọi vậy nè! Trời ơi, còn chi vốn liếng!

     

    Cả xóm cùng túa ra chuồng heo. Ba đứng bơ phờ. Mấy chị em tôi ôm chầm lấy má. Bác Tư hơ hãi la lên:

     

    - Mấy con heo này bị trúng nước bạc, không sống nổi nữa đâu. Bà con mình hùn hạp nhau mua, xẻ thịt ăn mừng cơn lụt đã qua đi, góp lại vốn liếng cho vợ chồng chú Sáu. Bà con nghĩ sao?

     

    Cả xóm cười vang:

     

    - Ý kiến bác Tư thiệt độc đáo. Mấy hôm nay, bữa đói bữa no, bữa mặn bữa lạt, thèm cá thèm thịt qúa trời. Hoan hô bác Tư.

     

    Bác Tư gật gù cười rồi thình lình đập lên vai ba:

     

    - Chú Sáu! ... Chú... chú coi kỹ, có phải không? Mắt tui mờ qúạ Hình như... hình như con heo nái đẻ, chú Sáu à.

     

    Ba chưa kịp nhảy vào chuồng heo, má đã vội can gián:

     

    - Mình và bác Tư điều động bà con làm thịt heo giùm tu đị Tui ... tui bận ... làm mụ.

     

    Cả xóm tưng bừng. Nước đã rút xuống nhanh. Trời tạnh hẳn mưa, mây tan dần và bắt đầu trong sáng lại.

     

    Tâm Duyên

    (Diên Khánh)


  20. 1. Anh Tôi

     

    Nhà tôi có năm người cả thảy. Ba, má và ba anh em tôi. Tôi chả hiểu các bạn có thích một ông anh quí hóa như anh tôi không? Còn tôi ấy à! Cứ y như là "sừng với đuôi" vậy. Kể cả em gái song sinh với tôi nữa, nó cũng bị "ổng" cú "lốp bốp" suốt ngày. Tụi tôi ức lắm méc má, thì má binh "ổng". Ăn rôi "ổng" chỉ đi chơi, đi học là xong nhiệm vụ. Còn hai đưá tôi mở miệng ra phàn nàn thì "ổng" lại ngân nga:

     

    "Trai thì đọc sách ngâm thơ

    Sôi kinh nấu sử chờ ngày kịp khoa

    Gái thì lo việc giữa nhà

    Đi vô dọn chén, đi ra lau bàn",

     

    Thế có ức không chứ! Tụi tôi bàn nhau sẽ quậy cho "ổng" một bưã nhưng chưa có dịp! Thế rồi một hôm Uyên Chi bạn thân cuả hai chúng tôi đến nhà. "Ổng" xăng xái mua bánh, bưng nước rồi còn hát ư ử, làm như thú vị lắm. Tôi thì nghệt mặt chả hiểu mô tê gì. Khi Uyên Chi về, nhỏ Huyền kéo tôi nói nhỏ:

     

    - Chị Diệu My. Tim "ổng" đang phát sóng đấy!

     

    - Sao mi biết?

     

    - Đây nè bài thơ dang dở của ổng và lá thư tình cũng dở dang... nốt!

     

    Tôi khoái trá đọc rồi ôm bụng cười bò lăn.

     

    - Chị My, tụi mình chuẩn bị kế hoạch "A" đi.

     

    - À há! Đã quá thế này thì hai cái sọ... dừa của hai đứa mình sẽ rửa được hận.

     

    Tôi và Huyền mừng nhảy nhót như khùng vậy.

     

    Sáng chủ nhật "ổng" trịnh trọng giao cho nhỏ Huyền một hộp chocolate buộc nơ hồng, sở dĩ "ổng" hổng giao cho tôi vì tôi vốn khoái chocolate nhất trần đời. Rồi "ổng" vờ vịt nheo mắt - quay ra.

     

    Tôi và nhỏ Huyền lấy xe cub ra phóng ào tới nhà Uyên Chi. Huyền tuyên bố mở đầu chiến dịch và tuyên án tử hình hộp chocolate. Huyền thì thào vào tai Chi rồi Chi cười nắc nẻ:

     

    - Trả thù hả... độc độc, "hảo, hảo".

     

    Rồi Chi thay đồ rất lẹ, phóng ra xe... chạy lộn lại về nhà tôi. Nó lấy bộ đồ tôi mặc vào, rồi nó bới tung căn phòng vốn dĩ không trật tự của anh tôi lên. Nhỏ Huyền bưng hộp chocolate đã ăn hết vất vào giường của "ổng", rồi nó chạy vô quán cà phê bên kia đường kể tội tôi cho "ổng" nghe.

     

    Hổng biết nó vò đầu bứt tai thế nào mà anh tôi xông vào nhà như cơn lốc, còn tôi chuồng thẳng qua phòng má tôi.

     

    Anh tôi cũng xông vào phòng, gặp lúc Uyên Chi đang cầm bài thơ của "ổng" tặng nó đọc phịa bậy bạ. Rồi nó bốc mấy miếng chocolate còn sót lại nhai tóp tép. "Ổng" lườm lườm rồi xông tới bẹo tai, và cốc vào đầu nó.

     

    - Diệu My, tại sao mày bới phòng tao lên vậy hử!

     

    Mày còn chén sạch hộp chocolate!

     

    Chưa hả "Ổng" còn véo lỗ tai Uyên Chi làm nó thun lỗ mũi lại y như cái vòi cao su rồi khóc váng lên:

     

    - Ủa sao kỳ dzậy "chời"! Sao bữa nay mày mít ướt vậy hả?

     

    - Hu! Hu!...

     

    Theo kế hoạch, tôi kêu má tôi:

     

    - Má! Anh Hai ảnh đánh Uyên Chi kìa má.

     

    - Hả! Cái gì? Cái thằng mắc dịch nó làm cái trò gì vậy. Ông ơi ra đây.

     

    Thế là ba má tôi tất tả chạy sang phòng anh Hai. Má tôi ôm lấy Uyên Chi lau nước mắt cho nó.

     

    - Sao con khóc? Nó đánh con phải không?

     

    Ông anh tôi cay cú lườm lườm. Ổng tưởng má tôi binh tôi, "ổng" cố thò tay bẹo tai Uyên Chi rõ mạnh làm nó kêu toáng lên:

     

    - Úi trời ơi! Đau quá! Hu! Hu!

     

    Ba tôi nổi giận quát lên:

     

    - Nè cái thằng bốn mắt trời đánh kia tại sao mày đánh Chi như thế hả? Lịch sự quá đi mất!?

     

    Cha mẹ ơi! "Ổng" há hốc miệng, mặt đực ra y như là con ngỗng vậy.

     

    - Xin lỗi trời ơi! Xin lỗi Chi.

     

    Cha, mẹ tôi cười tủm tỉm bước ra ngoài. Lúc đó ngoài sự tưởng tượng của tôi, Uyên Chi bay tới kéo hai lỗ tai khốn khổ cuả anh tôi mà xoắn, lập tức tôi vọt sang, nhỏ Huyền vọt vào đánh "ổng" túi bụi.

     

    - Ôi! Đau quá! Xin tha, đầu hàng, đầu hàng.

     

    Chi bắt phải bồi thường chiến tranh! Chiều Chủ Nhật nhậu một chầu yagourt lạnh thật tuyệt! Tôi và nhỏ Huyền đồng thanh:

     

    - "Tố chề Tẩu tẩu"

     

    Má ơi! Sư huynh tôi đỏ mặt cười nhìn tẩu tẩu. Nai quá đi mất.

     

    Linh Giao

    (GĐAT - Đà Lạt)

Footer title

This content can be configured within your theme settings in your ACP. You can add any HTML including images, paragraphs and lists.

Footer title

This is an example of a list.

Footer title

This content can be configured within your theme settings in your ACP. You can add any HTML including images, paragraphs and lists.

Footer title

This content can be configured within your theme settings in your ACP. You can add any HTML including images, paragraphs and lists.

×
×
  • Create New...