Jump to content

Thợ Làm Vườn

Ban Quản Trị
  • Số bài viết

    1.365
  • Gia nhập

  • Đăng nhập

  • Nổi bật trong ngày

    10

Bài viết được đăng bởi Thợ Làm Vườn


  1. Hổm nay đang ghiền coi phim này. Phim nội dung cũng chẳng có gì, nhiều sạn nhưng coi cũng vui vui. Công ty gì toàn là mấy bà tám. Coi phim chỉ thấy có Huyền Diệu và An Đông làm việc còn mấy người kia lo chuyện 8 không. Hêhê...

     

    Phim chiếu một tuần có 3 bữa, một bữa 1 tập 45phút nhưng quảng cáo gần 20 phút cho 3 lần. Coi muốn sôi máu luôn nhưng lỡ ghiền rồi nên không bỏ được. Hix...


  2. Bộ ấm chén bằng đất nung

    Truyện ngắn của Trần Kim Trắc

     

    Mụ đầm vợ tên quan ba Rémy Gressier chủ đồn điền, xếp đồn Bảy Ngàn bị bắt làm tù binh không tự đi xuống lầu được vì cầu thang đã bị sập. Chính trị viên đại đội Phương bèn gọi Ru bảo đứng phía dưới đưa tay đỡ khi anh đặc công cõng mụ ta tuột xuống.

     

    Ru chấp hành lệnh. Sau khi nhận cái thân hình béo nhậy mềm nhũn ấy từ lưng anh đặc công và đặt xuống đất. Ru nghe mụ líu lo gì đó tỏ vẻ cảm ơn.

     

    Anh lính mới thoát nạn mù chữ từ sau khi vào bộ đội làm sao nghe được tiếng Tây xa lạ ấy!

     

    - Méc xà lù! Xức nước gì thơm quá!

     

    Ru buột miệng đáp lời mụ như thế. Rồi lao đi khuân chiến lợi phẩm. Anh trở lên lầu, vác thùng đạn lên, thùng đạn nặng lắm, trĩu cả vai. Khi bước ngang qua bộ sa lông, anh tình cờ trông thấy bộ ấm chén uống trà bằng đất nung, một cái ấm độc ẩm và bốn cái chén hạt mít nằm vừa gọn trong cái đĩa sâu lòng cũng một màu đất nung lôi cuốn anh dừng chân. Dĩ vãng chợt sống lại thúc giục anh phải quyết định lấy bộ ấm đất này. Nhìn quanh thấy các đồng đội đang tất bật thu dọn, Ru ngần ngừ đắn đo, thu vội bộ ấm chén túm vào cái khăn rồi vác thùng đạn tụt xuống.

     

    Chỉ có vậy, một bộ ấm chén bé xíu bằng đất nung mà tiểu đội đã đưa anh ra phê bình.

     

    Chiến lợi phẩm là xương máu của đồng đội và đồng chí, không ai được lấy làm của riêng, dù là cây kim, sợi chỉ.

     

    Lần đầu tiên, sau năm năm thoát ly đi bộ đội, anh chiến sĩ thật thà như đếm ấy bị đưa ra phê bình vì tham ô chiến lợi phẩm.

     

    Ru nhận lỗi, nhưng anh buồn, một nỗi buồn thấm thía không làm sao giải tỏa được. Ngày đại đội liên hoan mừng chiến thắng, anh từ chối tham gia cái tiết mục độc diễn mà trước đây lần nào đại đội đốt lửa trại anh cũng góp vui. Cái tiết mục do ông Huỳnh Tú chính trị viên trung đội sáng chế. Ông thấy Ru lùn lùn, mập mạp, mặc cái quần đùi luồn bằng dây chuối se, luôn luôn xề xệ hở rốn, ông lấy lọ nghẹ vẽ cái bụng ấy thành mặt hề, cái miệng rộng nằm ngay trên đường ngấn chỗ cái rốn, bộ râu trê xoắn tít dưới cái mũi vẽ tượng trưng bằng hai cái vòng tròn. Hai con mắt có đôi lông mày rậm đen vạch theo đường ngấn sát thượng vị. Khi ban nhạc Măng-đô-lin, Băng-giô, có tiếng vỗ tay nhịp kèm trổi lên, Ru ta phơi cái bụng ra múa hệt ông địa giỡn lân, cái miệng vẽ bằng lọ nghẹ, theo lớp mỡ nây bụng rung rinh như biết hát, khi nhạc giòn giã rịch rình rinh cái mặt cười thì người biểu diễn kéo cái sao mỡ bên trong cao lên, khi nhịp điệu chậm, sa mỡ bị kéo trễ xuống, nhìn bức vẽ như đang khóc. Văn nghệ của lính đơn giản thế mà vui, cười rất sảng khoái. Người e lệ nhất cũng phải cười.

     

    Sáng ngày, bà con cô bác, ai gặp Ru nhớ cái bụng đêm liên hoan cũng cảm tình gọi anh là ông Địa.

     

    Nhớ hồi năm tám tuổi, cha dẫn Ru lên nhà ông hội đồng điền chủ trên Cao Lãnh. Cha khép nép chắp tay đứng sau gốc cột, còn ông Hội đồng ngồi trên ghế trường kỷ, vẻ quắc thước nhàn nhã như tiên ông, cầm cây phất trần phe phẩy, ung dung nhàn hạ. Lần đầu tiên trong đời Ru nhìn thấy ông Hội đồng uống thứ gì trong cái tách chỉ bằng ngón tay, ông nhấp từng ngụm, mắt lim dim có vẻ ngon lắm. Về nhà hỏi cha, cha bảo đó là bộ ấm chuyên dùng để uống trà.

     

    Sau lần ấy, Ru đi chăn trâu cho ông Hội đồng. Cái phồn trâu đã cách biệt cậu bé lên tám với cuộc đời, cho đến năm hai mươi mốt, Ru mới đi theo bộ đội. Mười ba năm ròng lẻ loi với đàn trâu giữa đồng không mông quạnh, Ru vẫn giữ nguyên cái bản sắc "nhân chi sơ tánh bổn thiện", thật thà như đếm, chẳng hiểu xã hội là gì ngoài sự dốt nát mà anh phải lãnh chịu. Khi anh giáo viên xóa mù chữ kiểm tra bài hỏi:

     

    - Ơ tờ là gì?

     

    Ru bập bẹ trong miệng:

     

    - Ơ tờ... ơ... tơ...

     

    Giáo viên bèn mách nước:

     

    - Ơ... tờ... gì mà cay cay ấy.

     

    - à biết rồi... ơ tờ gừng...

     

    Ai nghe cũng phải cười, nhưng chính trị viên nhân ấy bảo "mù chữ, dốt nát là sự đau khổ của dân tộc".

     

    Và khi ra thao trường, đơn vị tập cho anh em lính mới đi đều bước, mọi người mới hay trong đời có thể có người không biết chân trái là chân nào. Khẩu lệnh hô "chân trái - đi đều bước!" Ru cứ cái chân thuận thò ra giẫm cả lên gót người đi trước. Huấn luyện viên phải bứt sợi dây chuối buộc vào ống quyển chân trái và hô "chân dây chuối - đi đều bước!" Một hai! Một hai!

     

    Ôi làm sao tránh được khi lúc nào đó, trong cuộc đời có những tiếng cười ra nước mắt.

     

    Nhà giàu hồi xưa, gẫm có tài sử dụng lao động, một thằng nhỏ tám tuổi thôi, trông coi một cái phồn-tiền của nhiều, để làm gì, mua ba bốn chục con trâu bỏ tít giữa đồng nội, Đồng Tháp Mười mênh mông chỗ nào không có cỏ, tội gì nuôi gần xóm để trâu ăn lúa của đồn điền, chọn cái gò nhỏ giữa đồng xa tít tắp, bỏ mặc đàn trâu với thằng nhỏ, hoặc nói ngược lại, bỏ thằng nhỏ với đàn trâu. Mười ngày cho người đem gạo muối ra một lần, thằng nhỏ tự mò cá mà ăn, còn trâu thì đã sẵn cỏ. Mỗi năm bậy bậy cũng thêm được vài chục con nghé.

     

    Khi đơn bị Ba lẻ bảy hành quân lội nước băng tắt từ Gãy Cờ Đen về Thống Linh, giữa đồng mỏi chân, mưa ướt, tạt vào chỗ có ánh lửa bập bùng hun muỗi cho trâu để sưởi, tìm chút ấm áp, lần đầu tiên Ru thấy những người trang lứa mình người nào cũng súng ống, nói là đi đánh Tây để dân mình khỏi bị áp bức và cũng là lần đầu tiên anh em bộ đội thấy một con người bị xã hội bỏ rơi.

     

    - Trốn mẹ theo tụi tôi đi! ở đợ làm gì cho khổ?

     

    Trước khi theo bộ đội. Ru ra phồn nhìn đàn trâu mà thương. Những con vật đen đúa thở phì phò, mẹ có, con có, trầm mình dưới bùn để tránh muỗi, mùi nước đái trâu từ dưới phồn xông lên cay nồng. Người ta bảo nước đái trâu cũng gây nghiện, sau này anh em trong đơn vị nhận xét Ru bị ghiền nước đái trâu vì đóng quân ở đâu Ru cũng đem nóp ra gần chuồng trâu nằm ngủ. Mười ba năm hít thở cái không khí có mùi ấy, không ghiền sao được.

     

    Cuộc đời mới bắt đầu với Ru từ buổi ấy. Anh trốn luôn theo bộ đội vỏn vẹn chỉ có chiếc quần đùi mốc phèn và tấm áo bà ba te tua phủ một tấm thân mốc cời vì hắc lào đầy đặc từ cần cổ đến gót chân.

     

    Lá muồng trâu xức món lác (hắc lào) kinh niên này không ăn thua gì. Chính trị viên Trung đội C, ông Huỳnh Tú bèn ra tay.

     

    - Ru! Cậu có gan không? Thứ này rát dữ à! Tôi sẽ làm cuộc cách mạng lột da cho cậu. Yên trí, chỉ một lần là sạch sẽ đẹp trai thôi.

     

    - Được chú Tám, em sẽ cắn răng chịu đựng.

     

    Đúng là phải "cắn răng chịu đựng". Ông Huỳnh Tú ra xã Mỹ Trà, chỗ này vùng kháng chiến nhưng chỉ cách thị xã Cao Lãnh một cây cầu sắt. Ông nhờ thím Năm Lộc bán hủ tíu ở chợ An Bình có dịp ra vô ngoài thị xã mua một ve a-xít ở chỗ xạc bình của nhà máy xay. Dầu nhớt ông xin của Ban cơ khí tiểu đoàn. Hai thớ nhớt và a-xít trộn chung vào cái muỗng dừa theo tỉ lệ ước lượng.

     

    Ông lấy một miếng xơ dừa rộng bản, chặt bằng đầu, rồi đập cho tơi ra như cái bàn chải. Hai thầy trò dắt nhau ra vườn sau làm chuyên khoa da liễu.

     

    Ru mình trần, hai tay giữ chặt gốc cau, đưa lưng ra sẵn sàng chịu đựng. Ông Huỳnh Tú cầm cái xơ dừa quậy quậy vào cái gáo a-xít.

     

    - Rồi chưa! Ráng nghe! Âởy ấy, đừng có nhúc nhích, đổ hết.

     

    Ông cầm cái xơ dừa nhanh tay phết, lên xuống, ngang dọc như ông thợ hồ phết vôi lên tường.

     

    Cái xơ dừa quơ đến đâu, nghe như lửa đốt đến đấy, Ru oằn cong rồi ưỡn xương sống, tay cấu vào gốc cau, nhưng coi bộ không kham nổi phải buông gốc cau, nắm tay thành quả đấm lên gồng nghe răng rắc. Tiếng ư ử nghèn nghẹn từ trong cổ họng phát ra không thành lời. Khi tấm lưng đã hoàn toàn đen đủi màu dầu nhớt. Anh chàng bỗng đứng bật dậy, chạy uỳnh u ảy luôn ba bốn cái mương, tuôn ra tấm đòn dài bắc qua cầu ra chiếc ghe dưới bến, từ mũi ghe nhảy lên mui chạy ra sau lái, rồi từ đằng lái quay trở lại đằng mũi. Trên bộ anh em rượt theo tới nơi khi chú chàng nhảy ùm xuống nước, cắm đầu lội tuốt qua bên kia sông, chui tuốt vào đám lục bình ló đầu lên réo:

     

    - Ông Tú ơi! Rát quá ông Tú ơi! Cắn răng chịu đựng không nổi...

     

    Chừng nửa buổi, ông Tú đang ngồi ở văn phòng thấy Ru bước vào cười mỉm:

     

    - Ông ơi! Lột da, bong lên, gỡ ra từng miếng sạch trơn, đã lắm.

     

    - Còn trước ngực, làm nữa thôi?

     

    - Làm nữa, sợ gì! Cắn găng chịu đựng.

     

    *

     

    * *

     

    Kỷ niệm chợt đến như thoáng hiện dù giữa cảnh quyết liệt của sống chết trong chiến tranh. Cái phút bâng khuâng buộc phải dừng chân với thùng đạn trên vai khi nhìn thấy bộ ấm chén bằng đất nung trên bàn sa-lông của tên chủ đồn điền đồn trưởng Bảy Ngàn như một tia chớp tái hiện cảnh ông Hội đồng ngồi xơi nước trên bộ tràng kỷ, khi cha con Ru đứng khép nép bên một gốc cột. Nhớ khi lần đầu tiên cha đưa con ra phồn trâu để trả món nợ truyền kiếp của gia đình Ru cho ông Hội đồng, hai cha con rút vào chung một chiếc nóp, cha thở dài than thở:

     

    - "Phận cha nghèo, biết bao giờ được một phút ung dung ngồi ghế trường kỷ uống trà Thanh Tâm như ông Hội đồng?".

     

    Thì ra cha mình cũng có những phút giây mơ ước dù biết rằng làm sao với tới được. Nghèo nàn như một cái gông bám chặt, như con đỉa đói bám vào thân phận trâu cày.

     

    Nếu không nói ra, thì làm sao anh em đồng đội trong đơn vị hiểu được vì sao Ru túm lấy bộ ấm chén bằng đất nung cất kỹ dưới đáy ba lô trong trận Bảy Ngàn. Bao giờ trở lại Tháp Mười, anh sẽ tặng cha, để cha được uống chè Thanh Tâm thoả bao ngày mơ ước...

     

    Chính trị viên Huỳnh Tú rọc giấy bọc riêng từng cái chun hạt mít và cái ấm, gói chung tất cả lại bằng mảnh giẻ lau súng.

     

    Ông vẫy gọi Ru vào, thân mật trao tay bộ ấm chén.

     

    - Này, cậu giữ lấy để sau này gặp lại biếu ông già. Nhớ cất kỹ trong ba lô, đừng làm bể.

     

    Chính trị viên nhìn theo người lính. Hừ! Hiện tượng và bản chất, suýt nữa mình nghi oan cho hành động thật tốt đẹp của người con có hiếu và chân chất.

     

    *

     

    * *

     

    Kịp đến ngày hành quân lên Long Châu Hà. Mười hai giờ đêm nay Tiểu đoàn sẽ đánh vào Mặc Cầu Dưng. Vì bí mật hành quân nên vị trí xuất phát ở rất xa. Giữa khuya đánh mà giờ khởi hành là 12 giờ trưa hôm trước.

     

    Núi rừng nhiều khi làm ta sửng sốt vì vẻ hùng vĩ của nó. Sau một đêm hành quân thức trắng từ Cần Thơ vượt lộ Cái Sắn đến kinh Mỹ Hiệp Sơn đất Long Châu Hà, sáng ra Ru thấy sừng sững giữa trời, cao hơn mây, ngọn núi Mỹ Hiệp Sơn xanh biếc.

     

    Đồng bào nói đây đến đó còn đi nửa buổi đường, mà sao núi to lớn đến vậy. Che kín cả một góc trời, xanh biếc một màu. Có gì bí ẩn trong núi mà lòng Ru rạo rực muốn biết.

     

    Nhớ thuở còn lẻ loi giữa sình môn, những buổi chiều hoang, phóng mắt tận chân trời, thấy xa lắm, bóng dáng màu xanh chỉ lớn hơn ngôi nhà, mẹ bảo đó là núi, ở xa lắm, người nghèo không đi tới được. Ngờ đâu, vết chân hành quân đã đưa anh tới đây, cận kề núi đến vậy. Nó thúc giục Ru háo hức muốn đặt chân đến núi xem có gì trong ấy, kẻo cả đời không thấy được.

     

    Đêm nay Tiểu đoàn sẽ nổ súng đánh đồn Mặc Cầu Dưng. Đường còn xa nên kế hoạch hành quân định vào 12 giờ trưa để kịp giờ G vào 12 giờ đêm. Ru không nén nổi lòng chờ đến sau trận mới đi xem núi. Chuẩn bị vũ khí, nén cơm xong, Ru tha thiết xin phép cán bộ tiểu đội, thông cảm cuộc đời mai một, ít ỏi của anh cho anh đi xem núi. Sướng quá, tiểu đội thông cảm cuộc đời mai một ít ỏi của anh nên đồng ý cho đi xem núi.

     

    Gửi súng lại cho đồng đội mang dùm, Ru đi xem núi. Anh đi như chạy vì chỉ ước lượng còn ba tiếng nữa đội hình hành quân sẽ đến chỗ con đường rẽ từ bờ kinh Mỹ Hiệp Sơn vào núi cấm.

     

    Cuộc du lịch hỏa tốc, mướt mồ hôi, thật hả hê. Khi trở lại điểm đúng giờ, nhận khẩu súng do đồng đội giao lại, tiểu đội trưởng hỏi thấy gì trong đó, Ru đáp: "Em gờ được tảng đá...".

     

    "Em rờ được tảng đá..." nghe như nghĩa "em rờ được Tổ quốc quê hương". Ngờ đâu câu nói ấy là những lời cuối cùng của đời người chiến sĩ.

     

    Ru tử trận sau khi hạ đồn Mặc Cần Dưng, diệt quân tiếp viện. Một viên đạn mồ côi không may trúng anh trên đường rút quân. Nỗi đau của đồng đội rất lớn, vì đây là viên đạn cuối cùng của một giai đoạn chiến tranh. Chỉ sau đó hai ngày, hiệp định đình chiến Genève được ký kết.

     

    *

     

    * *

     

    Soạn chiếc ba lô của anh, chúng tôi thấy một cái quần đùi và một cái áo sơ mi vải đen, một cây bút chì, một lọn thừng. Tài sản để lại của người lính chỉ có thế và còn một di sản: một bộ ấm chén bằng đất nung bọc trong mảnh giẻ lau súng, anh đã giữ gìn để sau này đem về cho cha.

     

    *

     

    * *

     

    Ngày đình chiến - Cụ già Đồng Tháp Mười lặn lội xuống thị xã Cà Mau nơi Tiểu đoàn 307 tạm thời tiếp quản mới hay tin con đã mất.

     

    - Bác Chín ơi! Đây là kỷ vật của anh Ru, suốt dặm đường hành quân, anh ấy mong có ngày mang bộ ấm chén này về trao tận tay cho bác.

     

    Hai mươi năm sau, tập kết ra miền Bắc trở về, tôi có dịp về thăm lại Thống Linh. Nhà bác Chín vẫn còn ở trên mảnh đất hồi chín năm chính quyền kháng chiến đã tạm cấp cho bác. Bác Chín trai và gái đều đã qua đời. Em gái của Ru, con bác Chín có chồng được hai con đang tuổi đi học, ở ngôi nhà ấy.

     

    Tôi nhìn lên bàn thờ giữa nhà thấy bộ ấm chén bằng đất nung vẫn còn để dùng làm vật thờ.

     

    Kỷ niệm người đồng đội sống lại trong tôi. Thấy tôi đi đến bàn thờ, xem lại bộ ấm chén, người em gái của Ru bảo:

     

    - Lúc đi dưới Cà Mau về, ba em đặt bộ ấm chén lên bàn thờ để ngày ngày cúng nước cho anh Ru. Ba má em mất rồi, em cũng để y chang chỗ đó để cúng cho ba người...

     

    Phải lắm! Kỷ vật, dù chỉ là bộ ấm chén bằng đất nung thôi, cũng phải để y chang chỗ đó.../.

     

     

     

     

     

    Cảm hứng.

     

    - Đây! Phăng teo xong cả rồi! Giấy trắng mực đen, thằng chả ký, tôi ký. Qua tòa án là xong ngay, đường ai nấy đi...

     

    Khách là ông Sinh - bạn của cả hai vợ chồng nhà thơ Ý Xuân - ngỡ ngàng, khi nghe chính người trong cảnh ngộ báo tin, không biết cân đo tình cảm thế nào để ứng xử chia vui hay chia buồn.

     

    - Bạn không phải lo cho mình. Không vui vẻ thì chia tay để khỏi nhàm chán vậy mà, coi như một dịp để mình có thêm đề tài làm thơ.

     

    - Rồi con cái, nhà cửa, tính sao đây?

     

    - Con gái tất nhiên ở với mẹ, cháu năm nay hăm hai, sắp tốt nghiệp đại học. Mẹ con mình vẫn ở đây - lầu 5, chung cư này. Còn ông ấy, cha mẹ mới đi xuất cảnh, để lại cho con cái nhà mặt tiền phố thị, ở tầng trên, tầng dưới cho thuê khỏe re. Mình không quan tâm tới đòi hỏi nhiêu khê, tòa án họ khó đặt bút ký - (cười) Mình vẫn ở lầu 5 này, nhưng từ nay các bạn nhớ phôn trước khi đến, chứ gõ cửa đột ngột e gặp lúc có bồ đến thăm không lẽ giấu vào nhà tắm.

     

    - Vậy ông ấy có tự nguyện không, ai đi dễ dàng để tuột khỏi tay một người đẹp tầm cỡ?

     

    - Hôm mình đưa giấy cho ổng ký, ổng chộp bút ký ngay. Miệng còn nói cám ơn! cô thả con thú hoang về lại với rừng. Ý nói là người đẹp ở ngoài đời không thiếu. Một kiểu tự ái rất đàn ông ấy mà!

     

     

    Cô con gái buông bút từ phòng trong bước ra.

     

    - Ba không tự ái đâu mà làm thật đó má! Hôm rồi con có đến thăm ba, thấy trên tầng 2 một phòng triển lãm tại gia treo đặt khung kính toàn là chân dung phụ nữ đẹp. Con hỏi họ là bồ của ba đấy sao? Ba bảo tất cả đều hơn là bạn nhưng không phải chịu trách nhiệm với ai cả vì họ đều đã có chồng. Má đến đó, má cũng phải ghen thôi!

     

    - Xí! Đã hiểu cái cố tật của ông rồi còn ghen làm gì nữa cho mệt.

     

    - Nếu muốn tìm ba cháu, bác đến số nhà.... đường....., nhưng bác đừng vào mặt tiền, theo lối ngăn đi riêng ra phía sau, khỏi phải bước qua ngăn bán hàng của người ta, mất công chào hỏi. Bác cứ đi theo con hẻm bên ngoài giữa hai dãy nhà nối liền đường lớn và con hẻm song song. Bác vào ngõ vắng chừng 20 m có trổ một cái cửa hông mới khoét, vừa đủ lách người qua. Nơi ấy ăn thông vào cầu thang để đưa rước bao nhiêu người tình một cách kín đáo.

     

    ****

    Khách phôn trước hẹn đến thăm. Đến giờ hẹn, cánh cửa ngách kéo vào trong, khách theo chân chủ nhà bước lên cầu thang ánh sáng mờ mờ như bước vào một hang động. Lên đến nơi ánh sáng rực rỡ, lầu l một nửa để tiếp khách, một nửa là xưởng họa, giá vẽ, bột màu, cọ sơn, lon hộp, giấy cuộn bừa bãi, đi phải chọn bước.

     

    Qua tuần trà, chủ khách đưa nhau lên tầng thượng xem tranh. Bức nào cũng xứng đáng đưa vào gallery hoặc lên bìa báo.

     

    - Từng này người đẹp ngồi mẫu cho bạn ư?

     

    - Mình hình dung lại để họa thôi. Chỉ khi nào có tiếng gõ cửa đột xuất, không tránh đi đâu được, mới bảo chị em ngồi khỏa thân trên ghế làm mẫu, tự nhiên như thật thôi, ai bắt tội mình được. Họa sĩ đang làm việc mà! Giữa đàn ông với nhau cả, mình không giấu ông, bồ ruột phôn là tới, tất cả của mình đó.

     

    - Từng này người cơ à! Đáng nể thật đấy.

     

    - Mình vừa phát hiện ra một chân lý: Ai hay đàn ông ly hôn lại có giá! Mình râu tóc xồm xoàm, có ga -lăng, đẹp trai đâu, cũng chẳng biết làm thơ tình như cô ấy, ăn nói như bổ củi, hồi nào muốn chinh phục một cô nàng khó còn hơn tìm tiên. Bây giờ chỉ có một miếng mồi thả câu: “Vợ mình bỏ mình rồi, hôm nào đến nhà mình nhé!” “Địa chỉ của mình đây. Đi bộ tới, đừng đem xe theo!” “Chỉ thế thôi mà có tiếng gõ cửa - Ăn mày tình yêu cũng phải biết làm động lòng để cho người ta thương hại chứ!

     

    - Thú thật! mình bị cú sốc quá lớn khi bất ngờ hay tin hai bạn chia tay. Chị ấy xinh đẹp và thanh lịch hiếm có, là nhà thơ lại là nhà nghiên cứu có thể đăng đàn diễn thuyết. Sao bạn bỏ uổng vậy?

     

    - Ai chẳng dại một lần để suốt đời phải trả giá. Không biết mới lầm, bây giờ rõ lại... thôi. Hồi cưới nhau, mình tự hào là kẻ giỏi tìm hiểu. Đụng vào cảnh ngộ mới hay mình dốt. Hồi ấy lớn lên mà tự khoác cho mình vai trò tìm hiểu có khác nào tự đặt lên vai một ba lô hành lý về nghệ thuật hiểu người. - Làm như anh là cán bộ tổ chức không bằng! (cười). Mà có tìm hiểu cái quái gì - Si tình, khoái quá nhảy đại vào thôi mà! Tình yêu làm gì có lý lẽ, nó thuộc về trái tim loạn nhịp. Tôi hỏi anh, bây giờ anh vợ con đề huề, hạnh phúc xanh tươi, vậy kinh nghiệm tìm hiểu của anh hồi đó như thế nào?

     

    - Không hơn gì anh đâu! Nếu tôi nói thật tất cả về tôi, có lẽ bà ấy dứt khoát không đồng ý. Không có nhầm lẫn làm sao có hôn nhân?

    Sự nhầm lẫn có lẽ đỡ nghiêm trọng hơn, nên ta trở lại với câu nói của Baudelaire: “Thế giới con người chỉ tiến bước bằng sự hiểu lầm. Và chỉ nhờ sự hiểu lầm mà con người đồng thuận. Nếu không may người ta hiểu rõ nhau người ta không thể hòa hợp được”.

     

    Chất liệu để đến được với hôn nhân là sự nói dối. Năm mươi/năm mươi, anh là một nửa của em, em là một nửa của anh, còn một nửa kia để ở đâu?

    Cửa ngách không chốt nên Thu Minh- con gái của họa sĩ - đến tự lúc nào đứng chỗ khuất đợi nghe câu chuyện, cô bất ngờ xuất hiện:

     

    - Thưa bác! Cháu thấy ba cháu họa nhiều chân dung phụ nữ, nhưng giá ba cháu tự họa chân dung của mình với tất cả tính cách và ham muốn...

     

    Họa sĩ sững người nhìn con gái.

     

    - Dễ thôi con ạ! Bột màu xám thiếu gì, ba sẽ tô thêm dưới bức chân dung tự họa một bóng đen. Nếu cần sẽ viết thêm cái bóng ấy hai chữ ích kỷ, chữ in. Ngôi nhà một người ở này của ba phủ một màu cô đơn. Kẻ cô đơn có khác nào một ẩn sĩ lều tranh. Xưa nay thánh nhân, chính khách mưu lược thường xuất hiện từ những túp lều cô đơn, tư tưởng lớn tích tụ từ sự suy nghiệm trong cô đơn ấy để thiên hạ đi cầu đi rước. Có cô đơn mới trở thành triết gia để được nhìn lại chính mình. Anh ạ, trong cái ý ta vừa bàn “có nhầm lẫn mới có hòa hợp” có cả sự nhầm lẫn với chính mình nữa.

     

    - Má nói với con một nhận xét mà chính ba cũng không dám nói ra - không biết con có nên nói không.

     

    - Được, con cứ nói!

     

    - Khi con nói với má lúc này ba chuyên họa chân dung người tình, má hỏi mái tơ hay mái già. Con thấy sao nói vậy, đều trên tuổi băm, nhiều bà bốn mươi nhưng còn đẹp, không có thiếu nữ. Má buông một câu: “Không là mệnh phụ hồi xuân cũng là bà góa phải không? Một kiểu ranh ma rất đàn ông: Ngoại tình với gái có chồng nhỡ có gieo bầu cũng là con người ta do vợ người ta sinh ra, khỏi lo. Dại gì bồ nhí gái tơ nhỡ mang bụng bầu thì lãnh đủ”.

     

    Người cha không rời khỏi ghế, nhưng lắc đầu thở ra. Má mày tinh lắm, cái gì cũng thấy như moi ruột gan người ta để ra ngoài.

     

    - Đây rồi - người bạn lên tiếng- Nguyên nhân xa nhau đưa đến ly hôn là chỗ này. Hồi trước còn hiểu nhầm nên cưới nhau, còn bây giờ hiểu nhau quá rồi nên chối bỏ nhau chứ gì? Người phụ nữ như vợ ông vừa là nhà thơ vừa là nhà xã hội học, hồi còn trẻ thơ ca tươi tắn nhưng chưa nồng, thời gian nâng thơ phú lên tầm cỡ điêu luyện, tâm lý con người hiểu như đi guốc vào tâm địa người ta, nói xin lỗi, chị ấy vẫn giữ cái cá tính bản năng là người phụ nữ hay tranh tụng, nên ông ló ra thói gì là bà ấy bóc trần ra ngay, ông cứng họng nên nổi khùng - đàn ông chịu không nổi nếu biết mình không còn được tin cậy. Hồi chưa cưới nhau thì đường mật sơ-ri, bà chúa của lòng anh, cục cưng... cưới nhau về rồi là bà xã, bà chằn, mụ ấy, lão ấy, hắn ta. Lúc ấy người ta mới nói thật, mà hiểu sự thật thì hôn nhân biến thành bong bóng xà phòng.

     

    Trong tình yêu của người đàn ông, chính giác quan đòi hỏi thèm khát chi phối, sự hấp dẫn tình ái và nói chung tình yêu chinh phục, tình yêu chiếm hữu, tình yêu ích kỷ và tất cả thứ tình ngoài lý trí.

     

    Vì tình yêu đàn ông bị hấp dẫn bởi vẻ ngoài ưa thích, say mê bóng dáng yêu kiều, sự làm duyên, lời ăn tiếng nói...

     

    Còn người phụ nữ được chinh phục bởi vóc dáng cây tùng cho mình núp bóng hoặc bị hấp dẫn vì tài hoa “một nét cọ thôi đã phác thảo được bóng của nàng trên trang giấy”, có đầu óc thông minh hoặc có chiến công hiển hách, nhưng làm sao thấy được những tính chất bản năng được che đậy rất kỹ.

     

    ****

     

    Thu Minh về nhà hỏi mẹ, vì bà là nhà thơ nên cô mượn thơ ca người xưa.

     

    -Mẹ ơi! Có phải: Ầu ơ! Ở xa không biết mới lầm - Bây giờ rõ lại nên... mẹ đã bỏ ba phải không?

     

    -Cần gì phải rõ lại, tự ổng bộc lộ chân tướng mình thôi. Bây giờ tự do trong cô đơn rồi, càng hiện nguyên hình là lười biếng, ham hưởng thụ và ích kỷ.

     

    -Nhưng mẹ có cái sai vì hồi ấy còn trẻ tuổi, là được cưới nhau rồi là đã chủ quan cho rằng tìm hiểu xong rồi, sau hôn nhân không cần tiếp tục tìm hiểu nữa để đóng cửa dạy nhau cùng hoàn thiện, đến chừng rõ lại rồi mới hay là hết thuốc chữa.

     

    Thu Minh cầm tập thơ mới in của mẹ, nâng niu trong lòng tay:

     

    - Con đã đọc tập thơ mới này của mẹ rồi. Nhiều ý tưởng hơn các tập trước nhưng không thấy thích bằng các tập trước. Con cảm thấy nội dung tập này tính nhiều, tình ít, trách nhiều hơn yêu, có phải cảnh ngộ sau ly hôn chi phối cảm xúc của mẹ?

     

    - Con này! Phê phán như bà cụ non!

     

    - Con sắp tốt nghiệp khoa báo chí rồi mà mẹ. Con đang lấy trường hợp của ba mẹ để làm gương soi cho tương lai đấy!

     

    ***

     

    Một hôm Thu Minh đến thăm cha, thấy trong ngăn kéo của ông có một đôi giày trẻ con ba tuổi - trong lòng sinh nghi. Sau đó khi lái xe qua đường Trương Minh Giảng trông thấy chiếc xe hai bánh màu đỏ trông quen quen dựng dài dài theo bãi giữ xe trước nhà trẻ. Trờ tới một đoạn lại thấy cha đang ngồi trong quán cà phê gần đó. Cô dừng xa nấp sau cái ô tô đi đón trẻ quan sát. Bốn giờ mười lăm phút, bảo vệ mở cổng. Bố mẹ nào vào đón con ấy. Cô thấy cha mình cầm cái hộp đựng giày trong tay dừng ngoài song sắt bờ rào nhìn vào. Một đứa bé rời tay mẹ chạy đến bước lên cái nấc thang chơi cầu trượt. Mẹ chờ con một lúc mới dắt tay dẫn đi. Cô thấy cha xô tới định ôm bé vào lòng, nhưng người mẹ nghiêm nét mặt kéo con tránh đi, ra hiệu bằng ánh mắt về phía bên kia lề đường - có người đàn ông là cha cháu đang ngồi trên yên chờ. Ông như người bị hụt hẫng, săm soi gói quà trong tay đau khổ vì máu mủ của mình nhưng là con người ta, ông đến lấy chiếc xe màu đỏ ra phóng đi.

     

    Cô con gái đến nơi thấy ông nằm dài trên ghế sô - pha, buồn rười rượi.

     

    - Ba làm sao vậy, ba ốm à?

     

    - Ốm đau gì đâu!

     

    Cô nhìn thấy hai chiếc giày trẻ con buộc dính vào nhau treo trên giá vẽ.

     

    - Ba mua giày tặng ai mà treo ở đây?

     

    - Cứ để yên đó. Chuyện của ba, con đừng mó vào!

     

    - Vậy con về đây!

     

    Thu Minh xách túi bước ra, tiếng dép khua theo cầu thang.

     

    Ông nén nỗi đau thầm kín chồm lên hé cửa sổ nhìn xuống ngõ hẻm, theo dõi con dắt xe ra với nỗi đau thầm kín - Không rõ con có giận mình không? Dù sao cũng là em của nó kia mà!

     

    Chuyện gia đình giữ cho trong gia đình mình biết thôi đã là khó, chuyện riêng tư giữ cho mỗi mình biết thôi càng khó hơn. Sự thật chết mang theo xuống mồ ấy nó cứ ro rại trong lương tâm, nghĩ tới là tăng huyết áp. Còn con gái ruột của ông, nay mai tương lai sẽ là nhà báo, hằng ngày sáng chiều đúng giờ là nó nắn ghi - đông cho xe dong ruổi qua con đường cổng nhà giữ trẻ quan sát xem trong bãi giữ xe có chiếc xe hai bánh màu đỏ, xem bố nó có ngồi quán cà phê cóc chờ giờ đưa đón trẻ? Nếu phát hiện ra là nó dừng lại nấp ở một nơi để xoi mói tìm sự thật, không phải để đăng báo mà để chia sẻ nỗi đau máu chảy ruột mềm. Nó thấy ông lần đến song sắt hàng rào đứng ngoài nhìn vào để dõi theo cái mầm sống do mình gieo lớn lên từng ngày, trong khi mẹ nó lôi nó đi nhanh để tránh đối diện với ông vì sợ chồng mình phát hiện.

     

    Ngoại tình là vụng trộm, nhưng đến chết nó vẫn là sự thật, nó cần được che đậy như ôm một căn bệnh nan y, ôm trong người thì đau đớn, còn mổ xẻ giải phẫu lấy ra e tánh mệnh khó an toàn.

     

    Thôi đành cứ để mọi người sống với ta qua sự hiểu nhầm vậy?.

     

    ***

     

    Giữa đêm lặng, dưới ánh đèn bàn, nhà thơ Ý Xuân ngồi trước trang giấy. Viết được hai câu nhập đề, cô đặt bút xuống, luồn cả mười ngón tay vào mái tóc, đọc đi đọc lại dòng chữ từ ngòi bút do chính tay mình vẽ ra.

     

    Con mình mà vợ người ta

    Ngậm nghe thì khổ, nói ra đau lòng.

     

    Bất giác nhà thơ nhớ tới lời con gái. “Con đã đọc tập thơ mới in của mẹ, nhiều ý tưởng hơn nhưng đọc không thấy thích bằng những tập trước, chẳng lẽ bi kịch gia đình đã nắn dòng cảm xúc của mình sang một khuynh hướng khác đắng cay và hận đời.

     

    Cô vò tờ giấy vất vào sọt rác: “Chẳng lẽ thơ mình biến thành loại thơ châm biếm tầm thường! Cảnh ngộ éo le đã làm vẩn đục tâm hồn trong sáng khi làm thơ của mình rồi ư?

     

    Chiều hôm sau, như thường lệ, cô con gái nắn ghi - đông đi qua trước cổng nhà trẻ, cô vẫn phát hiện chiếc xe màu đỏ và bố đang ngồi chờ. Nép vào sau cái ô tô đi đón trẻ, cô thảng thốt thấy mẹ mình đứng lẩn vào giữa các bà mẹ đi đón con. Khi cánh cổng mở, mẹ cũng vào như mọi người nhưng đến chỗ con voi phục bằng đá gần cầu trượt, bà đứng đó đợi chờ.

     

    Theo thói quen khi mẹ dắt tay ra đến nơi, cậu bé rời tay mẹ chạy theo vòng xoắn ốc lên cao. Khi sắp bắt đầu trò chơi, bé nhìn xuống thấy nụ cười của người phụ nữ làm quen đang vẫy tay cho em lấy lòng can đảm. Bé hồ hởi đáp lại qua nét mặt rạng rỡ. Bé ngồi xuống, thõng hai chân ra trước tự thả trôi. Bé lập tức được đón vào lòng tay của nhà thơ: “Bé ngoan lắm, giỏi lắm, xinh lắm. Cháu mấy tuổi)?

     

    Mẹ của cháu sung sướng thấy có người yêu thích con mình.

     

    - Nào ngoan, nói đi con...

     

    - Thưa cô, con ba tuổi.

     

    - Chị cho phép tôi chụp cho cháu tấm ảnh kỷ niệm.

     

    Người mẹ phủi bụi cho con, sửa áo xống cho đẹp.

     

    - Xong rồi! Đẹp lắm! Nào lại đây cô bế, cho mẹ xách các thứ.

     

    Chị bế bé theo mẹ cháu băng qua đường đến nơi người chồng đang ngồi trên yên, vô tư chờ đợi. Chị đặt lên má bé một nụ hôn, giao cháu lại cho mẹ, chào từ giã rồi mở cửa bước vào chiếc taxi đang chờ với mặc cảm tội lỗi vì mình đã thả con thú hoang về rừng.

     

    Trong lúc ấy, họa sĩ đứng nhìn qua song sắt hàng rào, chứng kiến toàn cảnh không bỏ sót chi tiết nào.

     

    Một bàn tay đặt lên vai ông - ngoái lại, ông nhìn thấy con gái mình. Nó an ủi ông: Không sao đâu ba, má chỉ tìm lại cảm hứng để làm thơ.


  3. Ừ đi! Ừ!

    Truyện ngắn của Trần Kim Trắc

     

    Về mặt tuổi nghề, cái vòng bắt chó có thâm niên rất cao. Anh ta ra đời từ thuở thực dân Pháp còn sinh tiền, qua thời Mỹ ngụy và đến nay anh ta vẫn giữ vững lương tâm chức nghiệp là ngăn ngừa nạn chó dại để cứu người. Nhất nghệ tinh nhất thân vinh, trong khi mọi công cụ sản xuất và chiến đấu khác theo đà tiến bộ khoa học điện tử hóa, tự động hóa, người máy hóa... cái vòng bắt chó vẫn là cái vòng bằng sắt, buộc trên cán tre dài hai thước nguyên mẫu từ thuở sơ khai đến giờ. Có khác chăng là cái cán tre đã lên nước láng lẫy trong bàn tay thiện nghệ và cái vòng sắt sáng bóng lên vì không đếm xuể đã bao nhiêu lần siết vào cổ những chú cẩu ngoài vòng pháp luật.

     

    Trong khu phố tôi có một cụ bà lãng tai. Nhà cụ đã một lần để chó chạy rong, bị cái vòng sắt xiết cổ mất một con. Bây giờ mỗi khi có khách đến gõ cửa hỏi: "Cụ ông có nhà không?". Cụ bà xem miệng đoán ý là: "Xích rồi".

     

    Nói như trên không có nghĩa là cái vòng sắt ỷ lại tay nghề cao mà phú-la-căng các phương tiện của nền văn minh đem lại. Hồi mới đặt bộ máy cai trị ở nước ta, nhà chức trách Pháp ngon lắm, cỡ chủ tỉnh mới được đi chiếc xe "Hốc Kích", làm gì có nhiều xe hơi như bây giờ. Cái cũi bắt chó hồi ấy phải để trên chiếc xe kéo, cái vòng phải treo lộ thiên trên gọng xe, đi chưa đến thiên hạ đã biết. Bây giờ cái vòng được đi xe hơi, loại vận tải trung hiệu Peugeot sơn giống hệt màu xe du lịch, thùng xe thấp đỡ sức lao động khi phải nâng chú chó từ mặt đường bỏ vào cũi sắt.

     

    Buổi sáng xảy ra câu chuyện dưới đây, đường phố đông vui, xe cộ qua lại tấp nập, anh kẹo kéo, anh sửa xe, thằng nhỏ thổi bong bóng, chị hàng xôi, cô bán cà phê, các cửa hàng dịch vụ, quầy tân trang bàn ghế... ai lo việc nấy. Sinh hoạt đang tấp nập bỗng cùng lúc dừng lại vì tiếng kêu ăng ẳng. Cái vòng sắt đã tròng vào đầu con chó vàng. Sát bờ tường ba bốn chú khác đang tìm cách thoát thân. Tháo lui thì bị chặn hậu, chạy tới bị chặn đầu, ra mặt đường thì chiếc xe đậu đó đã rải quân dài theo thế trận người nào cũng một cây gậy có vòng. Ba chú chó bị kéo lê theo đầu gậy, cưỡng lại bị nghẹt thở, muốn đi lên chân không làm sao chạm đất. Chúng rú theo bản năng. Bên kia đường, lũ chó ngoài vòng pháp luật sủa nhặng lên. Người trên xe mở nắp cũi sắt khi xe từ tư chuyển bánh. Cái cây vòng xách bỗng mấy chú chàng bỏ gọn vào cũi. Tưởng tấm kịch đến lúc hạ màn, bất ngờ từ trong một ngôi nhà mới xây, mặt tiền lót đá ốp lát, một chú becgiê to tướng xót tình đồng loại, nổi máu anh hùng sủa mấy tiếng "cum cum" tuôn cánh cửa sắt tung ra đuổi theo xe, nhe hàm răng nhọn hoắt. Ai cũng tưởng anh chàng áo xanh đang nhấc con chó thứ ba lên khó tránh khỏi đòn phản kích: Nào ngờ cái vòng tuột khỏi cổ con chó trong cũi, tiện tay xớt một cái, con becgiê thè lưỡi ra bị xách bổng lên ngon lành. Con chó to quá, một người đã lên xe phải nhảy xuống nắm đuôi đẩy phụ và cũi.

     

    Chiếc Peugeot nâng dần tốc độ. Từ trong xóm lều bụi đời, ông già mặc quần đùi lưng trần đen đúa đuổi theo chiếc xe. Tuổi cao nên hai cái đầu gối không thẳng chạy lóm khóm - Xe vút đi mất - Ông đứng giữa đường gào theo: "Mẹ mày! Cái con mẹ mày...". Ông Thông chửi đổng vì tiếc thương con chó Quít của ông. Xe trên đường phải ùn lại. Một cô con gái buông chiếc xe chở rác chạy ra gọi: "Ba! Ba!" lôi ông vào lề đường.

     

    Dưới bóng cây bã đậu, ba bốn anh chàng ngồi trên thành xe ba gác đậu chờ hàng kháo nhau:

     

    - Tội nghiệp con becgiê. Anh hùng lâm nạn.

     

    - Cứu người đeo họa vào thân.

     

    - Nó mà ngoặm một cái là mất luôn một miếng thịt. Thằng đó nhanh thật, xớt một cái tuyệt chiêu. Xách bổng lên.

     

    - Tiền chuộc con becgiê chắc phải gấp đôi.

     

    - Khéo lo, ông Năm Ngọc thiếu gì tiền.

     

    Ông Năm Ngọc mặc bộ soóc áo cá sấu, lái chiếc cúp, trên guidon treo cái túi da, hai cái cán vợt ten-nis thò ra ngoài, lao thẳng xe vào nhà, ông thét ầm ĩ:

     

    - Đã dặn mỗi một việc trông coi con chó mà làm không nên thân, con Fedor có làm sao, bà biết tay tôi.

     

    - Tôi vẫn buộc vào chân bàn, có lơ đễnh đâu.

     

    -Không lơ đễnh! Chẳng lẽ họ xông vào nhà xích cổ nó mang đi.

     

    - Cứ tưởng như mọi khi, quấn vài vòng vào chân bàn là đủ. Nào ngỡ lũ chó mắc ôn ngoài đường làm nó lồng lên giật tuột xích, ông ở nhà cũng chẳng giữ được nó.

     

    - Đồ ngu ơi là ngu! Trói gà không chắc. Bà chết đi! Chết đi cái đồ của nợ.

     

    Ông quay mặt ra đường gào lên:

     

    - Trời ơi là trời, thấy vợ người ta chết mà ham, còn vợ mình rủa mãi mà sao nó không chết giùm nè trời.

     

    Cái tư tưởng sâu kín của ông bấy lâu nay phải nén lòng chờ, đột nhiên bị cơn nóng giận đẩy ra đằng khẩu làm cho các tay ba gác dưới bóng cây bã đậu nói với nhau:

     

    - Hà hà! Ông muốn đưa con bồ nhí về, nên mong cho bà ấy chết.

     

    Khi ông Năm Ngọc đến ngã năm chuồng Chó, tình cảnh của con Fedor còn thảm hại hơn cảnh Tây bị Nhật Bổn đảo chánh bắt nhốt hồi năm bốn mươi. Chó tứ xứ bị nhồi nhét chung vào một chuồng choảng nhau kịch liệt, máu chảy, thịt rơi. Giờ hết xí quách rồi mới thấy là vô nghĩa vì đã quá ư ê chề, mệt mỏi. Chúng ư ử than thở với nhau, còn liếm láp nhau những mong an ủi kẻ cùng cảnh ngộ. Hóa ra muôn loài trong giới động vật cũng như loài người đâu đến nỗi hoàn toàn hung ác, chẳng qua có lúc nào đó chúng chẳng hiểu nhau mà thôi.

     

    Con Fedor mệt mỏi, bốn cái chân nó run rẩy. Nó nằm khụy xuống đè lên một con chó bản xứ vú mõm trễ dài ra teo ngắt, tội nghiệp cho đàn con bé nhỏ ở nhà có lẽ giờ này đang gào sữa mẹ. Con Fedor ướt như chuột từ đầu đến chân, không hiểu nó tự làm ướt hay đồng loại làm cho nó ướt. Cái không gian quá ư chật hẹp, số bị giam giữ quá đông chen nhau như gài mắm. Chúng để khu lên đầu con Fedor không kiêng nể, không còn sức đâu xô đẩy. Con Fedor đành gác mõm lên lưng con Quít của ông Thông. Giá có cục xương gặm đỡ lòng, dám đâu mơ tưởng hai trăm gam thịt bò mỗi buổi.

     

    Sau khi trình giấy đã tiêm chủng, nộp phạt năm nghìn đồng, ông Ngọc rước con Fedor ra. Cái vòng thít vào cổ đã nhổ của nó cả mảng lông. Mùi chua thối xông lên nồng nặc. Không đành lòng, ông Ngọc cởi cái áo lót trắng phau làm giẻ lau chùi cho cậu quý tử. Lên xích lô có một thằng nhỏ ngồi ôm, con Fedor vẫn nơm nớp lo người ta đem giết thịt. Mỗi khi có một chiếc xe hơi chạy qua, nó lồng lên vì ám ảnh cái xe đã bắt nó.

     

    Con Fedor về đến nhà, các phố bên sang thăm như vừa rước con bệnh từ nhà thương về. Ông Thông cũng đến để hỏi thăm con Quít.

     

    - Ông đừng lo, nộp phạt năm nghìn lĩnh nó ra thôi. Nhưng ông phải đi lĩnh sớm sớm, quá hạn người ta sẽ bán cho hàng thịt.

     

    Ông Thông xoay lưng, không phải đi mà chạy lúp xúp. Ông chạy thẳng đến bà tiền góp.

     

    - Thôi đi cụ! Đưa tiền cho cụ lấy gì cụ trả tôi. Có bao nhiêu không đủ cho cụ nhậu, không lẽ tôi siết cái quần đùi của cụ.

     

    Quả thật, tài sản của cụ Thông độc có cái quần đùi cụ đang mặc. Vác mướn, bơm xe đạp cũng cái quần đùi ấy, bửa củi, kéo xe ba gác cũng cái quần đùi ấy, cái quần đùi trắng nhục nhục thành màu mỡ gà, lúc còn thức, khi ngả lưng ngoài vỉa hè cũng cái quần đùi ấy. Thiên nhiên xứ Sài Gòn ưu đãi cho dân bụi đời diễm phúc chỉ với chiếc quần đùi thừa sức chống đỡ với mưa nắng gió sương. Có lạnh đâu mà sợ chết rét, nếu nước máy bị cắt có bến Bạch Đằng ùm xuống tắm tha hồ lãng phí nước. Đối với nước da đen đúa như dân Biển Hồ của ông Thông, cái quần đùi quá bằng thừa nếu nó không có cái vai trò bảo vệ mỹ quan thành phố.

     

    Con dâu ông, con Hội đẩy xe rác từ trong hẻm ra, cô làm nghề gom rác cho các gia đình ở các hẻm sâu, tháng tháng được mỗi nhà cho vài ba trăm, tiền lẻ cô cuộn lại đút vào thanh sắt tròn làm tay đẩy xe. Cụ Thông lấy cây xom rác thuôn vào ống đùn ra, tiền rơi lả tả xuống đất, nhưng chỉ có mười tấm giấy hai mươi đồng, còn xơi mới đủ năm nghìn đem chuộc con Quít.

     

    Bốn ngày trôi qua, ông nhớ con Quít, ngồi đứng không yên, ông ra gốc cây bã đậu ngồi lên vỉa hè chờ đợi. Bên kia đường, một đôi vợ chồng trẻ đèo nhau trên chiếc xe Dream rẽ vào hiệu bày bán bàn ghế. Bọn trẻ nhanh mắt bất kể xe cộ lao qua giành mối. thông lệ ở khu ba gác này, ai lên tiếng hoặc sờ cài yên xe trước là mối của người ấy.

     

    Ông Thông đến sau, nhưng mặc, ông cả quyết khách này là của ông. Người đến trước cãi lại, ầm ĩ cả lên, sắp xô xát đến nơi:

     

    "Mẹ mày! Con mẹ mày! Tao ngồi chờ ba ngày nay, tụi bây giành hết. Không tiền chuộc con Quít bể đầu mày!".

     

    Mấy anh em lớn tuổi trong đám bốc vác can gián:

     

    - Thôi mầy! tội nghiệp ổng! Ổng thương con chó nên ổng nóng nẩy, có mối khác tụi tao sẽ nhường cho mày.

     

    Họ lập tức khiêng một tủ áo ba buồng dán pho-mi-ca màu trắng, bên trên xếp thêm một tủ phấn. Thằng Nhành con trai không hợp tính ông nên cô con dâu phải theo xe đẩy phụ. Ông Thông đưa hai tay ra sau nắm thành xe ba gác còm lưng xuống kéo. Có lẽ nhân ngày vui duyên mới, vợ chồng anh khách hàng "boa" thêm cho một nghìn, vị chi được sáu nghìn.

     

    - Quít ơi! Quít! Chiều nay thôi, cục cưng thoát khỏi vòng lao lý. Sáu nghìn! Hừ nộp phạt năm nghìn, dành một nghìn mướn xích lô chở con Quít từ ngã năm Chuồng Chó đến Phú Nhuận, sau đó sẽ đi bộ. Lượt đi ông lội bộ. Tấm thân trần, cái quần đùi trên đôi chân, bộ tóc muối tiêu chải ngược còn chút dấu vết hoa lá thời trai trẻ, ông lầm lũi đi. Qua Tao Đàn đến ngã tư Hai Bà Trưng - Xô Viết Nghệ Tĩnh, ông cứ hướng về Phú Nhuận. Cặp giò đã thấy mỏi, cổ khát đắng gợi nhớ mùi vị thân quen. Qua chợ Tân Định, đi một lúc đến dốc cầu, ông ngẩng lên, một tấm gỗ có đóng khung sơn màu xanh kẻ to hai chữ "ĐÂY RồI" thấp hơn tầm mắt, nóc một ngôi nhà gỗ e ấp bên mang cá cầu, mùi dồi nướng xông lên.

     

    - Hừ! Đến lượt về sẽ đi bộ luôn. Ta vào làm một ly lấy lại sức.

     

    Đôi chân đưa ông vào quán. Chủ quán không mau mắn tiếp đón cho lắm, nhưng thấy ông có nắm tiền trong tay, họ đặt trước ông nửa xị.

     

    - Ông làm đĩa lòng chứ! Chó Mực ông à!

     

    Giá họ mời sớm hơn ắt ông từ chối. Nhưng một ly đã lên hương trong cổ ông rồi. Trời đất như sáng rỡ hơn. Cái đầu chó luộc lóc xương, cuộn dồi vàng ươm như biết nhảy múa chào mời. ông gật đầu.

     

    - Làm thêm đĩa tiết canh cho mát ruột ông à!

     

    Lại gật đầu. Ông không nhớ đã bao lần ông gật đầu. Rượu bắt đầu để lại hậu vị ngọt. Còn tâm trí đâu để nhớ, để thương con Quít.

     

    Họ đưa ông ra đường, ông đã vững chân vượt qua cầu Kiệu xuống hết dốc, ông tựa lưng vào bờ tường, chuyển từ thế đứng sang thế ngồi, người đi đường qua lại bước tránh một chút, họ không muốn phá giấc ngủ của ông già.

     

    Sáng sớm hôm sau, một ông xích lô cùng xóm đi chở mối trên Phú Nhuận về nhặt được ông. Ông nằm nghẻo đầu trên thành xe. Lật lưng quần tìm thấy còn hai tờ năm chục.

     

    Hết rồi Quýt ơi! Đau đớn lắm!

     

    Ông thương con Quít không giống ông Năm Ngọc thương con becgiê. Ông Ngọc thương con becgiê vì con becgiê đem đến cho ông sự vẻ vang, sự hợp thời trang khi ông ngồi trên ban-công. Fedor ngồi dưới chân ông, khi xe hơi trong nhà ra. Con Fedor hùng vĩ nhô đầu ra cửa kính và nhất là khi ra sân Tao Đàn luyện chó, ông quấn vải to bằng cái gối vào cánh tay. Ông nhử cho nó phóng tới há mồm ngoặm để ông phô diễn sự linh hoạt, nhanh nhẹn, tính mã thượng và cả tinh thần dũng cảm trận mạc.

     

    Còn ông Thông thương con Quít vì cái duyên kỳ ngộ. Con Quít là con chó lạc loài không rõ từ đâu đến vào lúc ông đang "Pour la santé" với mấy chú bụi đời, ông cho chó ăn chè, mà chè của ông thì con Quít ăn, ăn ngon lành nên mến hơi người nó ở luôn với ông. Đói nó ra nhặt xương ở hiệu ăn, hiệu phở mà lớn. Đêm đêm bất cứ chỗ ngủ bất định của ông ở đâu, nó cũng tìm đến nằm bên.

     

    *

     

    * *

     

    Con Hội, vợ thằnh Nhành gom rác xong vào xóm nhờ nhà quen tắm rửa sạch sẽ bằng xà bông Ca May.

     

    Nó vận một bộ màu hột gà quần Sác-tô, áo cổ bẻ. Nó tìm ông già chồng dắt đến quán ăn cơm đĩa. Dù sao, phố xá nhìn ra có người thầm khen ông Thông bụi đời có con dâu được quá.

     

    Con Hội gặp thằng Nhành tại nhà bà Sáu Lý sâu trong con hẻm trên. Thằng Nhành móc tiền trả nó không lấy. Nó bảo nó cần cánh tay người trượng phu cho nó nương tựa chứ nó không cần tiền, nếu thằng Nhành thương, nó sẽ theo thằng Nhành bỏ cái nghề bội bạc.

     

    Chúng nó thành vợ thành chồng. Ông Thông chạy lo cho con Hội cái chân gom rác trong hẻm. Được đồng nào nó dẫn ông đi ăn cơm, có dư nó mua ông một xị.

     

    Đi gần tới quán cơm bình dân, bỗng nhiên ông Thông bốc chạy. Ông đuổi theo một chiếc xe thồ. Bốn con chó trói tréo cánh khỉ bị treo hai bên ba ga. Bên trên còn cái lồng đan bằng kẽm nhốt ba con nữa. Ông vừa đuổi theo vừa ới gọi. Tên xe thồ đâm hoảng phóng nhanh, khoảng cách xa dần, cuối cùng đành bất lực, ông đứng giữa đường chửi với theo. Con Quít ở trong cái lồng, chính nó đã ăng ẳng đánh tiếng gọi ông. Thế là họ đã bán con Quít đi cho người ta đem giết thịt. Hết phương cứu rồi!

     

    Con Hội nhanh trí, nó tách vào đứa bạn bán thuốc lá bên đường mượn chiếc xe đạp. Nó ném cho ông già một nghìn đi ăn cơm đĩa, còn nó phóng theo con Quít.

     

    Vượt qua bùng binh Ngã Sáu, đến gần bến xe Pétrus Ký, con Hội níu được cái lồng sắt.

     

    - Anh ơi dừng lại nói này nghe...

     

    Anh chàng xe thồ định sừng sộ nhưng kịp nghĩ lại khi trông thấy cái quần Sác-lô màu trứng gà.

     

    - Anh ghé quán uống nước đi! Em muốn hỏi một việc.

     

    - Việc gì nói đi! Tôi phải đi giao hàng.

     

    - Anh thông cảm, em muốn chuộc lại con chó này, đấy tội nghiệp nó đã nhận ra em, ông già em kêu khổ mấy ngày nay vì mất nó.

     

    - Hai mươi lăm ngàn, lấy vốn thôi...

     

    Bàn tay của anh ta suốt theo ghi đông vờ vô tình chạm vào tay con Hội. Con Hội nhúc nhích đầu móng tay quẹt nhẹ đáp lại:

     

    - Em làm gì có đủ tiền. Trả bằng cái ấy được không?

     

    Con Hội đá lông nheo, mỉm cười nên cái đồng tiền lún sâu xuống. Hai chiếc xe đạp cùng lên đường. Anh lái đưa chó đến quán Cờ Tây, giao hàng. Riêng bản án của con Quít được tạm hoãn. Anh lái thu một nắm tiền chia ra một phần nhét vào túi sau, hai phần vào hai bên túi hông. Hắn mời con Hội đi ăn cơm tiệm, uống bia Vạn Lực. Con Hội đưa hắn về con hẻm nhà bà Sáu Lý, chỗ quen biết dù sao cũng dễ.

     

    Nó đưa hắn lên cái gác ọp ẹp của bà Sáu để thanh toán giao kèo lấy lại con Quít.

     

    Bà Sáu Lý ngồi cạnh cửa. Khi cánh cửa kéo trên đầu cầu thang đóng lại, bà theo lời dặn của con Hội mở lồng thả con Quít. Cách một con hẻm nó khắc biết đường về.

     

    Cánh cửa sàn gác lại mở. Bà Sáu Lý nghe tiếng con Hội bảo:

     

    - Anh nằm nghỉ, chốc nữa sẽ xuống. ra cùng lúc người ta để ý.

     

    Hắn nhô đầu ra gọi theo:

     

    - Sau này muốn gặp em, tìm ở đâu.

     

    - Sau này con Quít không còn bị bắt nữa đâu. "Bái bay".

     

    *

     

    * *

     

    Vật về với chủ, đại phúc.

     

    Ông Thông đang ngủ, nghe lành lạnh trên má bừng tỉnh. Con Quít vẫy đuôi ư ử liếm vào má ông. Ông ôm con vật vào lòng:

     

    - Mẹ mày! Con mẹ mày! Làm sao mày xổng về được hả Quít. Và ông chợt hiểu ra.

     

    - Con Hội? Con Hội phải không? Tội nghiệp! Tội nghiệp nó!... Mày làm khổ nó rồi Quít ơi!

     

    Con Hội bị một trận đòn nên thân. ầm ĩ cả lên. Trẻ con chạy trước, người lớn theo sau, xe cộ tò mò cũng dừng lại. Sau bao nhiêu cái tát, thằng Nhành quơ cây chổi quét rác đập túi bụi. Không vừa, con Hội nắm chắc một đầu chổi, hai đứa giằng co nhau. Thằng Nhành một tay gữi chổi, một tay quơ cái ghế gỗ của bà cà phê. Người ta xúm lại tước cái ghế can gián. Ông Thông tức tối chạy quanh quanh quát mắng.

     

    Chuyện đổ bể do bà Sáu Lý. Khi tên lái ra về, hắn trao cho bà Sáu năm nghìn trả tiền phòng. Bà không chịu.

     

    - Chuyện đổi chó đổi mèo gì anh với nó bàn với nhau tôi hổng biết. Chốc nữa con nhỏ đến đòi tiền tôi cười trừ với nó được à? Hai mươi lăm ngàn nữa đưa đây tu suýt. Không tiền thì để xe đạp lại đây về không. Muốn quỵt phỏng?

     

    Xót như hoạn, hắn đành thò ra thêm hai mươi lăm ngàn.

     

    Bà đon đả đến tìm con Hội lúc nó đang ngồi quán cà phê với thằng Nhành.

     

    - Đây chị bắt nó thò ra thêm hai mươi lăm nghìn chị đưa cho em mười lăm nghìn, sòng phẳng nhé! - Bà Sáu Lý vô tình không biết lời thề của hai đứa với nhau: Giã từ thế giới ngầm, bước sang cuộc đời làm ăn lương thiện.

     

    Thằng Nhành nghe qua tức giận con đàn bà phản trắc, ngựa quen đường cũ, nuốt lời bội bạc nên khùng lên, thượng cẳng tay hạ cẳng chân.

     

    Thấy cần phải ra tay xoay chuyển tình thế để bọn em út coi bà chẳng ra sao, bà Sáu Lý chống nạnh bước tới chắn trước mặt.

     

    - Này! Tao bảo cho mà biết. Nó coi cái tấm thân của nó chẳng ra làm sao để nó chuộc con chó của nhà mày. Nó được cái gì? Tàn nhẫn với nó, tao bắt nó lại đem về nuôi coi nó có làm một ngày đôi ba chục ngàn bạc để cái thân nó không phải đi hốt từng hốt rác để nuôi cha con mày. Cái quân không biết điều.

     

    Rồi bà quay sang phân bua với mọi người.

     

    - Mẹ nó! Cái bọn người này phải chờ đến lúc rã xương ra chúng nó mới chịu hiểu nhau.

     

    Thằng Nhành ấm ức, nó đạp xích lô bỏ đi. Sài Gòn về chiều, không khí ngoài đường mát mẻ, dễ chịu làm cho mọi người tạm quên mọi khổ ải, nhọc nhằn hòa nhập với dòng người, xe cộ đón đèn đường đang lên hoà nhịp với "rịch rinh rinh" tiếng nhạc từ các máy âm thanh đủ cỡ.

     

    *

     

    * *

     

    Quá mười hai giờ đêm.

     

    - Quít! Chị Hai mầy ngủ ở đâu?

     

    Con Quít lúp xúp chạy trước. Thằng Nhành theo sau đi đến vỉa hè trước nhà ông Năm Ngọc. Con Hội thích ngủ ở chỗ này vì bên trên có cái ban-công nhô ra có thể che mưa, nhất là bên dưới có cái bậc thạch trát đá gra-ni-tô nhẵn bóng. Trong khi chờ chồng về, nó gác chân ôm cái bậc thạch man mát lành lạnh thích lắm. Thằng Nhành không lên tiếng, nằm xuống thẳng đơ bên cạnh, gối đầu lên bàn tay nhìn thẳng lên đêm tối. Làm như giữa nó và tấm lưng con Hội có một đường ranh giới vô hình. Con Quít nằm dưới chân đang lim dim bỗng nghe tiếng.

     

    - Ái! Nhột! Hú hí! Rách áo bây giờ.

     

    Con Hội buông cái bậc thạch, xoay hướng gác chân lên mình thằng Nhành.

     

    - Hồi đánh người ta, coi cái mặt này tức cười lắm!

     

    - La bài hải mà dám cười.

     

    - La thì la! Cười cứ cười. Cười trong bụng ai mà biết! Ôi nhột!

     

    - Mà cười cái mí gì?

     

    - Cười cái mặt ghen ấy. Cái mặt đàn ông ghen coi ngộ lắm!

     

    - Thích nhìn lắm à!

     

    - Sao không? Có ghen mới biết lòng dạ thương nhau.

     

    - Ai thèm thương.

     

    - Thương mới ghen, không thương ghen mần chi

     

    Con Hội bật cười lên, cười to bất kể thiên hạ trong phố hai bên đường phải thức giấc vì tiếng cười tâm đắc của nó. Nó giữ chặt hai bàn tay thằng Nhành.

     

    - Khoan đã! Mà ừ đi! ừ đi nói cho mà nghe.

     

    - Biết cái gì mà ừ!

     

    - ừ đi! ừ mới nói! Không ừ không nói.

     

    Thằng Nhành gỡ tay ra. Con Hội úp mặt vào ôm chặt cái bậc đá. Thằng Nhành lê theo phều phào. Nó nghe hơi thở phả vào gáy.

     

    - Thở nóng quá! ừ đi rồi khỏi thở.

     

    - Nói đi sẽ ừ.

     

    - Thật không? Kề lỗ tai lại đây! Nghe nghe! Từ rầy không được đánh người ta giữa ban ngày ban mặt. Ôi nhột! Đợi đến tối bằng giờ này có đánh thì đánh! Chịu hôn? ừ đi! ừ đi!

     

    - ừ!


  4. Con cá bặt tăm

    Truyện ngắn của Trần Kim Trắc

     

    Trụ cầu bằng hai cây tràm buộc, bắt chéo nhịp, giữa thả một cây tre già, nhịp lên xuống cũng bằng thân tràm, chưa bóc vỏ.

     

    Nước dớn rừng U Minh đổ ra màu thẫm như nước trà. Vài mảnh vỏ tràm còn lưu luyến thân cây thòng xuống vạch những nét ngoằn ngoèo trên dòng chảy.

     

    Chọn nơi thả mồi câu cá, người ta ngồi bờ sông, bờ ruộng, mũi xuồng, bóng cây. Ai như cô gái này đứng lắt léo giữa cầu khỉ. Chân đặt lên thân tre, lưng tựa cây tràm, trời nắng chan chan, khăn rằn không che đầu mà quấn cổ, treo cái đục lên tay vịn, cầm cần câu, câu cá trê.

     

    Khách qua cầu là anh bộ đội quần cụt đen, áo cổ vuông cũng đen. Cầu khỉ lắc lư, thân tre chỉ đủ cho một bàn chân bước, đâu có lối cho hai người. Người câu hững hờ như không hay biết, lặng lẽ chăm chú vào chiếc phao "Nam nữ thọ thọ", "tư thế quân nhân" dám nào đường đột chen qua. Được người dễ tính không nói, cầm bằng trách móc có mà chết chắc!

     

    - Chị ơi! Làm ơn cho tôi bước qua.

     

    Đôi môi che dưới chéo khăn rằn cất lên tiếng nói trống không:

     

    - Kêu bằng chị không cho đi!

     

    - Vậy phải kêu bằng gì? Cô ơi làm ơn cho tôi bước qua!

     

    - Kêu bằng cô không cho đi!

     

    - Gọi bằng Chế nghe! Chế ơi, làm ơn cho hia đi qua!

     

    - Tôi có phải người Tiều Châu đâu mà kêu bằng Chế!

     

    - Vậy! On ơi! Làm ơn cho tôi bước qua!

     

    - Tôi không phải là người Miên.

     

    Anh bộ đội mỉm cười, trinh sát được ít nhiều ý đồ của đối phương. Anh chàng khom xuống ghé sát bên tai hạ tần số âm thanh nói khẽ:

     

    - Vậy kêu bằng em được không?

     

    Cô gái kéo cao hơn chéo khăn rằn để che nụ cười môi, nhìn bằng một con mắt rưỡi, nửa con mắt khuất chéo khăn.

     

    - Vậy thì được! Cho đi!

     

    Nói xong cô nép mình vào cột cầu nhường lối cho khách.

     

    Giờ thì khách không đi nữa, anh chàng thò tay mở nắp chiếc đục nhìn vào hỏi:

     

    - Được mấy con rồi?

     

    - Đứng từ sáng tới giờ chưa được con nào, mỏi cả chân!

     

    - Em câu cá gì vậy?

     

    - Câu cá trê.

     

    - Cá "chê" hả? Đưa mượn câu đi. Bộ đội câu cho mà coi. Đây mát tay lắm, cá không chê tôi đâu!

     

    Rồi anh đường đột ngồi lên thân tre, chân thả tong teng.

     

    - Ôi, cái anh này, đi đi! Người ta nói chết!

     

    - Nói ai chớ có nói đây đâu mà đây sợ. Đưa đây, câu được một con là tôi đi ngay, không thôi ngồi đến chiều luôn.

     

    Anh đưa tay với sợi dây, lần đến lưỡi câu, sửa lại mồi, ung dung thả xuống nước.

     

    Chiếc phao chưa được đứng yên, ngấn nước chưa kịp xóa là ngọn cần câu đã trĩu xuống, con cá ăn ngầm là con cá lớn, nó rê sợi dây nửa vòng rồi lệch ra xa. Tay cầm cần, chùng dây theo hướng rồi bất gờ giựt nhẹ xách bổng con cá trê vàng ươm trơn bóng.

     

    Cô gái reo lên:

     

    - Anh cẩn thận, ngạch nó chém nhức lắm đó!

     

    - Yên bụng đi em, vào tay anh như vướng phải lưới tình, đố cựa quậy.

     

    - Anh giỏi thiệt đó! Em câu cả buổi chưa được con nào, anh mới thả xuống đã được con bự.

     

    - Em không dở đâu! Chỉ tại con cá này đó chớ! Nó kỵ...

     

    - Kỵ là sao?

     

    - Nó là con cá mái, không ăn mồi của em. Bây giờ em câu đi, thế nào cũng được con nữa. Còn con cá trống dưới đó!

     

    Cô gái nén cười:

     

    - Em quê mùa anh nói ý tứ em không hiểu đâu!

     

    Cô nhìn cái phao chờ đợi.

     

    Quả nhiên cần câu lại lay động. Con này lại to hơn một mười một bảy.

     

    - Cái anh này! Nói như thầy bói.

     

    - Vậy có chịu nghe lời thầy bói không?

     

    - Lời gì?

     

    - Lời thầy bói đoán về hậu vận của hai đứa mình đó. Ông bảo: hậu vận mình như hai con cá trong cái đục này. Một con trống một con mái thế nào cũng thành vợ thành chồng, chịu hôn?

     

    - Anh nói kỳ quá! Mắc cỡ thấy mồ!

     

    - ừ đại đi khỏi mắc cỡ.

     

    - Em không nói được đâu.

     

    - Không nói thì đưa cần câu đây, câu nữa, chừng nào trả lời cho anh biết anh mới chịu về.

     

    - Không! Mắc cỡ lắm! Không nói đâu. Anh về đi, đến mai em nói cho mà nghe! Hi! Hi...

     

    Anh chàng mở nắp đục, ngắm hai con cá sánh đôi rồi trao tận tay cô gái:

     

    - Coi như cá này của chung hai đứa, chẵn hai con đủ vợ đủ chồng, cho anh gởi gắm để em đem về thả xuống ao nuôi giùm! Sau này sẽ có cá con lủ khủ.

     

    *

     

    * *

     

     

     

    Hôm sau, bộ đội ra sân tập, mục nhắm bắn hồng tâm, có đông đủ mọi người.

     

    Một em bé, nước da ngăm ngăm đen, mặc quần đùi hở rốn, mộc mạc dễ thương, thập thò một lúc sau gốc dừa, lấy can đảm chạy ù đến sau lưng anh bộ đội nói to:

     

    - Anh gì ơi! Hai con cá trê chị Hai em thả xuống ao nuôi rồi. Còn chuyện anh biểu chị Hai em trả lời đó, chị hai em nói: Được.

     

    Bé tên là Sơn, nói xong bẽn lẽn vừa đi vừa tủm tỉm cười. Cả tiểu đội hiểu ra cười ngất.

     

    Kể từ đấy như cô Tấm "Bóng bóng bang bang" trong chuyện cổ tích, cô Hai vùng kinh nước dớn nuôi hai con trê, gửi gắm cả hy vọng của mối tình vừa nhen nhúm.

     

    Mỗi sáng, mỗi chiều, khi xuống cầu ao, cô không quên rải vài nắm cám, cá trê hàng đàn nổi lên há mồm vớt cám, râu ve vẩy như chào mừng. Cô gái nhận biết hai con cá của mình để nhớ bạn lòng. Có thể cô nhận lầm vì có rất nhiều cá, nhưng trong tâm tưởng, cô tin ở mắt mình.

     

    Tất nhên hàng năm gia đình tát ao thu hoạch cá! Chuyện này riêng cô biết, cô không quên âm thầm thả hai con trê to nhất trả lại ao sâu giữ kỷ niệm một mối tình.

     

    Bộ đội đóng quân trong xã năm ba ngày rồi đi chiến đấu, mươi ngày một tháng lại trở về chốn cũ "Ai về nhà nấy" ý nói trước ở nhà nào giờ lại đóng quân ở nhà ấy, coi nhà dân như gia đình của mình.

     

    Lần này là lần thứ ba kể từ khi cô gái thả cá xuống ao.

     

    Một buổi tiểu đội ở thao trường, anh bộ đội ở nhà một mình viết báo cáo. Thằng Sơn xuất hiện, nó bơi tắt qua rạch, mình ướt mà đầu khô. Nó cũng biết làm theo mấy anh liên lạc viên trong chiến đấu. Nó nhét tờ giấy trên chiếc khăn rằn bịt đầu cho khỏi ướt.

     

     

     

    Thơ viết ngắn như vầy:

     

    Anh Sáu Viên.

     

    Em cần gặp anh ngay. Gấp.

     

    Ký tên

     

    Mùi

     

    *

     

    * *

     

     

     

    Sáu Viên sang đến nơi, trước sau vắng vẻ, cả nhà đi làm rẫy. Lần ra sau bếp, cô Mùi ngồi trên góc bộ ván quay lưng, hai bờ vai giật giật theo tiếng nức nở:

     

    - Tại sao em khóc?

     

    - Biết á!

     

    - Làm sao anh biết được?

     

    - Em không chịu đâu! Các anh ấy cười anh!

     

    - Các anh nào?

     

    - Bên tiểu đội 2 bên kia kìa. Họ nói anh đánh đồn bị lửa đốt cháy đít, còn bị đứng nghiêm cho Ban Chỉ huy cạo. Họ nghe thấy nên họ cười. Em không chịu nổi anh bị bêu diếu đâu!... hít... hít...

     

    Sáu Viên biết tỏng cái kiểu bông phèng, hoạt náo thích có chuyện để cười cho vui đời lính của anh em. Họ không cười anh đánh thua trận, mà thích thú khi chứng kiến cảnh đứa nào bị đứng nghiêm nghe chỉnh.

     

    Trận đánh lô cốt Thầy Cai vừa đây, anh chỉ huy trung đội đánh, học kinh nghiệm của Khổng Minh dùng hỏa công để diệt đồn. Kế hoạch là: chặt nhiều tre ra từng đoạn buộc bùi nhùi vào xơ dừa đập tơi, nhúng dầu ném lửa vào để thiêu cháy đồn giặc. Trong xóm ấp, các tiệm chạp phô có bao nhiêu thùng dầu mua hết đưa ra mặt trận. Nửa đêm, sau khi áp sát hàng rào gai, vây đồn, lính ta nhúng dầu châm lửa, ra sức ném vào đồn giặc. Nhưng gậy ta đập lưng mình. Thùng dầu bốc hỏa cháy, cả khu vực bố phòng sáng rực lên.

     

    Lính giữ đồn vừa thích thú reo hò. Buộc lòng bên tấn công phải rút lui. May nhờ học kỹ bò, lê, lăn, toài nên chỉ hai người bị rách mông. Đã thua trận còn bị kêu lên cạo. Thử hỏi người mình yêu lâm cảnh ngộ, làm sao cô Mùi chẳng mau nước mắt.

     

    - Em đừng giận mà nên cám ơn các anh ấy.

     

    - Cám ơn nỗi gì. Nói xấu anh, bếu diếu anh để cười cho thoả thích mà anh còn bảo cám ơn!

     

    - Không! Chốc nữa anh sẽ sang bên ấy cám ơn, vì nếu không có họ làm sao anh đo được tấm lòng em yêu anh đến phát khóc.

     

    - Nói vậy em không thèm khóc nữa.

     

    - Phải! Như vậy chứng tỏ em biết vâng lời.

     

    - Hứ! Cái lưỡi không xương, khóc nín gì cũng vơ về mình. Anh khôn lắm!

     

    Vừa lúc ấy có tiếng quăng đánh phịch ở ngoài sân. Một người con trai địa phương vất một bao cà ròn đầy nhóc cá trê, mặt hầm hầm nói như bổ củi:

     

    -Đấy! Có thèm ăn cá trê kho tộ hay mắm gừng gì mặc sức ăn đi, để khỏi phải ngày ngày thả cám cho hai con cá bá vơ đó ăn rồi mơ với tưởng.

     

    - Anh điên rồi?

     

    - Phải mà, cô chê tôi là "cà nhỏng chống xâm lăng" không dám đi bộ đội, cô đâu có thông cảm cho tôi, cha già, mẹ yếu.

     

    Cô Mùi hứ một tiếng quay lưng bỏ vô "Thứ chết nhát mà còn bảo cha mẹ già yếu... Nước không biết thương, lấy gì để thương cha mẹ?!".

     

    Anh chàng trơ như đá, bước sấn theo đến thềm nhà:

     

    - Tôi thương em, chẳng lẽ đợi tôi phải moi gan móc ruột để hết ra ngoài em mới thấy? Tôi biết em lạnh lùng với tôi vì có hình bóng khác.

     

    Nước ròng bỏ bãi xà cừ

     

    Lại đây anh nói tận từ em nghe

     

    Hai ba nơi đi nói em không màng

     

    Để chờ nơi xứ lạ sẵn sàng quy mô

     

    Cô Mùi quày quả bước ra, chống nạnh ngược bàn tay:

     

    - Văn thơ hay quá, văn thơ o mèo! Có cần tôi mời bà con lối xóm đến nghe phụ không? Bớ...!!

     

    - Thôi! Thôi! Tôi xin cô...

     

    - Không xin xỏ gì hết! Chịu khó mang cái bao này đi, không tôi la lên là anh cưới xin tôi bằng một bao cá trê.

     

    - Thôi, thôi! Để anh đi, anh đi...

     

    Anh chàng xách bao cá lầm lũi bước qua cầu lẩm bẩm:

     

    Khôn ngoan cũng thể đàn bà

     

    Dẫu rằng vụng dại cũng là đàn ông!

     

    *

     

    * *

     

     

     

    Tính cả ghen của anh chàng hóa ra được việc. Sáu Viên ngồi trong bếp nghe chuyện anh chàng si tình, bắt cá trê, bèn liền nghĩ đến chuyện đánh giặc. Tập tính của cá trê về mùa khô dưới nước kém phải tìm chỗ trú ẩn, chờ đến mùa mưa, cá trê chọn chỗ hẩm hai bên bờ, moi hang vào lòng đất, bên ngoài hẹp bên trong rộng dẫn ra, chứa đầy bùn nhão. Dưới lớp bùn hàng trăm con chen nhau, nương hơi ấm của bùn đất mà sống. Người ta lần theo ven bờ, theo dấu tìm phát hiện được "nồi gọ", bít miệng hang tha hồ vớ được mẻ to, cả bao là ít.

     

    Nhớ lại hai trận liền thất trận, cô Mùi tức mà phát khóc, một trận xung phong đã đời chiếm đồn chỉ được con heo, và dùng hỏa công bị cháy mất đũng quần, chạy toé nước Sáu Viên tự hỏi: Tại sao không học miếng "bịt nồi gọ" của anh chàng si tình để hạ đồn giặc. Binh lính rút vào lô cốt khác nào cá trê rút vào nồi gọ???

     

    *

     

    * *

     

    Tin bộ đội Sáu Viên hạ đồn Thầy Cai làm cả xóm kinh Dớn Choai dậy lên niềm vui rộn ràng và phấn khích.

     

    Thằng Sơn mau chân đi xem tù binh áp giải về tới địa phương, bèn về nhà kể lại:

     

    -Anh Sáu Viên thật là giỏi, anh dùng chiến thuật "bịt nồi gọ" rồi dùng hỏa công bắt hết, không sót một thằng.

     

    - Thằng này không được nói năng bừa bãi, quân sự hệ trọng chứ có phải bắt cá đâu mà bịt nồi gọ.

     

    - Con nói thiệt mà ba! Ai cũng nói như vậy hết, mấy anh dân quân đi phục vụ chiến trường về kể lại rõ ràng.

     

    Thằng Sơn thuật lại những gì nó đã nghe như một phóng viên mặt trận.

     

    - Lần trước anh Sáu Viên đánh đồn Thầy Cai, xung phong vô cái đồn bỏ trống chỉ thu được con heo chúng nó đi ruồng bắt của đồng bào. Còn binh lính thì theo đường hầm bí mật trốn mất.

     

    Một lần khác đánh đồn bằng hỏa công anh bị cháy thùng dầu phải rút lui.

     

    Bị cấp trên rầy, anh ấy tức nên đi trinh sát tìm cho được cái ngách đường hầm xông khói vô đồn cho chúng nó ngộp mà rút lui không được, anh còn kết hợp đánh hỏa công rút kinh nghiệm lần trước không châm lửa rồi mới ném, mà nhúng dầu ném bùi nhùi vào trước cho thật nhiều, sau đó mới bắn đạn lửa vào. Vừa ngộp khói vừa nóng chúng nó trương cờ trắng đầu hàng.

     

    Lúc ấy Sáu Viên đến thăm, ông già hỏi:

     

    - Làm sao cháu nghĩ ra cái chuyện bịt nồi gọ vậy Sáu?

     

    - Dạ cũng nhờ kinh nghiệm của bà con ở đây, bắt cá trê mùa khô rút vào nồi gọ, nằm mà...

     

    Cô Mùi nghe qua không nhịn được, bèn bước ra sau bếp để cười một mình. Cô đoán biết rằng cái bao cá trê của anh chàng si tình đã gợi ý cho Sáu Viên nghĩ ra chiến thuật chặn nghách lấy đồn giặc. Nhưng cô không cho ai biết để đến lúc nào chỉ có hai người cô sẽ hỏi.

     

    *

     

    * *

     

    Đời chiến sĩ, thời gian do trận mạc chi phối. Thương nhau chưa kịp làm lễ cưới, đột ngột nghe tin hòa ước Genève đình chiến, anh theo đội ngũ tập kết ra miền Bắc.

     

    Đôi bạn trẻ xót đau vì cảnh chia ly. Lời hẹn biển thề non để lại, còn người phải ra đi nghìn trùng xa cách.

     

    Trên thao trường ở vùng trung du miền Bắc, lúc nào tập luyện thì thôi, lúc ngồi một mình nghỉ ngơi, Sáu Viên tựa má vào nòng súng ca bài ca của Lục Vân Tiên:

     

    Nhưng tăm cá bấy lâu vẫn bặt

     

    Biết bao giờ mới được đoàn viên

     

    Thu Mùi em ơi!... (trong vở Lục Vân Tiên)

     

    Có một bà lão nhà đóng quân ở Thanh Hóa, trưa hè phe phẩy quạt, buột miệng hỏi một câu:

     

    - Các anh ra ngoày này được mấy năm rồi nhỉ?

     

    Anh bộ đội đáp:

     

    - Thưa cụ đã chín mùa táo rụng.

     

    Bà lão gật gù: "ừ nhỉ"

     

    Rồi lại trở về Nam chiến đấu, mười một năm sau mới được mừng ngày giải phóng.

     

    Anh Sáu Viên đáp xe về Cà Mau chờ đò về Kênh Dớn Choại mong tìm gặp người yêu sau bao năm xa cách.

     

    Một người đứng trên ghe dứa vàng ươm cứ chăm chú nhìn anh. Cuối cùng họ nhận ra nhau.

     

    Anh chàng chận ngách cá trê năm xưa, giờ tóc muối tiêu, dáng người khắc khổ, bà vợ chèo lái ghe dứa, đã là người vợ thứ hai.

     

    Gặp người quen, Viên hỏi:

     

    - Cô Mùi vẫn còn ở chỗ cũ không anh?

     

    Anh ta ngần ngừ một lúc rồi bảo:

     

    - Gia đình cô Mùi là người ở Bến Tre tản cư qua. Khi chính quyền mới tiếp quản, họ đã về xứ rồi.

     

    Sáu Viên cả tin. Đành lên xe lặn lội về Bến Tre tìm kiếm. Nhưng Mỏ Cày hàng chục xã tìm đâu thấy nên đành...

     

    Than ôi tăm cá bây lâu vẫn bặt

     

    Biết bao giờ trở lại đoàn viên.

     

    Chiến tranh Tây Nam lại đưa chân người lính lên đất bạn. Xong nhiệm vụ trở về những bốn năm sau!

     

    Cho đến ngày Hội cựu chiến binh tổ chức về thăm lại chiến trường xưa. Một cán bộ xã ngày trước nay đã lên nhận nhiệm vụ ở huyện nói:

     

    - Các anh có ai là Sáu Viên. Lê Văn Viên không?

     

    - Có tôi đây!

     

    - Mèn ơi! Sao mà ông tệ vậy ông? Cô Mùi vẫn chờ ông ở trong ấy!!

     

    *

     

    * *

     

    Một chiếc tắc phóng như bay về Kinh Dớn Choai.

     

    Cây cầu khỉ chỗ ngồi câu cá trên năm xưa nay đã là một cây cầu xi măng. Tắc rán nhả ga, tiếng máy xình xịch thưa dần trong khi trái tim người lính dồn dập. Từ trong nhà một người trung niên chạy ra. Mọi người trên ghe không nói gì để xem họ có nhận ra nhau không.

     

    Chú khách chìa tay ra như không bắt chờ cho dĩ vãng tái hiện lên.

     

    - Em Sơn phải không?

     

    - Ôi anh Viên!

     

    Họ ôm chầm lấy nhau. Sơn là cậu bé năm xưa, ra nơi thao trường nhắn tin rằng "Chị em nói "được"... ấy". Nay anh đã là một người đàn ông đứng tuổi, cha một gia đình lủ khủ đàn con. Khi chủ khách vào nhà, Sơn hỏi:

     

    - Cô của con đâu?

     

    Các cháu nói:

     

    - Tự nhiên cô đứng lên bỏ chạy ra ngoài sau.

     

    Mọi người đẩy vai anh bộ đội:

     

    - Mau lên, theo đi ông nội! Lần này không được để vuột mất đấy.

     

    Sáu Viên bước ra sau bếp, đẩy cánh cửa hậu ra vườn tìm khắp nơi. Tăm cá dưới ao nở lên đây đó trên mặt nước, nhưng người đâu không thấy.

     

    Một chú bé con của Sơn ra hiệu chỉ về phía góc nhà. Một chiếc áo bà ba quay lưng lại, kéo khăn lau nước mắt.

     

    Sáu Viên nhẹ chân bước đến. Kỷ niệm xưa tái hiện lại sau ba mươi năm mở lối cho phút giây gặp gỡ bằng câu nói cũ:

     

    - "Chị ơi! Làm ơn cho tôi đi qua!"

     

    Cô Mùi nén thổn thức quay lại, tay em nắm tay anh và... với một lời trách móc:

     

    - Sao không đợi đến cúp bình thiếc rồi về một thể.

     

    Họ nhìn nhau thấy tóc trên đầu điểm nhiều sợi bạc, thời gian đã gậm nhấm tuổi xuân của họ đã nhiều rồi.

     

    Cô Mùi dắt tay người xưa ra cầu ao, làm cái việc mà cô vẫn làm dạo ấy: rắc cám tìm tăm cá.

     

    Cá nổi lên bơi lội vớt mồi, múa râu trông vui mắt. Cô vẫn đinh ninh rằng hai con cá hàng năm cô thả trở lại ao vẫn là đôi ấy. Ta không thể vì lý do gì để chẳng tin như cô.

     

    Còn anh chàng bịt nồi gọ để bắt cả bao cá thuở trước đã đánh lạc hướng không cho tình cũ gặp nhau đã phụ họa với thời gian cướp thêm của họ hơn dăm năm nữa, đáng lý đã bị em cô Mùi nện cho một trận nên thân, nếu không có người can gián. Chẳng qua là hắn quá si mê, có vợ hai đời rồi mà vẫn tơ tưởng cô gái đã làm héo hắt trái tim hắn tự thuở ban đầu. Sau ngày vui tái ngộ, trên sông Trèm Trẹm lộng gió một chiếc xuồng cắm lá dừa nước làm buồm rẽ nước băng băng. Cô Mùi lái xuồng, người yêu chèo trước mũi, đưa bạn cũ trở về thành phố hẹn thời gian trở lại, thu xếp cuộc đời.

     

    *

     

    * *

     

    Chưa quá một tuần điện khẩn từ Cà Mau gởi về, người gởi là cậu Sơn:

     

    - "Anh về gấp bệnh viện thị xã Cà Mau, chị ấy nguy cấp".

     

    Giường bệnh trắng tinh, trên đầu giường treo một chai nước biển nhỏ từng giọt sống theo ống nhựa trong suốt. Một bình oxy nút đồng truyền hơi thở vào chiếc mặt nạ úp lên mặt bệnh nhân.

     

    Anh bộ đội ấp hai bàn tay rám nắng lên bàn tay khẳng khiu. Bác sĩ không cho ai vào, nhưng trong trường hợp này được chiếu cố.

     

    Chứng suy tim tái phát, nỗi khắc khoải ba mươi năm lớn quá, thêm vào nỗi lo hạnh phúc thấy đó có nắm được không? Hay lại là như tăm cá! Aỏp lực ấy ngày càng đè nặng lên trái tim đơn côi, bộc phát cơn bạo bệnh... Hôm sau, bác sĩ từ trong phòng bệnh bước ra, sắc thái tươi cười. Hai ngày sau ông ký lệnh cho bệnh nhân xuất viện.

     

    Nàng đi đứng bình thường bên cạnh người yêu. Anh lính bắt tay bác sĩ:

     

    - Cám ơn! Cám ơn bác sĩ.

     

    Bác sĩ nở nụ cười đồng cảm có chút hoạt náo, sau khi vỗ vai anh lính: lúc mê man chị ấy chỉ gọi tên anh. Người đáng được cám ơn chính là anh đấy! Ông tướng ạ! Nếu không xuống kịp, chậm một buổi nữa thôi thuốc men sẽ bất lực. Cho nên tôi kê đại cái toa "thất tình sâm" (nghĩa là điện gọi anh xuống), đâu ngờ lại trúng.


  5. Nhà hiền triết

    Truyện ngắn của Trần Kim Trắc

     

    Cháu bé nũng nịu. Để không làm phiền, ông đang có khách, mẹ vội vàng dắt tay ra đường. Lúc trở vào bé ôm chặt một chai Pepsi, vừa lẫm đẩm bước vừa hút ngon lành.

     

    Ông khách nhà văn lắc đầu: "Trẻ bây giờ đứa nào cũng thích Pepsi - CoCa, thảo nào một nhà báo Mỹ hỏi ông cựu binh ta: "Ông nghĩ gì khi giới trẻ Việt Nam bây giờ uống nước giải khát Mỹ, mặc quần áo mang mác Mỹ?".

     

    Ông nội cháu cười:

     

    - Anh muốn nói là con cháu ta sẽ thành Mỹ hết phải không? Nhà văn anh khéo lo quá! Anh đừng lo! Đến hai lăm, ba mươi tuổi anh có cho nó cũng không thèm. Đến lúc ấy chúng sẽ chỉ thích cái này, hề... hề... ông vừa nói vừa đưa chai đế Gò Đen lên - Của ngọt để dụ con nít - con muốn lấy lòng một dân tộc như mình cần những thứ này: canh chua và cá kho tộ... Nào, vô đi! Năm mươi phần trăm!

     

    Khách uống cạn dằn ly xuống bàn tỏ ý hòa đồng.

     

    - Tôi phục thằng cha này! Luôn luôn có ý kiến lắc léo, rất độc đáo thảo nào hồi chín năm anh em bộ đội gán cho anh biệt danh là "NHà HIềN TRIếT".

     

    Nhà hiền triết dân gốc Trà Ôn, tên cúng cơm là Nguyễn Văn Khoẻ vào bộ đội 307 lấy bí danh là Cần - Đến thời nằm vùng lúc Mỹ Ngụy tiếp quản Tỉnh ủy bí mật Bạc Liêu bảo đổi danh tánh sợ chọn tên đẹp dễ trùng tên với đồng bào nhỡ có lộ hành tung giặc truy tìm nhằm tên người khác khổ cho bà con, bèn chọn cái tên thật xấu là Cù, Tư Cù. Trước Cần giờ là Cù "Cần Cù" không kỵ úy với bất cứ tên ai.

     

    Trong tiểu đội có hai anh trùng tên Lộc - Đơn vị bảo gọi Lộc A và Lộc B cho phân biệt. Nhà hiền triết thấy thiếu hình tượng bèn gọi theo ý mình: anh có nước da đen là Lộc Chà, anh thứ hai là Lộc Na vì mặt rỗ trông giống như hột na (mãng cầu). Vậy là con chữ "A" "B" biến mất - Thư ký văn phòng cũng ghi luôn là Lộc Chà và Lộc Na vào sổ bộ.

     

    Trung đội vận động mỗi tháng ra một tờ bích báo, mỗi chiến sĩ phải có một bài - mọi người viết văn, thơ, hò vè, xã luận chính trị - Nhà hiền triết chuyên vẽ tranh châm biếm.

     

    Anh vẽ một chiếc xuồng ba lá trên dòng nước ngược, đằng mũi một anh gầy nhom ngồi bơi nhưng khẳm đến líp be, đằng lái chỏng ngược lên trời dầm bơi không tới nước mặc dầu chở một anh chàng mập ú miệng toe toét cười - Tiêu đề ghi dưới bức tranh bốn chữ "SAU KHI Tự PHÊ BìNH". Ngược đời nhưng thuận tâm, nghịch lý nhưng thuận ý muốn nói rằng sau khi tự phê bình tâm hồn ta nhẹ tênh thoải mái như anh chàng ngồi sau lái vậy.

     

    Bức tranh khác vẽ mẹ vịt xiêm (ngan) dẫn một đàn con đông đúc tìm mồi, diều hâu trên cao xòe móng lao xuống, vịt mẹ quyết hy sinh vì đàn con bất kể móng vuốt cắm sâu vào thịt da, cắn cổ diều hâu dìm xuống bùn cho đến nghẹt thở. Cảnh tượng này ai sống ở miệt vườn đều có dịp trông thấy, không lạ, nhưng rất có ý nghĩa khi họa sĩ ghi vào bãi bùn ba chữ "Đầm lầy Việt Nam". Ai xem cũng hiểu diều hâu là thực dân sa lầy.

     

    Còn nữa, bức sau này chia làm ba ô liền ý vẽ một chiếc nóp dựng đứng che không thấy người, phía dưới thò ra hai bàn chân lò dò đi về phía bên trong kê một chiếc giường có cô con gái chủ nhà nằm ngủ xõa tóc. Bên ngoài cửa nhìn vào có anh lính gác cầm súng chĩa vào, miệng hô khẩu lệnh từng ô:

     

    - Cái nóp đi đâu?

     

    - Cái nóp đứng lại!

     

    - Cái nóp nằm xuống! Cái nóp ngủ đi!

     

    Ô thứ ba vẽ cái nóp lật mũi tàu nằm xuống từ trong tia ra mấy chữ Khò! Khò! Ngoan lắm, giả vờ ngủ.

     

    Từ cụ La Fontaine ngày xưa chuyên viết ngụ ngôn đến WalDisney ngày nay chuyên vẽ cổ tích, đã từng có cái bình tích biết nói, con sói giở lý lẽ để ăn thịt cừu hoặc đe dọa thỏ "Hãy đợi đấy!", chưa ai nhân hình hóa cái nóp biết đi. Có lẽ chỉ vì duy nhất có dân Đồng Tháp Mười biết nằm nóp và chỉ độc quyền đời lính mới có chuyện cái nóp biết đi và biết ngáy. Văn học hay khi nào độc giả thấy mình giống nhân vật trong truyện, "Cái nóp biết đi" hay đến cỡ nào thật khó đánh giá chỉ thấy lính ta anh nào xem cũng cười.

     

    Cái nhà hiền triết xưa nay ngoài những đức tính triết gia còn cần có đức tính lạc quan là vậy đó! Thánh hiền chẳng phải đã mơ ước cho chúng sanh được yên vui là gì? Lạc quan là lẽ sống.

     

     

     

    Sau một trận đụng độ với ruồng bố nhỏ, tiểu đội có một anh bị thương nằm dưới xuồng. Nhà hiền triết được phân công chèo xuồng đưa thương binh về quân y viện. Xuồng rẽ nước qua ngang một ruộng cấy; chị em thợ cấy trông thấy chạy ra hỏi thăm, lời lẽ mộc mạc:

     

    - Anh ơi! Ảnh bị thương xương cốt có sao không anh?

     

    Nhà hiền triết vừa chèo vừa đáp:

     

    - Không sao đâu! Gãy xương nhưng còn cốt.

     

    Chị em ngớ ra một lúc, chừng hiểu được, mới xô nhau chạy toé nước, đấm nhau cười rúc rích. Anh chàng bị thương đang méo mặt rên hừ hừ cũng phải phì cười.

     

    Trước trận đánh đồn Bảy Ngàn nhà hiền triết được đề bạt lên làm Trung đội phó, nắm một mũi đột phá. Sau khi dẫn quân trầm mình xuống nước tiếp cận vị trí xung kích, súng, bộc phá đã nổ, nhà hiền triết bị rào kẽm gai ngáng đường. Khẩu súng máy Lewis của giặc từ trên "tua me" quét đạn xuống, người được phân công lên trước cắt rào không thấy ra. Giờ phút quyết định này, khẩu lệnh động viên của người chỉ huy rất quan trọng. Người viết bài này được dịp nghe nhiều vị chỉ huy chiến trường ra khẩu lệnh. Nào là vì truyền thống, vì Tổ quốc, vì nhân dân hoặc vì trả thù cho đồng bào... Tiến lên! Chưa hề được nghe kiểu động viên của nhà hiền triết - Tiểu đội trưởng dưới quyền con trai ruột của ông Năm Châu nghệ sĩ bậc thầy cả nước biết tiếng, tên là anh Trúc Sơn. Nhà hiền triết vỗ vai Trúc Sơn động viên theo kiểu riêng:

     

    - Ê! Con trai Năm Châu! Lên đi!

     

    Nghe nhắc đến tên Cha, Trúc Sơn rút mã tấu chồm dậy, dùng sức cả hai tay, đứng thẳng, chém suốt dọc theo thân trụ sắt, toé lửa. Giây thép gai đứt phăng theo từng nhát chém, tạo ra một cửa mở cho đội xung kích xông vào bắt được xếp đồn tây vốn là chủ đồn điền tên Gressier và buộc hắn kêu gọi người em là Remy từ trên "tua me" ném khẩu Lewis xuống đầu hàng.

     

    Trên đường áp tải tù binh rút về bờ kênh Nàng Mao dưới cơn mưa tầm tã. Khi chặt lá chuối cho anh em che đầu, Trúc Sơn nói với nhà hiền triết:

     

    - Hồi nãy, anh động viên ác quá!

     

    Nhà hiền triết cười khá:

     

    - Thì lâu lâu cũng phải cho ông già cậu (tức nghệ sĩ Năm Châu) tham gia trận mạc với chứ!

     

    *

     

    * *

     

    Tập kết ngược nghĩa là ra đến gần tàu lớn của Liên Hiệp đình chiến để chuyển quân ra miền Bắc, một chiếc ghe bí mật quay lái, người nằm xuống lấy chiếu phủ lên giả dạng ghe thương hồ, chèo ngược với đội hình trở lại rừng U Minh. Từ đấy đơn vị cũ không còn biết tung tích.

     

    Mười hai người chọn toàn chiến sĩ thi đua còn gọi là gạo cội ở lại bí mật, nghe phổ biến là ở lại để bảo vệ Trung ương Cục.

     

    Nhưng chèo về Thới Bình, vào địa chỉ liên lạc trong rạch Bà Hội mới hay chủ trương đã thay đổi - Có chỉ thị chôn dấu vũ khí, đạn dược. Lợi dụng chủ trương quy hồi của Ngô Đình Diệm, cài người của ta vào hàng ngũ đối phương để làm công tác binh vận, mặc áo lính Cộng hòa, bí mật hoạt động cách mạng, ngủ một đêm tới sáng đã ngồi trong đồn giặc, cầm súng cho giặc.

     

    Tất nhiên trước khi ra "quy hồi" phải học để đả thông tư tưởng. Lúc lên lớp, nhà hiền triết ngứa miệng hỏi: "Gà bịt cựa làm sao đá?".

     

    Edốp ngày xưa nói: Ngon cũng lưỡi - dở cũng lưỡi là nói nói người khác, còn nhà hiền triết của chúng ta lại tự thè lưỡi mình ra giữa thời buổi nghiêm trọng, tư tưởng của từng người được theo dõi rất kỹ.

     

    "Gà bịt cựa" lỡ lời chỉ bấy nhiêu mà bị tách ra, cho ở lại, không được cử đi làm lính Cộng hòa - Rủi hay là may? Trong khi mười hai anh em cùng thuyền vài hôm sau đó được "ăn cơm quốc gia làm ma c ộng sản" giữ tương đương chức vị hồi kháng chiến trong đồn bót của Ngô tổng thống.

     

    Riêng nhà hiền triết phải lội bộ trở vô rừng tràm trình diện lại với Tỉnh ủy bí mật tỉnh Bạc Liêu - gặp ông Năm Chờ đại diện thường vụ. Đoán biết được tâm lý mặc cảm của anh bị ám ảnh vì sự không tin tưởng của lãnh đạo, ông Năm Chờ mỉm cười, vỗ vai thân mật bảo: "Có sao đâu! Gà bịt cựa không chịu đá thì mình ôm gà mình về".

     

    "Ôm gà về" tức là phân công việc khác: rút vào bí mật bám dân, bám đất nằm vùng ở địa phương. Bấy giờ không còn ai gọi là hiền triết nữa mà là Tư Cù - hoạt động bí mật vùng Khánh Lâm đến Kinh Xáng Bà Kẹo.

     

    Chiến tranh ở miền Nam sau hiệp định Giơ-neo-vơ là chiến tranh từ một phía. Một bên là chính quyền mới do Mỹ ngụy tiếp quản vũ trang đến tận răng tha hồ bắn giết chặt đầu máy chém, giết nhầm hơn tha nhầm - Một bên tay không chống lại bằng ý chí - Không thể có định nghĩa nào hợp lý để mô tả hình thái đối đầu kiểu ấy trong định luật đấu tranh.

     

    Giặc âm mưu tát nước bắt cá tách đảng viên ra khỏi nhân dân để dễ bề tiêu diệt, thành lập ngũ gia liên bảo, bắt dân tố cáo lẫn nhau, một nhà dấu cán bộ, năm nhà phải tội - Bắt dân chuẩn bị đèn dây, gậy trống, thấy ai tình nghi lập tức nổi trống mõ rượt bắt, ai không làm bị buộc tội ủng hộ cộng sản.

     

    Tư Cù cay đắng trong nỗi đau chung khi chính các trai trẻ ngày nào đó là con em của vùng kháng chiến nay buộc phải hò hét rượt đuổi, lùng bắt chính mình. Con hổ ở rừng xanh gặp thợ săn còn có bản năng ra nanh vuốt vồ lại. Còn chạy mãi, cái chết cầm chắc, mặt khác còn phải nghiêm chỉnh thi hành hiệp định, trong khi đối phương bất cần tha hồ tàn sát.

     

    Làm sao đây? Để phá rã âm mưu giặc giành lại được dân?

     

    Một cán bộ bị rượt nà, chạy gần đứt hơi, có khẩu súng lục, bèn rút ra quơ lên trời để răn đe, bọn trưởng ấp ác ôn thấy súng biết là không dám bắn càng thúc dân rượt đuổi - Buộc lòng, người bị săn phải nhảy xuống sông, nhờ bơi lặn giỏi mới thoát chết.

     

    Rút kinh nghiệm vụ ấy, Tỉnh ủy Bạc Liêu chỉ thị tuyệt đối cấm thị uy bằng súng.

     

    Tư Cù được phân công về bắt liên lạc với các nội ứng trong đồn bót, vừa dưới ghe bước lên rủi chạm mặt với tên tề xã. Hắn tìm cách lẻn về nhà lấy súng nổi trống mõ.

     

    Tư Cù đánh bài chuồn - chạy đến đâu cũng nghe trống mõ. Người trong các nóc gia tràn ra hò hét bám đuổi, băng ra đồng sẽ sa xuống ruộng, nhảy xuống sông, nước thủy triều xuống trơ bãi bùn, buộc lòng phải chạy đường độc đạo. Phía sau đuổi theo mỗi lúc một gần.

     

    Vượt qua cây cầu khỉ, chạy thêm một đỗi, hùng khí thuở chín năm nổi dậy, Bác Hồ chẳng đã dạy "Dĩ bất biến ứng vạn biến" (lấy sự không biến ứng phó với vạn sự biến)? - Phải ăn thua đủ cho dù không cân sức.

     

    Tư Cù đột ngột đứng lại, lượm cành củi khô bẻ lấy một đoạn, quay phắt lại vạch lên mặt đường một vạch ngang - dõng dạc thét lên:

     

    - Thằng nào ngon bước qua khỏi vạch này!

     

    Cả bọn khựng lại lấm lét nhìn nhau.

     

    Không để mất một giây - Tiếng chửi thề đúng lúc có uy vũ riêng của nó:

     

    - Đ.! Sao chưa chạy đi! Còn đứng đó!...

     

    Khi nghe mệnh lệnh, mọi người quay lưng cắm đầu chạy, cúi mọp mà chạy, ớn xương rờn rợn sợ bàn tay giấu trong áo ấy rút súng từ sau bắn tới, xô đẩy kêu la đến nỗi tên tề ấp ác ôn cầm súng ở phía sau không rõ tai họa gì xảy đến cũng tháo chạy.

     

    Trở về sâu trong rừng tràm, Tư Cù gặp lại Tỉnh ủy báo cáo, ông Năm Chờ vỗ vai bảo:

     

    - Gà bịt cựa mà đá được lắm! Đúng là dân ba lẻ bảy (307)!

     

    Ông hóm hỉnh quan sát người đồng chí đến chân: "Nghe đâu hồi còn ở bộ đội anh em gọi cậu là "Nhà hiền triết"? Anh nghĩ thế nào mà dám đứng lại?"

     

    - Vì họ rượt theo tôi mà vẫn giữ khoảng cách - sức tôi làm sao chạy mau hơn bọn trẻ. Tôi chậm họ chậm, tôi nhanh họ nhanh - tôi linh cảm rằng họ miễn cưỡng hò hét theo sự bắt buộc.

     

    Lúc cậu thét bảo họ chạy có lẽ giống Trương Phi án ngư cầu Trường Bản, thét một tiếng là cụ dậy?

     

    - Tôi làm gì mà có râu và xà mâu? Nhưng tôn tin cái uy của kháng chiến vẫn còn - Không biết Tỉnh uỷ có đồng ý không? Theo tôi cứ triệt mấy thằng tề ác ôn có súng ở phía sau là chúng rã đám. Anh xin ý kiến Tỉnh ủy đi! Tôi làm thử coi!

     

    *

     

    * *

     

    Trống mõ lại nổi lên. Người gióng tiếng mõ đầu tiên là vợ Tư Cù. Các nhà khác nghe thấy đang ăn cơm phải bỏ đũa cầm dùi nện lên bất cứ vật gì khua được. Cả làng dậy lên không khí báo động. Không còn ai dám ở lại trong nhà. Già trẻ đổ ra đường gậy gộc cầm tay. Trưởng ấp lăm lăm súng chạy đến họ hét:

     

    - Đâu đâu? Nó chạy hướng nào.

     

    - Dạ! Hướng này!

     

    - Sao còn đứng đó? Rượt theo!

     

    Chờ cho mọi người lướt qua gần hết hắn chạy đuổi theo sau chĩa súng vào lưng họ quát tháo. Từ trong ngôi nhà ven đường, một người mặc áo trắng, quấn khăn rằn che cằm lao ra phụ họa hò hét, tay cầm một đoạn củi tràm - Trên trời mây đen vần vũ, cành lá chao nghiêng theo gió, sấm chớp rung chuyển, đất trời ảm đạm một màu tang tóc.

     

    Người áo trắng nối sát gót trưởng ấp hối hắn mau lên!

     

    Đến đoạn đường vắng, thưa thớt nhà cửa, bất ngờ, trưởng ấp bị thộp cổ kéo ngược, khẩu súng chổng lên trời - Thanh củi tràm bổ mạnh vào cánh tay, hắn chưa kịp kêu, khẩu súng đã nằm gọn trong tay người áo trắng: "Oan gia gặp oan gia rồi con ạ!".

     

    Đoàn người rượt đuổi khựng lại trông thấy chủ ấp nằm ngửa dưới đất lầy - Họng súng chĩa vào giữa ngực.

     

    - Tao thay mặt cách mạng cảnh cáo mày! Tao coi như mày đã chết! Tao không cần giết mày để mày còn sống nói với mấy thằng ác ôn nếu còn ép dân, cách mạng sẽ không tha đâu!

     

    Nói với chúng nó, cách mạng nói là làm... biết chưa! Nằm úp mặt xuống!

     

    Khi hắn dám mở mắt ngóc lên nhìn theo, hắn thấy gậy gộc, dao búa vẹt ra hai bên nhường đường cho Tư Cù cầm súng trở về căn cứ.

     

    Chiều đến tàu sắt vào vào còng trưởng ấp giải về Cà Mau vì tội giao súng cho Việt cộng. Tung tích hắn không còn thấy nữa.

     

    ít lâu sau đó, tiếng trống mõ săn người kiểu thời Trung cổ này im dần. Bọn tề ấp không dại gì ra mặt vì bên kia có chủ trương cứ nhắm vào kẻ chủ mưu cầm súng hò hét ở phía sau mà nện.

     

    *

     

    * *

     

    Bữa cơm bạn bè xong, vợ Tư Cù, tức nhà hiền triết phu nhân pha trà mời khách. Tôi tò mò hỏi:

     

    - Hồi anh Tư hét "Sao không chạy đi!" chị có chạy không chị Tư?

     

    - Tôi làm gì phải chạy! ổng chỉ có cái cù thoi dấu trong áo làm bộ ra oai, súng ống lựu đạn có cái đếch gì mà phải chạy! Có chạy luôn theo ổng thì có. Cái lần tước súng thằng Trưởng ấp đó, tôi đánh mõ báo động giả nên sợ bị lộ, tôi ôm con vô rừng theo ổng luôn.


  6. Thư đi thư lại

    Truyện ngắn của Trần Kim Trắc

     

    Anh Mười!

     

    Em được thư anh cùng ngày với thư em gửi xuống nơi ẩn cư cho anh. Như vậy hai lá thư đi ngược chiều nhau trên một con đường.

     

    Xin lỗi, vì em đã cóp nguyên văn câu anh viết trong lá thư tỏ tình đầu tiên xưa kia anh gửi cho em: Anh được thư em cùng ngày đã viết thư cho em, như vậy hai lá thư đã gặp nhau trên cùng một con đường. Xin lỗi, vì em đã sửa đổi chữ gặp nhau bằng chữ ngược chiều.

     

    Thư anh có kèm theo lá đơn đệ lên tòa án xin ly dị, yêu cầu em ký tên vào (nhớ ghi rõ ngày ký) gửi cho em để đường ai nấy đi.

     

    Hạnh ngộ là ba đến thăm cháu ngoại của ông vào lúc này. Em đưa nội vụ cho ba xem. Ba em xưa này chắc anh cũng hiểu, trước mọi chuyện xảy ra ông thường ví von bằng ngụ ngôn để dạy con cháu. Hôm nay ông lại chế ra một tiểu phẩm và kể:

     

    Ngày kia vợ hỏi chồng:

     

    - Anh ơi, tại sao con bò cái sau khi sinh nở ai đến gần con bò con thì nó húc. Nhưng con bò đực chồng nó húc nhau với con bò khác, con bò cái lại dửng dưng?

     

    Người chồng đáp:

     

    -Tại vì nó là giống bò!

     

    Vợ bèn hỏi thêm:

     

    - Vậy tại sao con bò đực, khi vợ nó sinh ra con bò con, nó lại đi tìm con bò cái khác?

     

    Chồng thuận miệng đáp ngay:

     

    - Tại vì nó là giống đực!

     

    Anh Mười thông cảm, ba em già rồi, thương ai ghét ai thường hay nói bóng gió, ít chịu gọi tên chỉ mặt nói đích danh, khi về hưu rỗi rảnh thích làm văn chương chữ nghĩa nên bịa ra, hư cấu thành cái tên nào khác, có khi mượn con mèo, con chuột để làm nhân vật nữa.

     

    Nhà lúc này thường xuyên có khách, phần đông là bạn bè cùng khoa thời sinh viên. Nói là nhớ bé Huỳnh đến thăm, nhưng thực lòng các bạn muốn chia sẻ với em trong hoàn cảnh đổ vỡ. Chưa ai mở lời cho một đơn thuốc nào, vì chuyên khoa cũng là đỡ đẻ đỡ đau chứ có người nào tốt nghiệp cố vấn tình yêu hôn nhân gia đình mà dám bốc thuốc, châm cứu, kê đơn.

     

    Đôi bạn Thúy và Hiền vẫn vậy. Hằng ngày vẫn giờ làm việc theo chân bác sĩ đi visite từng giường bệnh, ngoài giờ cơm nước xong lại có nhau, mặn nồng lắm. Họ già dặn hơn em vì họ dò xét nhau kỹ lắm trước khi tiến tới hôn nhân, khác nào giữ cho thai nhi không sinh non, phải chín tháng mười ngày... hôn nhân mới khó đổ vỡ. Dường như những người sản khoa (obstétriciens) và những người chăm sóc bệnh đàn bà (gynécologie) giống tính nhau: bên ngoài họ rất chuộng vẻ quý phái, nhưng bên trong họ rất dễ thương.

     

    Chúng ta lấy nhau sớm quá, non nớt quá, "tưởng cái giếng sâu nối sợi dây dài, ai ngờ...". Thôi đành rút dây lại thôi!

     

    Linh cũng tới. Linh trước đây đã bị em "hớt tay trên" khi lấy anh, nay kẻ chiến bại trong một trận đánh lại thật lòng xót thương kẻ chiến thắng, còn tỏ lòng biết ơn rằng nhờ em mà bạn ấy khỏi phải nhầm lẫn rơi vào kẻ... như anh. Đêm nào không phải ca trực, bạn ấy có khi ở lại nhà ngủ với em. Bạn ấy bảo vào ca trực đêm ở bệnh viện, cô ấy rất sợ thằng Định có họ với Bùi Kiệm (nguyên văn lời cô nói là "vì cửa nẻo không chắc"). Tay Định có lẽ rất sung sướng vì ngày ngày được chiêm ngưỡng dung nhan của người trong mộng, e rằng trái tim si tình của anh ta đến lúc nào đó sẽ đứt động mạnh chủ, không còn hồn vía đâu để làm việc.

     

    Con người phúc tạp lắm, em đây cũng tự thấy lắm khi mình khá phức tạp, nghĩ vớ vẩn về những chuyện ấy rồi cũng rất phiền lòng.

     

    Thư anh viết tự thú về những quan hệ với Yvette Phương - "tình cũ không rủ cùng đến" thơ mộng lắm vì đó là mối tình viễn dương - xem ra có chút nào đó anh Mười cũng thành thật: "Cô ấy nói rằng sau khi ra nước ngoài đi khắp trời Âu, á, Mỹ, Uỏc, Phi, trải qua đủ hạng người vàng, trắng, đen... về lại cố hương mới thấy không ai tuyệt diệu bằng anh..." Thân em như thể trái dừa, đãi người xa xứ, cặn thừa đãi anh! "Thơ mộng" đấy chứ!

     

    Nhưng thật buồn cười khi anh quá ngây thơ cho rằng gần một năm qua em chưa hay biết gì.

     

    Nhớ lại xem, có khi nào anh từng mua hai đồng hai chiếc bánh đa cho người đàn bà non trẻ trung già son phấn tại bàn bia?

     

    Gần trung tâm thành phố có cây đa cổ thụ năm gốc giữa công viên. Cây bền lòng với đất, nước, nên rễ từ trên cành cao buông xuống, bám lại vào đất lâu năm thành gốc mới. Bên cạnh còn cây đa thứ hai có lẽ từ trái rụng của cây mẹ ươm lên, cành mẹ và cành con giao tán nhau bóng trùm mát rượi. Cảnh vật đượm vẻ trầm tư ấy, nếu được bên trong điểm một ngôi đình chùa hài hòa biết bao, nhưng thay vào nơi cô tịnh hiếm có ấy lại là những quán bia, bậc trí giả làm sao khỏi chạnh lòng nuối tiếc. Em không tin những lời đồn đãi nếu chưa mắt thấy tai nghe.

     

    Tốn bốn mươi đồng thôi, mua mão của em gái nông thôn lên thành phố bán bánh đa - hai túm bốn mươi chiếc, còn mượn chiếc áo rộng che ngoài giữ cho bụi đời không làm bẩn áo sạch bên trong. Áo không cài hết nút đỡ nóng, kéo trễ cổ áo xuống lưng, hai vạt trước xếch lên, em mặc như thế để cải trang thành cô bán bánh đa. Chiếc nón lá mất vành và dây quai đeo buộc bằng khăn mùi xoa cho kín mặt mũi. Em tự hình dung mình lúc ấy như nữ hiệp hành đội rế phủ voan trong phim chưởng.

     

    Với vai cô bán bánh đa, em vào quanh quẩn bên bàn của kẻ trộm tình mà ả và anh không hề hay biết, còn vẫy vẫy gọi mua hai chiếc bánh đa. Hai đồng bạc mua bánh ấy em để trong túi giấy bóng trong và một chiếc bánh đa vỡ đôi treo trên cây đinh treo lịch giữa nhà, vẫn còn để nguyên nơi ấy đến bây giờ. Thường tình gặp tình huống thế kia có hai cách phản ứng: tu tu khóc hoặc phản ứng đánh ghen, tung hê lên cho hả giận. Đó là giải pháp thất học và bất cần lịch sự. May quá em đã diễn xuất không tồi, đủ trầm tĩnh để nhìn thiên hạ bẻ bánh đa nhai rôm rốp.

     

    Trong thời đại bùng nổ thông tin ngày nay, lời tự thú để rẽ sang đường khác của anh chậm cả năm, nguội lạnh mất tính cập nhật rồi.

     

    Anh Đông tài xế vừa bị anh thải hồi có đến thăm. Hỏi "Sao lại bị đuổi?", anh chép miệng than anh chẳng có tội gì ngoài tội trung thành với chủ, tội biết quá nhiều và tội vô tình không đổi hướng cái gương chiếu hậu giữa cabin. Anh biết gì nhiều thứ? Công ty trách nhiệm hữu hạn của anh Mười có chi nhánh ở thủ đô nước láng giềng, mác dược phẩm là vỏ ngoài, thực chất là mượn cớ giao dịch qua lại để đổi quốc tịch xe ôtô con. Xe của họ sang nước ta, lý do qua lại làm ăn, qua biên giới rồi thay đổi màu sơn qua tay anh Mười thay biển vàng thành biển số trắng trở thành xe bản địa. Nghe nói lời mỗi xe cả trăm triệu tiền trốn thuế dễ dàng quá, nhưng em thật không ngờ anh thuộc hạng người ấy.

     

    Bây giờ anh bảo em ký đơn ly hôn tự dưng trở thành đương sự trước tòa án, đặt mình vào cảnh ngộ bên này phải đổ tội cho bên kia, thử hỏi anh có vừa lòng cho em nêu câu chuyện do anh tài xế kể ra trước công đường để tự vệ cho mình không?

     

    Tài xế còn kể với em, có một lần chiếc xe đời mới chạy trên đường Thủ Đức tình cờ song song với chiếc xe hai bánh em đang đi, ngỡ rằng em đuổi theo để đánh ghen, ông chủ là anh vội vàng hối cô bồ quốc tịch nước ngoài gốc Việt quay kính lên để đề phòng bị tạt axít.

     

    Thì ra trong mắt của kẻ ngoại tình, người yêu hồi nào nâng như trứng, hứng như hứng hoa, người vợ hiền dịu phút chốc hóa ra con quỷ cái, một tên sát thủ, một tên xã hội đen cần phải tránh xa.

     

    Ba em hỏi: "Con xử sự thế nào đây?". "Con thản nhiên từ trước rồi! Ai khóc cũng được, nhưng người bác sĩ khi cầm con dao mổ không được khóc. Việc gì đến sẽ đến". Người có trí phải biết vượt lên trên hoàn cảnh. Tự khẳng định mình là sự bình thản (impassible) ấy. Em mượn câu chuyện trong quyển sách nào đó để phụ họa với tiểu phẩm của ba em: Con bò cái sau khi sinh nở nó chỉ biết con bò con, nó quên phứt con bò đực...

     

    Ba em khác với những người thích can gián chuyện ly hôn, sợ để khổ cho con cái. Ông bảo đừng để cho cháu ngoại ông sau này lớn lên, có hiểu biết, nó sẽ phải ân hận khi biết được mẹ nó phải khổ suốt đời mang nặng trong tim cuộc sống chung miễn cưỡng là vì nó.

     

    Anh đã tự dẫm đạp lên tính pháp lý của tờ hôn thú rồi, sao giờ đây lại còn lôi em ra trước pháp lý để gọi là làm thủ tục ly hôn? Em dứt khoát từ chối đến công đường tự dưng thủ vai đương sự vì lý do cần biết tự trọng. Không phải em cản trở. Sao lại phải cản trở khi anh Mười đã ở ngoài cuộc đời của em rồi. Cứ để họ xử vắng mặt, quyết định ra sao em cam kết không lo lắng, không luyến tiếc, không buồn không vui, không quan tâm, không phản ứng, trừ quyết định buộc em trở lại chung sống với anh. Nghĩa ở đời không có, tính có giá trị gì?

     

    Ngôi nhà cho dù em đứng tên và bản thân ngôi nhà cũng vô tội, nhưng em không muốn lưu lại nơi ấy vì nó gợi lại những kỷ niệm xấu. Vả lại không có gì lố bịch hơn ngăn vách ra, đã chia tay nhưng ở chung nhà làm chuyện đầu lưỡi cho miệng đời dị nghị. Nếu là nghề kịch thì giống như hai bệnh nhân bệnh truyền nhiễm nằm ngược đầu chung một giường. Hai mẹ con em đã dọn về nhà ông bà ngoại, ông cụ lại thích vì được ngày ngày dắt cháu đi chơi.

     

    Sung sướng thay những ai hoàn cảnh cho phép phát hiện sớm để khỏi phải dắt nhau ra tòa. Như cậu X. nhà cách hai căn phố. Đến cận giờ làm lễ thành hôn, sực nhớ chưa có bó hoa tình nhân, vội vàng phóng xe đi để xảy ra tai nạn giao thông què chân suốt đời. Khi quá say sưa với hạnh phúc, con người trở nên bất cẩn. Bây giờ ngày ngày ngồi bên trong cửa sổ nhìn ra thấy cô vợ hoãn cưới ngồi trên yên sau xe người khác chạy qua chạy lại mà chép miệng than: "May quá, tình là thế...".

     

    Xã hội ngày nay không còn phải lo nhiều về chuyện không chịu đổi mới, chỉ sợ đổi cũ thôi: trước chung thủy nay bạc tình, liêm chính trung thực đổi thành tham ô buôn lậu, ngày xưa bình đẳng nay "chơi cha"... May quá, con người ngày nay đủ trí tuệ và tấm lòng biết cầm con dao giải phẫu, biết tỏng là khối u phản bội và vô lương tâm thì cắt bỏ đi để tránh hoại tử, dẫu biết rằng còn phải qua nhiều ca trực.

     

    Vợ chồng tay lái xe ba gác ở con hẻm sau nhà đánh nhau, lại lôi nhau ra ủy ban phường xin cắt đứt chỉ vì tay bán kẹo kéo rủ rê cô vợ đi du hí, không nấu cơm bỏ con đói. Em lại không muốn họ bỏ nhau và tán thành cách hòa giải của phường. Cảnh ngộ và số phận! Nhưng đó là vì họ thất học, họ nghèo, bỏ nhau thì khổ con cái, khổ cuộc đời. Chúng ta lại khác, có ăn học, có đủ sức nuôi sống bản thân, có thể xử sự một cách có văn hóa là nhẹ nhàng đường ai nấy đi một khi đã biết tình yêu giả hiệu, nghĩa ở đời không có. Tội gì suốt đời ôm lấy hàng phế thải.

     

    Ông lão hàng xóm, bạn già của ông cụ, đem sang kheo một bài thơ vừa sáng tác. Cụ đi vắng nên đưa cho em đọc bảo có lời bình. Thơ của ông lấy văn vần nói ý không có hồn, ông làm thơ bằng đầu óc không xuất phát từ con tim, em muốn nói với ông cụ rằng đó là mượn thơ chứ chưa là thơ. Nhưng may quá em kịp nghĩ lại nên giữ miệng không nói ra, vì gẫm lại mình thời gian qua chẳng đã nhầm lẫn cho rằng kẻ mượn tình là tình yêu đó sao.

     

    Tình yêu màu mè, thơ quảng cáo có khác gì nhau. Ấy thế vẫn có nhiều người bị lừa gạt. Đời là vậy đó.

     

    Thôi nhé! Vĩnh biệt!


  7. Kẻ Trộm Tình

    Truyện ngắn của Trần Kim Trắc

     

    Sau ngày tốt nghiệp, từ trường học bước ra trường đời, được thu nhận làm nghề phóng viên lưu động tìm hiểu cuộc sống nhân sinh, lại an bề gia thất rồi sinh con đầu lòng, cô út Quyên thỉnh thoảng lại se lòng nghĩ thương cho hai người chị luống tuổi vẫn vò võ ở vậy trông coi ngôi nhà tổ và mảnh vườn nhà. Có phải vì mẹ mất sớm, hai chị bồng ẵm nuôi mình lớn khôn mà hy sinh tuổi xuân của thì con gái. Mỗi lần về thăm chị, cô có cảm giác như về với mẹ để được yêu thương, chăm sóc.

     

    Nay tuổi đời và nghề nghiệp lại khơi dậy trong cô sự tò mò muốn hiểu.

     

    - Chị Hai ơi! Em hỏi thật nghe! Chẳng lẽ thời con gái, chị chưa để ý đến người con trai nào?

     

    - Con quỷ nhỏ này! Nuôi cô lớn rồi, cô định lột mặt nạ của chị cô hử? Thôi được! Giấu bây làm gì, để chị kể cho em nghe, vui vẻ lâm ly còn hơn ca kịch sân khấu.

     

    Ngày đó, không biết ma đưa lối quỷ dẫn đường hay sao ấy? Chỉ một tiếng mời gọi như thách đố chị lại hành động theo anh ta như một cái máy, nhấn ga lao xuồng đuổi theo.

     

    Chị đi bán xoài ở chợ nổi, giao hàng xong, chị lái canô ra vàm sông Tiền. Từ phía sau một chiếc tắc ráng lướt theo, khi sắp vượt qua, anh ta nhảy sóng so kè gọi sang: "Dám đua không?".

     

    Có kịp suy nghĩ gì đâu, chỉ cảm thấy hay hay vui theo gió lùa thôi. Chị không hay bàn tay mình tăng tốc. Mình ra xa ngoài kia đi, giao thông họ bắt phạt "cấm đua thuyền", ra ngoài kia trời nước bao la phóng mới đã. Hắn vượt lên trước nửa thân thuyền, không xa hơn và giữ mãi cự ly ấy để chủ động dẫn đường, buộc chị phải dắt theo. Sông cái rộng mênh mông, nước bắn lên trắng xóa, khi tránh đoàn tàu dòng ghe ngược hướng chị mới hay cuộc đua đã ra giữa sông, cách mỗi bên bờ cả cây số. Đến khi mặt sông chỉ có hai người, anh ấy chủ động cho chị vượt lên ít một đến khi so kè để cả hai cùng buông lái phá ra cười đồng lõa. Tốc độ giảm dần, hai thuyền cặp be nhau nụ cười trên môi vẫn chưa tắt.

     

    Chốn dung thân cho tình yêu, không ở đâu xa mắt mọi người hơn giữa sông, giữa biển cho dù đang thanh thiên bạch nhật. Anh ta đặt tay lên bàn tay đang giữ be xuồng của chị, nói một lời hai ý: "Em đừng lo! Chỉ có hai đứa mình! Trên bờ có đặt ống nhòm nhìn ra cũng chẳng thấy gì!".

     

    Như đang ở một phương trời khác, đầu óc con gái mười chín tuổi của chị lúc ấy trống không, lâng lâng khó tả lắm, trong lồng ngực trái tim như sóng gợn bên ngoài, không tự chủ được. Chị muốn nói một câu nhưng chẳng có lời, anh ấy nói nhiều lắm, nhưng đầu óc chị vừa bay bổng vừa đảo lộn như đang ở thế giới khác tai có nghe gì được đâu, anh ấy bước sang thuyền chị, đối diện tay trong tay chị không hề thấy lạ, cảm xúc trào dâng, còn bản năng đâu nữa để biết phản ứng. Anh ấy nhích dần đến sát người chị, kéo tay chị đặt ra sau lưng, ôm ghì lấy chị, chị cảm thấy toàn thân như mềm nhũn ra khi đôi môi anh áp lên cổ mình. Hai tay chị cũng ôm eo anh nên phải nghiêng đầu tránh đôi má. Thân thể anh ấy nóng ran lên, làm chị hồi hộp, cảm giác lúc ban đầu không như vậy nữa, chị bắt đầu la lên khi bàn tay xa lạ xâm nhập vào vùng đi cấy ngập nước, chị lập tức đẩy anh ấy ra. Chiếc xuồng sắp lật, anh ấy không chịu buông, hung hăng như con quỷ. Chị co chân đạp rất mạnh, anh ta lại áp đến. Chị đạp cả hai chân một lúc anh ta mất đà rơi xuống sông, chị lao đến chụp sợi dây giật máy co le lái xuồng phóng thẳng. Máy nó chạy, mình có chạy đâu, mà chị mệt thở như sắp đứt hơi, giá lúc ấy anh ta có kịp đuổi theo ngáng đường chị cũng đâm thẳng vào thuyền của hắn.

     

    Đêm ấy, ba lại bắt được thằng ăn trộm, cũng chính là hắn. Em đã biết nhà mình có cái chòi ngoài hậu bối, đêm đến cử người ra ngoài ấy ngủ để giữ vườn sợ trái cây bị hái trộm. Khi thì ba, khi chị hoặc em Oanh ra đó canh. Đàn ông mê gái rồi, trèo tường khoét vách trổ nóc nhà họ cũng dám làm, không phải trộm của cải mà để mò vào giường con gái người ta. Hôm ấy hắn tưởng đâu chị ngủ ngoài ấy như thường lệ, đâu ngờ rằng ba thấy chị đi bán về còn phải hái xoài mai đi bán sớm, nên ba thay thế ra ngoài giữ vườn.

     

    Anh ta không biết nên bọc hậu từ ngoài đồng mò vào. Tháng mùa khô lá xoài giòn lắm, nên bước khẽ đến mấy cũng lạo xạo. Hắn vào chòi phía trước, ba vòng ra phía sau chặn con đường lui, đèn năm pin ba rọi: "Ai đó!" - Ba thét lên. Thằng trộm băng vào vườn bỏ chạy vướng dây kẽm ngã sấp mặt, chưa kịp chồm lên, cây chĩa ba cán dài của ba đã xâm trên lưng đố dám cựa

     

    Em đã biết, trên rễ các gốc xoài vườn nhà mình thỉnh thoảng có đóng cây đinh tấc, đầu đinh nhô lên một chút, đêm đến ba móc dây kẽm vào đó căng thẳng là là cao hơn mặt đất 10 phân. Đi lối chính thì không sao, băng vào vườn là té sấp mặt. Ba nói đó là kinh nghiệm thời trốn lính, căng dây như vậy, giặc có xông vào là vấp mình biết mà chạy. Bây giờ ba lấy kinh nghiệm để ngăn bắt trộm. Ngã đau thôi chứ không chết, chứ nóng của, giăng dây đến gây án mạng mang tội, nó chết mình đi tù.

     

    Cán chĩa của ba lúc nào cũng có sẵn cuộn dây, ba ném cho hắn, bảo tự trói lấy chân mình, phải tuân lệnh thôi, ho hé là chĩa ba gí sau lưng ổng xắn là ngoẻo.

     

    Chị với con Oanh nghe động chạy ra, thấy rõ mặt hắn, con Oanh nó la lên: "Chủ vườn xoài mà dám đi trộm xoài người ta, quân mạt hạng". Nhưng chị thì hiểu khác, hắn đi ăn trộm tình...

     

    *

     

    * *

     

    Trước nhà, có hai cây xoài lão, trồng đất phù sa gốc hai tay ôm không giáp, cành dài ra giao nhau che mát mặt sân. Xoài có chùm treo cuống thòng xuống đu đưa theo gió trông như hoa làm cảnh.

     

    Một người đàn ông có vẻ khách phương xa, áo ba túi màu trắng, quần bò, xỏ dép râu, đội nón rộng vành màu cỏ úa, lững thững bước vào sân, vừa đi vừa ngửa mặt lên ngắm quả. Hắn điềm nhiên ngồi xuống thềm gạch quay lưng vào, móc thuốc ra châm.

     

    Cô Yến trong nhà bước ra hỏi: "Ai đó!".

     

    - Quen mà cô Hai!

     

    Hắn ngửa mặt lên, cô Yến hứ một tiếng.

     

    - Anh biến đi đâu cả chục năm, lò dò về đây như ma hiện? Vào nhà uống nước ngại gì.

     

    - Tôi ngồi đây cho mát. Cảnh cũ người xưa, đến thăm vậy thôi! Bác Bảy đâu vắng? Hai cháu này là con cô Oanh?

     

    - Anh cũng biết à?

     

    - Tôi ở thành phố, thỉnh thoảng có gặp bà con xã nhà lên bán xoài, có hỏi thăm.

     

    - Sao bỗng dưng anh biệt tăm biệt tích gần mười năm nay vậy?

     

    - Nhục! Cô nghĩ coi mặt mũi nào nhìn bà con khi mang tiếng là thằng kẻ cắp mạt hạng ăn trộm xoài, ở lại để mỗi khi vườn nhà ai mất trái cây đều nghi thủ phạm là mình.

     

    - Nhưng anh dư biết là không phải vậy kia mà! Sao anh lại nhận với ba tôi là ăn trộm? - Cô ngoảnh mặt về phía sau để giấu nụ cười.

     

    - Trộm nào cũng đáng xấu hổ, nhưng trộm tình vạ lây đến nhiều người. Cô biết mà, chú Bảy nghiêm khắc lắm! E để khổ cho cô!

     

    Thời trẻ người non dạ, tôi là đứa háo thắng thích làm chuyện giật gân để hơn người. Cô đã biết hồi lớp 11 tôi học đâu có tệ, nhưng chỉ vì thua điểm xếp hạng dưới một bạn khác, tôi tự ái bỏ học luôn. Đến khi thấy cô xinh đẹp nhất làng, tôi nhất quyết phải chinh phục bằng được, lại hàm hồ muốn cho ván đã đóng thuyền để khỏi ai tranh giành, không ngờ bị cô cho lộn cổ xuống sông. Đã đâm lao, phải theo lao, tối đến tôi mò vào nhà chòi, những tưởng cô ngủ canh đêm ngoài ấy, nào ngờ bị ông già ốm yếu gí chĩa vào lưng, bắt buộc phải tự trói mình, may mà chú Bảy từ tâm, ổng lại thả cho đi... Tình tan vỡ, danh dự bị bôi đen, tôi về nhà lấy xe, nửa đêm phóng đi trên lộ 4 mỗi bộ quần áo dính vào thân. Lây lất bụi đời một thời gian, rồi bán xe để ăn, tuyệt đường hồi mả, lang thang...

     

    - Vậy vợ con? Anh được mấy cháu rồi?

     

    - Đường đời như sợi dây mà cô Hai! Vướng chân ở chỗ này, gỡ ra tháo chạy đến chỗ khác lại vướng, chạy mãi, vướng mãi cuối cùng sắc tán lực tận, gỡ hết nổi, chỉ tại mình ham chạy, chứ đừng có đổ thừa cho số phận.

     

    Tôi lấy vợ vì hậu quả của cuộc tình bừa phứa... Đàn bà xấu xí đến mấy cũng là cái bẫy cho bọn đàn ông bạ đâu trút đó. Tôi làm phụ xế, tối ngủ bến coi xe, gọi tẩm quất giết thời gian, tưởng chuyện qua đường, đường ai nấy đi thôi. Không ngờ ít lâu sau, cô ta mang bụng đến bắt đền, mà mấy người anh cô ta là dân dao búa đứng bến, chạy làng sao được nên bây giờ 3 đứa nhóc rồi.

     

    - Vậy anh trở về đây làm gì?

     

    - Tôi muốn gặp chú Bảy thưa chuyện về vụ những người cò đất gạ mua đất vườn nhà tôi, ba tôi nhắn gọi tôi về...

     

    Cô Yến đột nhiên nổi giận hứ lên một tiếng:

     

    - Cò gì chúng nó! Chúng là bọn địa tặc.

     

    - Cô nói gì, "địa tặc"?

     

    - Phá rừng là lâm tặc, phá vườn là địa tặc - gọi bằng gì nữa? Anh đừng hỏi ba em, ông yếu tim đó, nhắc đến bọn địa tặc này, coi chừng xảy ra án mạng đó. Mấy thằng cò đến đây ông chửi sấp mặt đuổi đi rồi.

     

    Hết chỗ mở rộng phố phường rồi sao? Bên kia lộ 4 đất phèn ven biển, đất mặn không mở, đất vườn phì nhiêu cây trái đem xi-măng đến đổ, cỏ hết mọc, giun không còn chỗ ngóc đầu lên thở. Lâm tặc phá rừng, rừng còn tái sinh, chứ bọn địa tặc này thối lương tâm còn hơn lâm tặc.

     

    Ai thử đến đây, mạnh tâm xóa sổ địa danh nơi xuất xứ xoài Hòa Lộc, cũng như xóa sổ xuất xứ mận Hồng Đào, vú sữa Lò Rèn, bưởi Năm Roi, măng cụt Lái Thiêu, vải thiều Hải Dương,... coi chừng lịch sử sẽ phán xét họ.

     

    - Anh về đi! Nói với người nhà đừng có bán đất vườn. Trên lãnh đạo tỉnh, không có người vô tâm mà để di tích lịch sử bị xóa đâu! Còn em nhắc lại! Ba em, ổng bị đau tim đó!

     

    *

     

    * *

     

    Anh ta được cô Yến tiễn ra tận cổng, chiếc nón vẫn cầm tay chưa úp lên đầu. Anh ta ngước lên nhìn những quả xoài treo cuống đung đưa như những quả lắc thời gian.

     

    - Thôi chuyện cũ cho qua nghe cô Yến. Còn cô sao không lập gia đình đi cho tôi an tâm, hay cô sợ người đẹp lấy chồng rồi sẽ mất giá.

     

    - Tôi không nghĩ vậy đâu. Quen anh có một ngày mà hai lần anh mắc nạn nên tuổi của tôi là sát phu, đàn ông nào gặp tôi sẽ khổ, lấy chồng hại chết người ta e thất đức.

     

    - Vậy sao? Thôi coi như hôm nay tôi chẳng có đến đây, về cô đừng có nói lại với chú Bảy, cứ để cho chú hiểu như trước là tôi ăn trộm xoài.

     

    - Sao anh khờ vậy? Hồi đó bị bắt trói, anh không nghe ba tôi nói mãi một câu: "May cho tao quá!".

     

    - Có! Có! Tôi vẫn nhớ.

     

    - Đó không phải là may mắn không mất xoài. May của ba tôi nói là may mắn không gả con gái ổng cho anh.

     

    II

     

    Hai Phàn tỉnh rượu, lồm cồm ngồi dậy, mặt mũi thiu ngắt như đứa bé ngái ngủ, bị mẹ gọi dậy để đi nhà trẻ. Xương xẩu long ra từng đốt, đau nhừ như đã hết cốt.

     

    - Trời ơi! Tôi đang ở đâu đây?

     

    - Anh đi theo bờ ranh đến trại ong của tôi. Tôi đẩy thêm cho anh một ly quắc luôn, để anh khỏi nói nhảm, lấy độc trị độc.

     

    - Ôi! Tôi có nói năng làm gì sai trái không? - Không đâu! Say vì yêu mà. Cũng nên say. Tôi có lỗi là làm cho anh quắc cần câu luôn, nên cô Yến chưa kịp nghe gì nhiều. Bây giờ làm ly nữa nghe.

     

    - Thôi! Thôi! Anh cho tôi xin! Dĩ vãng sống dậy biết tỏ cùng ai, tôi trách mình nên tôi uống, không ngờ hết biết đường đi.

     

    - Thì rượu nó dắt anh đi! Có sao đâu! Khăn đây! Nước đang dâng, anh xuống mương rửa mặt, lau khô, lên chải đầu cho đỡ bù xù, tở mở, sáng sủa. Tôi đi pha trà để anh uống cho ấm bụng, rồi anh em mình nói chuyện.

     

    Cô Oanh, cô Quyên theo hai bé sinh đôi ra nhà của bố nuôi là bác Mẫn nuôi ong.

     

    - Hai cô ơi! Hôm qua có nghe tôi nói không phải điều gì, cô nói với em Yến bỏ qua cho tôi! (Cái vết ong chích, lúc sau làm môi dưới của anh vều ra trông thiểu não lắm). Chẳng qua ở xa khuất mắt thì thôi, nay về đây, cảnh cũ, người xưa, ký ức như sống lại trừng phạt tôi, nên tôi mượn rượu giải sầu, hai cô nghĩ coi, tôi thì đã có con cái chẳng ra làm sao nhưng cũng là một gia đình, mười năm rồi, cô Yến vẫn ở vậy có phải là lỗi tại tôi gây ra không? Nghĩ như vậy nên lương tâm tôi cắn dứt, tôi mượn rượu vì can tràng biết tỏ cùng ai?

     

    - Anh không hiểu chị em rồi. Chị em muốn làm thánh nữ đó! Anh còn nói vậy nữa chúng em phải phẹt anh một nghèn nem trem!

     

    Cô Oanh nhại tiếng rất khéo nên mọi người đều vui. Trưa nào, bà bán tàu hũ cũng gánh gánh đến nhà, cháu bé nghe lạ tai nên nói theo đã làm cho cả nhà thích thú. Cô Oanh lặp lại câu ấy cốt để hòa đồng không hề ác ý.

     

    Hai Mẫn nói:

     

    - Thôi đi cha nội! Tình yêu đổ vỡ là tình yêu nhớ lâu nhất. Ông nói như vậy là ông không hiểu nổi chính ông, nên ông phủ lên cho mình một lớp sơn nhân đạo xót thương cho người khác, chứ thực ra ông còn tiếc của đời hùi hụi. Tôi tiếc ly rượu hạ gục ông hôm qua quá! Phải chi tôi cứ để cho ông nói nữa khi ông say ba ngù để cô Quyên lấy tài liệu viết văn. Rượu biến con người ta trở nên thật thà mà...

     

    - Anh Phàn! Chòm xóm mà! Chuyện cũ bỏ qua đi! Đó là ý của cô Oanh. Tự nhiên với nhau tốt hơn. Vả lại hai bác ở bển cũng già rồi. Anh nên đưa chị ấy và các cháu về cho gia đình sum họp.

     

    - Mặt mũi nào tôi dám đưa vợ tôi về đây. Xấu như ma, đi đứng lịch ịch, vóc dáng hình cái ve chai chỉ được nước mắn đẻ.

     

    - Sao không nói bụng hình quả xoài dựng ngược, rồi "tắt đèn nhà lá như nhà ngói" phải không? Tôi là đàn ông tôi dư biết: trong tình yêu người đàn ông tìm đến với người đàn bà vì nhu cầu và sự ham thích, không hề có sự kính trọng. Nhưng nếu anh ta cảm thấy không được đàn bà kính trọng và ngưỡng mộ, anh ta sẽ vô cùng bất mãn. Trước kia anh bỏ làng ra đi vì hành vi của mình mà anh tự cảm thấy đã đánh mất sự kính trọng. Bây giờ vì ân tình với quê hương, bảo anh trở về, anh cũng không được kính trọng, chẳng lẽ anh ôm cái cục sĩ diện ấy đến suốt đời?

     

    Ông Bảy từ trên nhà cầm quạt đi ra, nghe mọi người kể lại, ông già phán:

     

    - Đàn ông mà người nào chẳng ích kỷ, họ cười người khác là họ cười mình mà thôi. Có anh nào chẳng đã một lần "chém chạy"?

     

    Hai Phàn sửng sốt: "Vậy là bác đã biết, hôm đó cháu muốn mò vào giường cô Yến?".

     

    - Sao lại không? Nếu cho là mày đi ăn trộm xoài, tao xỉa cho mày một mũi chĩa, chứ thả mày đi làm gì?

     

    Thôi! Chuyện đã qua cho qua! Nhắc lại mần chi! Thằng đàn ông lúc nào dẹp được tính ích kỷ và bệnh sĩ, lúc đó mới có thể nói là hắn có ý chí! Mấy đứa con mày cũng cần biết tổ tông chứ! Năm gốc xoài là đủ nuôi một đứa bé ăn học. Anh chị Chín trăm tuổi già chỉ sợ vườn tược không ai trông coi, còn mày bám đất thành phố chạy ba gác, vợ mày đi giác hơi kiếm cơm, nhà cửa tạm bợ, biết đến bao giờ mới ngóc đầu lên được?

     

    - Vậy bác biết hết sao bác Bảy?

     

    - Ông già bà già mày kể lể hết. Cả làng biết sao tao lại không biết?

     

    Cô Oanh nướng một chồng bánh tráng nước cốt dừa bê ra. Bánh tráng giòn rum, phết mứt xoài, nhai có lý hơn bất cứ loại bánh mứt nào.

     

    Hai nhà liền ranh, cách nhau một con mương vườn, qua lại bằng một thân cây bắc ngang, từ nhiều đời đến nay vẫn thế. Không bao giờ có cảnh qua cầu rút ván, cầu mương, ván ở đâu để mà rút? Nên thấy mọi người đông đủ, thím Hai Mành, người ngày nào vợ chồng không cãi nhau ăn cơm không ngon, qua cầu đứng sau lưng, theo dõi cớ sự.

     

    - Cho chị một miếng bánh tráng, để chị dạy thằng em này cho nó khôn ra! Về đi chú em! Bỏ cái đất xoài Hòa Lộc này đi rồi tiếc. Đường trần không mấy lúc đâu, già đến nơi rồi. Thôi tiếc làm chi cát bụi đô thành, lương cao lương thấp gì xét cho cùng cũng là mần mướn. Về đây cho cây trái nó nuôi để mình làm chủ lấy. Năm gốc xoài thôi đủ nuôi một đứa con, tha hồ mà đẻ! Bác Bảy nói phải đó!

     

    Cô nhà báo tiếc rằng mình không kịp bấm máy ghi âm, nên vội sờ túi tìm cái nút bấm, rồi cô lật đật lấy bút ghi câu nói vừa nghe của thím Hai Mành:

     

    - Còn mày sợ vợ mày xấu mã, về đây xóm làng cười cho ư? Thím đây không xấu sao, đánh nhau ỏm tỏi như cơm bữa, tao đố chú mày dám bỏ tao, bỏ tao rượu đâu ổng uống? Ai làm món nhấm khoái khẩu cho bằng thím mầy để ổng say sưa? Còn thím hả, dại gì thím mày bỏ ổng, xấu con tốt củ có chịu đấm ăn xôi mới ngon.

     

    Thằng Trọng trẻ tuổi nhất trong các nhân viên nuôi ong chịu không xuể phải nhảy ngược ra trốn sau bức vách để ôm bụng cười. Sự thật nói cho tới chữ cứ như cù vào nách tâm hồn của người ta vậy.

     

    Khó tính như ông Bảy cũng phải cười, ông bị cuốn vào không khí của cá tính có sao nói vậy của thím Hai.

     

    - Con Hai nó nói đúng đó. Con người ai lạc bước xuống trần ai mà không mặc ba thứ y phục. Thứ nhất là đồng phục: đồng phục học sinh, đồng phục nhà binh, đồng phục nhà hàng và các thứ nhà nữa... Thứ hai đồng phục thường dân, gọi là thường phục, ai muốn mặc sao thì mặc thoải mái tự do ở nhà cũng như ra đường. Thứ ba là áo da từ lúc mới sinh ra và lúc bỏ dép bước lên giường với người khác phái nữa. Lý lẽ của cái mồm và cảm xúc của cái tâm tùy từng lúc mặc y phục gì mà gia giảm thôi cháu ạ! Vậy thì mầy hãy mặc thường phục đi mà bồng bế con, đưa vợ mầy về với tình làng nghĩa xóm.

     

    Chàng lãng tử coi bộ chịu đòn, tội gì không trút hết bầu tâm sự:

     

    - Bác biết vợ cháu nó xấu như ma mà tại sao cháu chẳng bỏ nó được không? Cái bà béo ấy tắt đèn thì tuyệt vời, cô ấy biết tẩm quất, biết mát và xa (mát xa), lúc nào tôi ngứa cô ấy còn biết rái tai nữa.

     

    Ai cũng phải cười bò, cô nhà báo ré lên:

     

    - Chết mất, phen này có lẽ em phải đi học tẩm quất, rái tai, để tránh được cái cảnh nhà trí thức nhất là nữ nhà báo nhà văn, ba mươi, ba lăm là đã rẽ phân, nhiều bà ở góa nuôi con.

     

    III

     

    Xe lôi chở năm người, mẹ bế em bé ngồi nhìn tới trước, cha với đứa bốn tuổi ngồi đối diện, còn em gái lớn chín tuổi ngồi trên mặt phẳng càng xe, ôm cổ cha, va-li khăn gói chất ở giữa. Lãng tử về làng, đi một về năm. Người quen trông thấy chặn xe lại, gọi nhau đến trầm trồ, các cháu bé đẹp như trẻ trên tivi. Ôi thích quá! Cho dì ẵm chút coi, ai cũng thích nắm tay chân bụ bẫm của các cháu cho mát.

     

    Xe qua rồi, mọi người nhìn theo nói: Bà ấy xấu mà sinh con ra đứa nào cũng đẹp...

     

    Nỗi buồn năm tháng của Phàn được an ủi: đời bất hạnh đến mấy cũng còn con cái để mà hơn.

     

    Còn chị em ở quê lại nói: Lấy vợ, chọn chồng còn biết coi mặt, coi mày, coi vóc dáng, tiền bạc để mà lựa chọn. Còn cái bào thai trong bụng ai biết được để vẽ mặt vẽ mày cho nó theo ý mình, âm dương cho cái gì được con ấy, tốt xấu ráng mà nuôi. ý các cô muốn nói là tạo hóa cũng biết chơi khăm.

     

    "Đánh kẻ chạy đi, ai đánh kẻ chạy lại". Mừng kẻ đồng hương lưu lạc trở về, cả xóm kéo đến hỏi thăm. Các cô gái xuống bếp phụ bà lão cắt cổ gà, các anh trẻ trai về xách rượu tới. Khi cỗ bàn bày lên, có lẽ lần đầu tiên Hai Phàn có lời nói phải:

     

    - Đứa con không nên thân xin cha mẹ và bà con xóm giềng tha thứ. Chốn thị thành như cái ao trũng, nước tứ phương đổ dồn về chỗ trũng ấy, cuốn theo tốt có, xấu có, hiểu biết có, dốt nát có, khỏe mạnh có, siđa có, trộm cướp có, lưu manh có... chứa sao mà hết nổi? Có người khá lên, kẻ thân tàn ma dại, sống lay lắt qua ngày nhiều không đếm xuể, nhưng rồi cũng phải sinh con đẻ cái, chòi đạp mửa mật ra để mà nuôi, trước sau gì rồi cũng sẽ phải ói ra, trở về quê hương để mà sống.


  8. Ông thối bà thiu

    Truyện ngắn của Trần Kim Trắc

     

    Nai đồng quê, thái miếng to, ướp tương bần - Búp sen mở cánh, đặt thịt vào giữa gương vàng túm lại - Đất sét nhào tro bọc bên ngoài xếp bảo quản vào góc bếp dùng dần - Bụi thời gian phủ lên trông như những nắm than quả bàng chẳng ai để ý.

     

    Bác phó mộc Bỉnh chiêu đãi tôi món này: "Đặc biệt huynh là người miền Nam xa quê hương, tôi mới giới thiệu đặc sản này, tự biên tự hưởng, tôi chưa hề tiết lộ công thức với bất cứ ai".

     

    Hưng Yên có táo Thiện Phiến, khoai Lim, nhãn Tiến, cá mòi Dốc Lã, có rượu Trương Xá, bún thang Lươn, tương Bần... có lẽ huynh đã nếm thử, nhưng nếu người bạn lang bạt như huynh rời mảnh đất này mà chưa thưởng thức món "Liên nhục" (sen, thịt) Phó Bỉnh này đắc tội - Mời huynh xuống đây, bên bếp lửa hồng, rượu ngon có bạn hiền, ấm lòng lắm giữa đêm đông gió lạnh.

     

    Bác Phó dùng gắp tre khều những hòn đất lăn ra, vùi vào tro, phủ than hồng lên trên.

     

    Bác bảo:

     

    - Cá nhỏ rán lửa to, cá to lửa nhỏ, nướng món này như rán cá to vậy. Cho âm ỉ nóng dần lên, lớp vỏ đất sét bên ngoài đanh chắc lại hấp thụ nhiệt truyền vào, thực phẩm bên trong không mất mùi vị.

     

    Trẻ chăn trâu đào hố bẫy vịt chạy đồng, không có nồi chảo, cũng dùng cách bọc đất nướng này bằng lửa rơm. Mở ra lông vịt theo với đất, thịt chấm muối ăn.

     

    Bên các tiểu đảo Thái Bình Dương, dân canaque bản xứ bắt được cá to, săn được thú thường ướp nước cốt dừa, trộn khoai củ bọc lá chuối, áo đất. họ chất đá, đốt đá nóng lên sau đó vùi thực phẩm áo đất vào nướng - Món ăn mượn hơi đá, chín thơm được coi như món quốc tuý: Ăn cũng là văn hóa.

     

    Bằng thời gian chín củ khoai, bác Bỉnh lấy ra dùng giẻ lau bụi, bóc đôi ra như vỏ măng cụt. Hé búp sen đặt vào bát.

     

    Nam Bộ có từ "Ngậm mà nghe" khi thưởng thức món ngon - Thú thật, trong sâu kín tôi vẫn che giấu chút tự hào là dân sành điệu, món ngon vật lạ nếm đủ - Đêm nay nghệ thuật ẩm thực độc đáo của ông Phó mộc làm cho tôi phải tự xô ngã mọi sành điệu chủ quan - Ngon tuyệt! Tôi quá đã, "ngậm mà nghe" - Món nhấm thật giản dị, mà sao nghe đâu đây thăm thẳm ngàn xưa, ngào ngạt hương đồng gió nội. Không kích thích mạnh như hành tỏi ngũ vị ớt tiêu, dìu dịu ngát sen mời gọi men nồng.

     

    *

     

    * *

     

    Chủ nhân tiếp đãi tôi món ẩm thực độc đáo là một lãng tử chân què.

     

    Cuộc đời là một chuỗi dài những bất đắc chí.

     

    Hai mươi lăm tuổi, nay đây mai đó, làm mộc, cất nhà, đóng bàn ghế cho thiên hạ, cha mẹ lần theo dấu chân phiêu bạt bắt về cưới vợ.

     

    Nàng đẹp người đẹp nết, tề gia nội trợ giỏi giang, có ý chí rất mạnh mẽ để giữ riệt chồng bên mình, luôn cự tuyệt những bạn bè nào có ý rủ rê chồng rong chơi vắng nhà. Dần dà sự giao tiếp của chồng trở nên thưa thớt - Sợ anh ấy sa ngã, sợ nắng mưa, sợ đau ốm, sợ phải xó chợ đầu đường, rừng thiêng nước độc, sẩy nhà ra thất nghiệp - Muốn rượu có rượu, muốn thịt cá có thịt cá - cơm gà có gỏi sung sướng còn hơn gia cầm vỗ béo. Thời gian đầu chàng cam chịu cho vui cửa vui nhà - Ai cũng mừng giùm rằng "lãng tử sớm quay đầu".

     

    Nhưng như người nghiện bỏ thuốc lá, bỏ rồi hút lại, nghiện lần sau nặng gấp mấy lần trước. Cuộc sống như con cu cườm no ấm ở gia đình làm cho kẻ lãng tử quen giao tiếp, cảm thấy cuộc sống xã hội của mình dần dần bị thu hẹp lại sau lũy tre, bạn bè thưa thớt, diễn biến bốn phương cuộc đời ngoài kia ra sao mình trở nên mù tịt - Cơn khủng hoảng tinh thần lại thúc giục, ngứa cẳng ra đi, lần này biệt tích, lãng tử không quay đầu nữa! - Vợ về thấy mất bộ đồ nghề làm mộc, cưa, bào, búa, đục... biết hắn đi rồi, xa lắm, rừng Nghệ An, rừng Việt Bắc, Tây Bắc mênh mông biết nơi mô tìm về? Sáu năm dài, vọng phu mòn mỏi với thời gian, đá cũng thành cát bụi, vợ ở nhà đành rổ rá cạp lại, xây cuộc đời mới để có chỗ nương thân.

     

    Biền biệt hai ngàn ngày phiêu bạt, thật ra năm hết tết đến, cũng chạch nhớ quê hương, nhưng nghĩ tới sự quản chế ngọt ngào của người đàn bà mà ớn lạnh, đành im hơi lặng tiếng, đón xuân nơi xứ người.

     

    Hỏi sao bây giờ lại chịu phép trở lại quê xưa, bác phó chỉ cái chân tật nguyền thở dài: "Đây là hậu quả của chuyến đi buôn bè. Bè gỗ đang trớn vào mùa nước lũ, muốn bắt bè vào bến lâm nghiệp phải có người nắm đầu dây song (mây) đấu vào các bè khác neo trước - Bè gỗ đang lao tới bất ngờ bị dây hãm lại tấp vào với tốc độ chóng mặt, tôi trượt chân ngã vào lúc ấy, gỗ súc của bè đang trôi và bè tại bến va vào nhau như gọng kềm, đầu gối tôi lại kẹt vào giữa - Tôi tỉnh lại thấy mình đang nằm trong bệnh xá Phố Lu, đầu gối chân đã bị tháo khớp tự lúc nào.

     

    Lá rụng về cội thôi, tôi về làng cũ, còn ít tiền mua tre nứa dựng lại nếp nhà - Mất chân còn hai tay, tôi sống bằng nghề đục mộng thắt cho người ta làm nhà - Tôi làm việc ấy giỏi nhất vùng này, vì mộng thắt là bí truyền của Lỗ Bang cụ tổ nghề mộc - nhà gỗ kê táng không chôn cột, không đóng đinh, chỉ nhờ mộng thắt kết nối nhau mà cả bộ khung nhà vững vàng đối đầu với gió mưa bão tố.

     

    Vợ chồng cô ấy có dắt nhau đến đây để tạ tội với tôi, tôi không trách họ mà còn thầm cám ơn hắn đã thay tôi gánh đỡ cho sự quản lý ngọt ngào.

     

    - Thế bác ở vậy đến bây giờ.

     

    - Lãng tử quày đầu tức thị lãng tử cô đơn. Ham muốn nữa làm gì với cái chân què gây khổ cho đàn bà nữa?

     

    Chẳng phải nhờ những tâm trạng này mà các triết gia có cái để luận về sự đời truyền dạy cho con cháu đó sao?

     

    - Và cái món hoa sen đùm cầy tơ cũng là sáng tạo của bậc trí giả cô đơn?

     

    - Có lẽ thế!

     

    *

     

    * *

     

    Tiên Lữ.

     

    Địa danh của một huyện thuộc Hưng Yên đối diện với Hưng Nhân, Thái Bình cách một con sông.

     

    Tôi là người phương xa, miền Nam trên đất Bắc, không hiểu lịch sử của địa danh đầy nữ tính nên cứ tự hiểu lấy:

     

    Lữ là đi (lữ hành) tức là đường đi của tiên nữ. Nói thế không ngoa. Bạn thử đến đó mà xem, quê hương táo Thiện Phiến ven theo con đường từ thị xã Hưng Yên đến chợ huyện Tiên Lữ nhiều tiên lắm, mỗi người một vẻ, vẹn cả mười phân. Áo nâu da trắng, tiếng nói dân ca, gót sen dân dã.

     

    Tôi về đây theo sự phân công của phòng kỹ thuật Ty Công nghiệp Hưng Yên phụ với xã xây dựng nhà xay thóc ngô và chế biến thức ăn gia súc.

     

    Ông Chủ nhiệm Hợp tác xã định kiếm một gia đình ngon lành cho tôi ở. Tôi thưa với ông, tôi vốn cũng là lãng tử muốn quày đầu nhưng công tu dưỡng chưa thâm hậu còn để bị cám dỗ, làng ta nhà nào cũng có mỹ nhân sợ ở chung nhà dễ sanh tâm, đêm đến làm sao ngủ yên để có sức khoẻ lắp đặt máy móc được chính xác. Lại nữa tôi đã có ý trung nhân trên Phố Hiến ước hẹn xây dựng cuộc đời, nhỡ có điều tai tiếng lại hỏng tương lai lần nữa.

     

    Ông già nghe chí lý nên tôi được giới thiệu đến trọ nhà ông thợ mộc, hai cảnh cô đơn, hai kẻ lãng tử quày đầu thân nhau, đến ngày nay dù kẻ Nam người Bắc để còn nhớ lão Bỉnh khi đặt bút viết những dòng này.

     

    Thông thường quen với ai, ta đem thành tích ra kể cho họ nghe, họ chỉ phục ta thậm chí còn cảnh giác xem có thể tin bao nhiêu phần trăm. Nếu ta đem nỗi khổ sớt chia, họ sẽ thương ta. Còn nếu thổ lộ cho họ nghe thói hư tật xấu của ta cho họ nghe, họ sẽ gần với ta hơn, còn nếu họ khinh ta họ không thể là đồng đạo.

     

    Hai tháng góp gạo thổi cơm chung có sẵn hũ tương phơi giữa sân, luống rau muống, su hào, sáng rau muống chấm tương, chiều canh tương nấu su hào, nhưng một khi đã mở nút chai là có món nhấm.

     

    Thời kỳ Johson cho không quân ném bom miền Bắc, nước mắm trở nên khan hiếm. Tàu thuyền đánh cá khó ra khơi, có thành phẩm rồi vận chuyển lên miền xuôi, miền ngược là cả vấn đề. Nước mắm phân phối bằng tem phiếu thường kỳ bị gián đoạn. Trung ương chỉ thị từng địa phương cố gắng sản xuất tương, nước chấm bằng đậu đỏ. Hưng Yên phải cố gắng nâng sản lượng tương Bần. Chỉ thị còn có câu: Công nghiệp hóa nghề làm tương.

     

    Viện thực phẩm cử anh Hải, chị Chung, chị Mai kỹ sư thực phẩm về Bần, Yên Nhân, Mỹ Hào học kinh nghiệm dân gian làm công thức quy trình chế biến khoa học cho sản xuất đại trà trong nhà máy.

     

    Tôi lại được lệnh theo đoàn vừa phụ việc, vừa tập sự để sau này về tổ chức sản xuất cho tỉnh nhà.

     

    Vậy là tôi phải chia tay với bác Bỉnh lên Mỹ Hào công tác - Nghiên cứu khoa học không có ngày Chúa nhật, phải theo đuổi liên tục đến cuối cùng công đoạn sản xuất - Hàng tháng mới được nghỉ gộp một lần - Anh chị em trên Viện có gia đình về Hà Nội, còn tôi đơn thân, đi đâu hơn về Thiện Phiến thăm lại ông bạn già kết nghĩa? Không phải nhớ thịt đùm hoa sen, càng không phải vì giữ lễ đã có thời gian tá túc nhà ông - Giọt nước mắt lăn dài trên má ông khi ông bắt tay tôi từ giã đã làm mềm lòng tôi. Tim tôi xao xuyến khi nhận biết ông thật lòng thương tôi, thông cảm tôi cũng lận đận như ông đã từng lận đận, tôi cũng cô đơn như ông cô đơn, tôi cũng vấp ngã trên tình trường cũng như ông từng thảm bại.

     

    Thuở tôi còn đi học, cha tôi có dặn, muốn nên người hiểu biết, mỗi khi nghe ai nói gì, giảng giải việc gì, cả khi đọc báo văn chương con luôn phải:

     

    Tám phần làm ngốc, hai phần làm khôn

     

    Ngốc bởi vì điều người ta nói, người ta viết in ra con chưa từng biết, chưa từng học, chưa từng nghe.

     

    Khôn bởi vì nội dung nói viết của người ta có thể sai vì chủ quan hoặc có dụng ý không tốt, thậm chí muốn lừa gạt và lôi kéo.

     

    Bởi vậy trên trường đời không nên nghe và đọc như một người ngoan đạo mà phải biết suy xét trước khi biến thành nhận thức - kéo lại cho mình chút đỉnh cái khôn.

     

    Nhưng kể từ khi phát hiện giọt nước mắt của người bạn nghèo nơi tha phương tôi biết bác Bỉnh rất thật lòng với tôi, kẻ cùng cảnh ngộ - vậy làm khôn để làm gì mỗi khi tôi với ông luận bàn thế sự.

     

    Từ trên Bần, Yên Nhân về, đồng lương công nhân phụ động khởi điểm là 35 đồng, đóng hết 18 đồng tiền ăn, mua xà phòng, mua phấn đánh răng, tiêu vặt, xôi sáng... tôi còn được ít tiền chỉ đủ ghé ngã ba Phố Nối, mua hai đĩa chè xôi gói lá chuối treo ghi đông gọi là có chút quà mang về biếu bạn.

     

    Đến nơi, trời đã tắt - Đứng ngoài bờ dậu nhìn vào nhà không đèn đuốc tối om - Có lẽ gia chủ đang nằm ổ rơm gác tay lên trán rung đùi vì có tiếng ư ử ngâm:

     

    Lấy em anh biết ăn gì?

     

    Bóc sắn sắn đắng, hái si si già

     

    Anh về bán Phật Di Đà

     

    Bán chùa Thạch Thất, bán luôn Ba Vì

     

    - Sao không đèn đóm gì thế này?

     

    - Hết dầu rồi, bữa nay 10 giờ có trăng lên.

     

    Chúng tôi nằm sóng đôi ăn chè xôi tán gẫu.

     

    Trường đời có những vấn đề sáng ra trong đêm tối.

     

    - Sao? Công việc mới có gì lý thú không? - Bác hỏi tôi bằng chất giọng đầy mồm xôi.

     

    - Chẳng những lý thú mà còn lạ và hay - Mỗi nghề của cha ông để lại không phải tự dưng mà nổi tiếng.

     

    - Anh nói làm cho tôi phổng mũi vì mình là dân Hưng Yên rồi đó.

     

    Tôi kể cho bác về những gì lần đầu tiên được trông thấy - Nào người ta đặt cái chảo nghiêng để rang đỗ, dùng một cái trang bằng gỗ đẩy hạt đỗ từ dưới thấy lên cao cho hạt đỗ tự lăn xuống cho đến khi hạt đỗ chín, xoa trên đầu tay vỡ đôi ra vàng đều từ trong ra ngoài mà vỏ vẫn không cháy khét - Nào lần đầu tiên tôi được trông thấy những nong mốc tương tuyền một màu hoa cau màu sắc đẹp như nhung - mà bí quyết là người ta biết dùng bào tử mốc giống gieo lên nong xôi như người nông dân gieo mạ, mạ lên xanh mà cỏ dại không kịp lấn lướt - người ta lại biết đem mốc ra vò tải lại khi mốc phát triển mạnh phát nhiệt làm hơi nước bốc lên ngưng tụ trên lá khoai làm hạt xôi bị ướt tạo môi trường thích hợp cho mốc lạ phát triển - Cho hay, từ xa xưa lắm tổ tiên ta biết ủ dưa, ủ rượu, ủ tương, ủ nấm là đã truyền lại cho con cháu ngày nay môn sinh học.

     

    Hay hơn lại còn có văn hóa nghề nghiệp: Với câu ví của làng nghề:

     

    Ông thối mà gặp bà thiu

     

    Rước muối Đông Triều về chữa

     

    Ông hết thiu, bà hết thối

     

    Thối tức là đỗ tương rang sấy ngâm nước ba hôm dậy mùi, gán cho chức danh là "ông", nam giới tượng trưng cho người chồng - gặp "thiu" tức là xôi nếp đã lên mốc, chức danh là "bà", phái nữ tượng trưng cho người vợ, cả hai đều hư hỏng, đàn ông cũng như đàn bà - thực chất giá trị là nếp là đỗ đều quý cả, nhưng bị cuộc đời nhào nặn nên hư - để xáp lại với nhau biến thành món ăn (tương Bần) rất khái khẩu nhờ có muối Đông Triều.

     

    Chồng thối, vợ thiu, tượng trưng ấy biết rồi vậy muối Đông Triều tượng trưng cho cái gì? Tôi đem ý ấy hỏi ông bạn tật nguyền - Bác không đắn đo:

     

    - Khó gì phải hỏi? Muối tức là đạo nghĩa - Huynh chẳng đã nghe người ta nói "Đạo nghĩa vợ chồng" đó sao?

     

    Nhưng phải chú ý điều này! Đạo nghĩa chỉ cao thâm khi nó ngấm vào những cuộc đời đã bầm dập, còn đối với người tạm gọi là tốt, chưa từng trải nó cũng như muối chấm đỗ chấm nếp còn tươi nguyên, chẳng có gì ngon đâu.

     

    Tôi vỗ lên vai bác thầm nghĩ: "Hưng Yên đất của văn vật ngàn năm, con người của đất ngàn năm như bác quả là thâm thúy".

     

    Giữa lúc ấy, có tiếng chó hùa trước ngõ nhà bên, chen lẫn tiếng con gái gọi cứu Bố ơi! Bố hỡi! Dưới ánh đèn bão, một thân hình mảnh mai nép vào bờ dậu - Tôi thay anh ra xua chó - đưa con gái anh vào nhà. Chiều thứ bảy, cửa hàng hợp tác xã mua bán đóng cửa, phải chờ đến đêm, người bán hàng về nhà trở lại trực cửa hàng, cháu mới mua được dầu hôi đem lên cho cha thắp đèn.

     

    ánh sáng ấm áp soi tỏ ngôi nhà.

     

    Thân hình cháu gái thon thả, có dáng ngồi chắp hai bàn tay buông xuống một bên, nghiêng vai về một phía, uốn người như một cung đàn.

     

    Cháu về rồi, tôi nghe bạn buông tiếng thở dài.

     

    - Huynh có biết cháu nó giống ai không?

     

    Nghe như câu hỏi của một kẻ ghen tuông.

     

    - Tôi làm sao biết được.

     

    - Cháu là con của tôi do vợ tôi sinh ra. Nhưng trớ trêu lắm, sao càng lớn cháu càng giống người yêu đầu đời của tôi như khuôn đúc - Sáu tuổi, là tôi đã nhận ra điều này, càng ngày càng phát sợ cho chính mình.

     

    Tôi có người yêu đầu đời từ năm mười tám.

     

    Tôi ví mình với nàng như là bướm với hoa.

     

    Một khi đã yêu nhau thì cả hai đều như hoa tất cả, nhưng trớ trêu thay, thân phận lại khác nhau, hoa bén rễ sâu xuống lòng đất nơi xóm nhỏ quê hương. Còn bướm lại mặc cho gió cuốn nhởn nhơ, trên đường phiêu lãng lại gặp gỡ bao nhiêu loài hoa khác - Đáp xuống, đáp xuống, lại bay đi.

     

    Bão táp nổi lên từ trong gia đình, cổ tục cha mẹ đặt đâu ngồi đó tôi đâu dám cãi, đau khổ vì tình chia đôi ngả. Rồi phải dạm hỏi cưới xin, yên bề gia thất, sinh ra con bé này.

     

    Nhưng nào có được yên, cho dù sự thật như tôi nói với anh, vợ tôi là cô thôn nữ tốt, vun vén cho gia đình, thương yêu tôi chăm sóc như nuôi con chim cu cườm trong lồng tía. Ôi! Con bướm lượn lờ như tôi, làm sao xua đi được hương thơm của loài hoa cũ.

     

    Trong giấc mơ, trong khi buông cưa buông đục nghỉ xả hơi, rít thuốc sau khi hoàn thành lỗ mộng thắt, hình ảnh người xưa cứ tái hiện trong tâm - Đáng sợ hơn nữa là người xưa lại tái hiện ngay cả lúc ôm vợ nhà trong vòng tay, ảo ảnh thậm chí thốt thành lời, tôi gọi nhầm tên người xưa ngay cả lúc cơ thể run lên đỉnh điểm lúc ấy.

     

    Vợ tôi vốn dịu hiền nên cũng cho qua đến khi con cháu lên 5 tuổi.

     

    Huynh có tin minh chứng truyền miệng dân gian về giới nữ trong các vùng xứ đạo không - Con gái ở xứ đạo đa số là đẹp với vẻ thánh thiện.

     

    Luận rằng do ngày ngày, các bà mẹ cầu kinh ngắm nhìn chân dung Đức Mẹ đồng trinh vô cùng xinh đẹp, ấn tượng kiều diễm ấy ăn sâu vào trong tâm khảm nên bé gái sinh ra là mẫu của thánh nữ. Nhờ vậy con gái xứ đạo rất nên xinh đẹp.

     

    Cho rằng truyền thuyết ấy là có thực đi, nhưng đó là ảnh hưởng trực tiếp của người phái nữ trong tranh đến bào thai khi qua người mẹ cùng là nữ trong cuộc đời.

     

    Chưa hề nghe sách nào nói người cha là nam giới qua đồng sàng dị mộng mà gieo vào người cùng chăn gối hình ảnh của người đàn bà khác trong mộng, vào đứa con do vợ mình sinh ra.

     

    Nhưng từ khi cháu lên 5 tuổi, coi như tôi đã tin, không chối vào đâu được.

     

    Một hôm, đang cưa mẩu gỗ, tôi nghe tiếng trẻ kêu cứu vì lũ chó nhà bên chắn ngõ, tôi chống gậy, nhìn thấy cháu sợ hãi rút vào bờ rào bỗng nhiên tôi phát hiện những đường nét sao chép hình ảnh của người yêu trước kia của tôi, con mắt lá dăm, chân mày lá liễu, chống đòn gánh một bên lại nghiêng mặt về một phía.

     

    Tôi ôm cháu lên để lại nhìn ngắm, quả thật không sai - Rồi thời gian, cháu càng lớn càng không thể chối cãi vào đâu được nữa. Nếu là nam giới, vợ tôi không thể tránh bị tai tiếng ngoại tình vì sinh con giống người khác.

     

    Lại còn sợi dây thiêng liêng tình cảm khó hiểu hơn nữa - Cô ấy (tức người yêu đầu đời) lại mến con cháu như mẹ con - Còn cháu cũng quấn quýt với cô ấy, đi học về hôm nào cũng ghé.

     

    Ngày mai, có xe đạp huynh đèo tôi đi Tiên Lữ, gặp được bà ấy tận mặt, huynh sẽ rõ.

     

    Chúng tôi đến vào lúc bà chị đang đưa đẩy xoay tròn chiếc mui gỗ lên mặt vải tráng bánh đa. Sau khi đậy vung chờ bánh chín, cử chỉ thư nhàn sau phút giây làm việc, hai bàn tay chắp lại buông xuống một bên, vai nghiêng một bên, người uốn lượn như cung đàn sao chép nguyên mẫu dáng ngồi của bé gái đêm qua - Mái tóc đen huyền, nước da mịn màng như trứng gà bóc, thời gian vẫn còn lưu lại vẻ thanh tú một thời đã làm mê mẩn tâm hồn ông thợ mộc.

     

    - Gạo xay bột có người giã rồi, Lý Xích Hoài đến có việc gì đây? (Theo tích xưa Lý Xích Hoài cầm chày giã gạo).

     

    Chị hướng sang phía khách là tôi xởi lởi:

     

    - Cũng may hồi đó ông ấy ruồng bỏ tôi, nếu không tôi đã phải nợ ông chồng què đó bác!

     

    Kẻ vấp ngã trên tình trường giữ nạng bằng nách để áp bàn tay lên ngực: "Bà hãy đay nghiến trách mắng tôi đi! Tôi nghe tất! Nhưng cái chân què này đâu khổ bằng cái hương xưa đầu đời của cô gánh gạo nó cứ lưu lại mãi ở chỗ này này!".

     

    Ông thợ mộc lảng sang chuyện khác:

     

    - Nghe nói bánh đa ngon, ông bạn này muốn mua mười chiếc.

     

    Bà buộc bánh, thêm hai chiếc: "Phần này tôi gửi cho cháu gái tôi".

     

    Bà lại mở vung - Hơi nước bốc lên lan tỏa một màn sương, không gian như ấm lại.

     

    Bác thợ mộc chống nạng đi trước, tôi đẩy xe đi sau, trở lại con đường tiên đi (Tiên Lữ) lòng bâng khuâng - Số phận con người? Lý giải làm sao đây những hiện tượng lạ.

     

    Lão Bỉnh tự thán:

     

    - Ba phần tư thế kỷ, một đời người, mỗi năm trôi qua phát hiện thêm một sai lầm mới trong nhận thức làm người - Để sống trên đời chả dám gây hấn với bất cứ ai, yêu toàn nhân loại, kiêng cử không dám đấm đá, đâm chém, tham lam bất cứ ai, kiếp bướm mà! Gió đưa thành kẻ lãng du, gặp bất cứ hoa nào cũng đáp thụ phấn cho cây trồng rồi lại bay đi không hề trở lại, biết ai là cốt nhục trong cái xã hội rộng lớn để phân biệt, khỏi choảng nhằm cốt nhục.

     

    - Cuộc đời rồi sẽ qua đi, cái bóng mình trên vách cũng mang đi nốt, làm sao lưu dấu được, xét lại thằng tôi cái tâm thì muốn lên Niết Bàn, cái tính lại đặt trên hai bàn chân lãng tử, không xuống tóc ở chùa được vì chẳng có căn tu.

     

    - Thôi mình lại xuống bếp đi huynh.

     

    Những hòn đất có nhân lại được cời ra lăn vào bếp phủ tro than, than ấy lại nướng bánh đa của người xưa tặng cho ban sáng - có câu ví vịnh chiếc bánh đa:

     

    Khách đa tình - bánh cũng đa tình

     

    Hay bênh vực cho một phía:

     

    Chẳng đa tình sao gọi bánh đa?

     

    Rượu nồng, thịt béo, bánh giòn. Hai chúng tôi lăn ra ngủ, nằm luôn ngay trên mặt đất tổ tiên để lại, đánh một giấc ngon lành.


  9. Chuyện nàng Mimô

    Truyện ngắn của Trần Kim Trắc

     

     

    Tôi tháp tùng theo đoàn nhà văn, nhà báo đến thăm trại cải tạo để tìm đề tài sáng tác. May mắn lại được gặp anh Năm Ngôn là bạn kháng chiến ngày xưa, nay phụ trách giám thị ở đây nên được tiếp xúc chung và riêng đối với phạm nhân rất dễ dàng.

     

    Anh Năm đưa chúng tôi đến từng trại, đầu tiên là một trại nữ phạm - đa số là chị em bán phấn buôn hương khi còn ở ngoài đời.

     

    Theo nề nếp, khi được báo trước có khách đến thăm chị em đứng dậy chào, nghiêm chỉnh như một lớp học. Đột nhiên, tất cả kêu thét lên, người cúi mặt xuống, người ngoảnh đi che tay, còn bao nhiêu dồn vào một góc, túm tụm vào lưng nhau khi một anh phóng viên nâng máy ảnh quay phim chỉa ống kính vào họ.

     

    Duy chỉ có một cô - tuổi trên dưới ba mươi, suối tóc mềm, ánh mắt lung linh, nếu ở ngoài đời có chút lụa là son phấn khối kẻ phải điêu đứng - bình thản nhìn vào ống kính mỉm cười pha chút mỉa mai. Không vội vàng đánh giá cô là hạng lõi đời nhưng tôi có cảm giác cô này sống nội tâm đây.

     

    Sau nửa tiếng giao lưu, mọi người bước ra, tôi chậm lại. Khi đi qua gần một cô trẻ tuổi xinh đẹp, tôi ghé tai nói khẽ:

     

    - Sao cháu không đi thi hoa hậu?

     

    - Cái bác này! Cháu xấu như ma ấy!

     

    Nói xong cô đi vào một góc ngồi xuống có vẻ thẫn thờ. Tôi lại ái ngại tự trách đã để lời khen không phải lúc.

     

    Khi các chị em ra ngoài phân phối cuốc xẻng, quang gánh để đi làm, tôi lân la đến gần cô gái không che mặt khi nãy:

     

    - Có thể làm quen được không (mỉm cười đáp lại), tên của cô?

     

    - Dạ cháu tên Tươi, Nguyễn Thị Tươi! Đó là tên cúng cơm. Trong "giới" quen gọi là Mimô.

     

    -Sao lại thiếu một âm (xa)?

     

    - Lỡ chừng xuân mà bác!

     

    - Tôi tò mò một câu được không: lúc quay phim tôi thấy cô rất thản nhiên?

     

    - Nghĩa là tại sao không che mặt như chị em phải không? Vì mỗi con người trong họ ít ra cũng còn chút nhân phẩm...

     

    Tôi nói trống không: "Vậy là tôi tìm đúng địa chỉ rồi...".

     

    - Cuộc đời cô ít ra cũng bằng một quyển tiểu thuyết.

     

    - Vậy ra bác là nhà văn.

     

    - Sao cô biết?

     

    -Vì con mắt bác đa tình lắm... Xin lỗi bác đừng hiểu theo nghĩa vớ vẩn - năm ngón tay cô bơi trong không khí - mà theo nghĩa có nhiều tình cảm như thương hết mọi người, chẳng hạn!

     

    - Cô học đến lớp mấy?

     

    - Dạ đại học năm thứ hai dở dang... Chữ nghĩa trả thầy hết rồi bác ạ!

     

    Chiều hôm ấy đội bóng của trại thi đấu với đội bóng lâm nghiệp, đá chân đất nhưng mặc áo mayô màu có in số cầu thủ, đến đêm lại tổ chức liên hoan văn nghệ cây nhà lá vườn. Hội trường trang hoàng rực rỡ, điện máy nổ phát sáng trưng, sân khấu của hội trường trên thành phố chưa hẳn là hơn. Tôi chọn chỗ ngồi lẫn giữa chị em phạm nhân, tất nhiên là bên cạnh Mimô.

     

    Nhạc trỗi lên, một cô áo dài đứng cao bên trong lĩnh xướng, một đoàn diễn viên cầm quạt múa theo và liên tiếp thay phiên nhau các đội hình khác biểu tượng cho các giới trí thức, lao động ngoài đời, nam có, nữ có. Bao nhiêu y trang đẹp nhất xếp kỹ trong gói để chờ ngày được tự do đều đem ra diện, phấn son và cả nước hoa nữa.

     

    Anh phóng viên tha hồ bấm máy. Cũng chiếc máy quay phim ấy lúc ban sáng, cũng người cầm máy ấy, đối tượng ghi hình vẫn là những chị em ấy nhưng ai cũng nhoẻn miệng cười làm duyên trước ống kính, muốn phóng viên đến gần mình hơn, muốn ánh sáng rọi chiếu hình ảnh thật rõ dáng hình.

     

    Mimô hỏi tôi:

     

    - Bác biết rồi đó! Vì sao hồi sáng chị em che mặt giấu mình, bây giờ cũng người ấy, máy ấy chị em lại phô diễn rất vui vẻ hồn nhiên.

     

    - Vì sao?

     

    - Vì ông nhà báo và cái ống kính hồi sáng là tò mò, soi mói. Còn ống kính ấy, nhà báo ấy bây giờ lại tình cảm và ca ngợi...

     

    Tôi thầm nghĩ: "Cảm ơn cô gái! Cô cho tôi thêm một bài học nghề nghiệp quá ư sáng giá...".

     

    - Ngày mai cô có vui lòng tiếp chuyện với tôi được không, tất nhiên tôi sẽ xin phép giám thị, nhưng quan trọng nhất vẫn là khách mời có tin cậy và coi nhau bình đẳng, không ngăn cách bằng bức rào mặc cảm tự ti.

     

    - Vậy hả bác? Lâu nay cháu chưa được gặp đối tượng nào để rửa óc cho hả nên ngứa miệng lắm. Cháu đồng ý nhưng buổi sáng thôi. Buổi chiều cháu phải dạy văn hóa cho anh chị em phạm. Bác Năm Ngôn bảo ở tù một năm mà không học thêm một lớp văn hóa coi như uổng công cải tạo...

     

    Sáng sớm, tôi ra vườn rau nơi hiện trường lao động cải tạo, bảo vệ cho phép cô đến tiếp chuyện tôi dưới bóng cây râm mát.

     

    - Cô có hút thuốc không?

     

    - Còn gì bằng.

     

    Tôi moi túi xách lấy bao thuốc lá "ba số".

     

    - Bác hút "Sài Gòn", sao lại mời "ba số"?

     

    - Gu của tôi là "Sài Gòn", cái này dành cho khách.

     

    - Ông già điệu đàng quá!

     

    Tôi tỏ ra quan tâm:

     

    - Dịp lễ này cô chắc có trong diện được ân xá?

     

    - Sao bác đoán chắc thế?

     

    - Tôi luôn luôn ước ao chuyện tốt lành.

     

    - Xét về chấp hành nội quy, biểu hiện tốt, lao động tốt, không nói năng bừa bãi, không bè phái mất đoàn kết thì xứng đáng đặc xá... Nhưng thấy bác vui tính cháu chẳng giấu, về mặt tự giác thì có lẽ cần xét lại... Mà cháu thật lòng hỏi bác, đối với một người có lịch sử như cháu, trước mắt là một phạm nhân, ngoài đời là một gái bán thân, cảm nhận hay nói đúng hơn là sự đánh giá của bác thế nào?

     

    - Nếu cháu bảo bác tự đánh giá mình có lẽ bác có nhận xét đúng về mình, còn đánh giá người khác có lẽ người lớn tuổi chủ quan hơn cả. Người già mà là nhà văn càng dễ dại dột hơn bất cứ ai, vì họ để cái đầu sai khiến nhưng lại nhầm lẫn đó là trái tim. Trăm năm của một đời người đúng hay sai, tòa án là một điểm dừng chân để nhận sự phán xét, còn bước tiếp của cả cuộc đời tự thân mỗi con người chọn lấy hướng mà đi, đâu có ai dắt tay mình mãi được.

     

    - Nếu bác đã nghĩ vậy, cháu ngại gì mà không kể cho bác nghe.

     

    *

     

    * *

     

    Nhà cháu có ba chị em. Cháu là lớn, khi trưởng thành làm lý lịch để đi học mới hay cha cháu họ Phạm mà chúng cháu lại mang họ Nguyễn.

     

    Thắc mắc hỏi mẹ.

     

    Cha cháu mất sớm. Mẹ cháu một nách ba con như cây mất gốc. Mẹ cháu đành đi bước nữa với ông giáo làng. Ông nội cự tuyệt thẳng thừng, cho rằng thuyền theo lái gái theo chồng, chồng chết theo con, đi bước nữa là trái đạo. Mẹ cháu không vâng lời nên bị truất quyền thừa kế nhà chồng, ruộng chia lấy lại, nhà cửa dỡ đi. Mẹ cháu nách con về quê cũ. Ông ngoại cháu cả giận nên đoạn giao, ngày khai hộ tịch ông xóa họ nội, ghi thành họ ngoại nên tên cháu trong chứng minh là Nguyễn Thị Tươi. Nghe đâu trước khi nhắm mắt, ông nội cháu có nghĩ lại muốn giải oan để được thanh thản về bên kia thế giới, có trối lại dặn dò hằng năm người con út, là chú ruột của cháu, đã thừa kế phần ruộng đất của cha cháu, ngày tết phải có mâm quả làm quà cho ba mẹ con cháu đến hết đời.

     

    Từ lúc cháu bắt đầu hiểu, cứ sắp tất niên năm nào như năm nào, một chiếc xuồng cập bến, cháu thấy chú út bê lên một thúng nếp, trên xếp đầy cam sành. Mãi sau này mẹ cháu mất rồi, cháu lưu lạc lên thành phố có nhà cửa rồi, giáp tết chú út vẫn khệ nệ bê lên một thúng nếp đầy cam và hai con vịt.

     

    Người cha kế của cháu, nhà giáo nghèo nhưng chuộng chữ nghĩa học vấn. Nhờ ông mà ba chị em cháu đều học tới đại học. Tiếc rằng ông mất sớm nên mẹ cháu như mất một cánh tay. Nếu không có cái tang ấy, có thể cháu không rẽ vào bước ngoặt định mệnh đưa đẩy cuộc đời đến sự thể như ngày nay.

     

    Bảo là đổi họ nhưng làm sao thay được giống dòng. Kiến họ với nhau sao dứt được sợi dây ràng buộc. Nên họ hàng bên nội, bên ngoại, người lớn kèn cựa với nhau ra sao đi nữa, cháu con hậu duệ đâu thể coi nhau là người dưng. Ông nội cháu khó tính nên hai người cô của cháu đều quá lứa lỡ thì. Cô Năm cháu, gái già cô độc, lại giống tính ông cháu đạo đức quá độ nên rất thích dây vào chuyện của người khác. Đã thế còn suy phận mình nên nhìn đứa cháu gái nào bà vừa lo bom nổ chậm, vừa sợ chúng ế chồng, phải kiếm chỗ gả tống đi để nhà khác khỏi xí mất phần.

     

    Cháu học hết năm thứ hai đại học, về quê nghỉ hè là phải nghỉ luôn. Không còn ba kế cháu nâng đỡ tinh thần lại vì kinh tế thúc bách, bà cô lại làm áp lực theo quan niệm thiển cận của bà, tự dắt mối đến.

     

    Đám dạm hỏi như trên trời rơi xuống. Họ nhà trai đi một xe lam đầy, ba bà cô bắt cháu phải chải gỡ tươm tất, bưng nước ra để người ta xem mặt. Nhận thấy vẻ hợm mình hớn hở, đầu chải sáp thơm láng coóng của hắn cháu đã thấy không ưa. Tình yêu là ưng phải không bác? Vừa bụng thấy là ưng liền đâu có đợi xét nét này nọ. Không hiểu sao lúc ấy tự dưng cháu khôn thế! Cháu giở cái trò xét tiêu chuẩn ra để phá đám. Nào tại sao anh chọn tôi, nào điều kiện nào để có hạnh phúc...? Anh ta khoe học vấn, khoe chức danh, khoe tiền của, khoe đối xử bình đẳng... Cháu bất ngờ xỉa cho một câu hỏi: "Anh có tật xấu gì không? Nhược điểm của anh là gì?". Tất nhiên anh chàng cà lăm không đáp được. Bọn con trai có bao giờ xét tật xấu của mình phải không bác! Cháu phăng teo ngay cho một câu: "Anh chưa hiểu được mình làm sao hiểu được vợ, tôi khó tính lắm anh khiển không nổi đâu. Đi tìm đám khác đi!".

     

    Các cô giũa cho cháu một trận nên thân, bảo già kén là chết giá. Nhưng các bà không chịu thua, lại đưa đến một đám nữa. Lần này có kinh nghiệm, cháu hỏi ngay một câu: "Anh đã từng yêu ai chưa?...". Tất nhiên hắn ta nói dối rằng "còn trinh", cháu bồi cho anh ta cụt hứng ngay: "Sao anh hèn vậy? Hai mươi tám tuổi chưa hề yêu cô nào. Tôi con gái chưa quá hai mươi tuổi đã qua mấy đời bồ rồi!".

     

    Mấy bà cô tức điên lên được, còn cháu dư biết rằng khó sống nổi với nếp nghĩ của các bà, ngày hôm sau cháu xách gói vù luôn cho đến bây giờ.

     

    *

     

    * *

     

    - Tôi tiếc cho cháu quá - Nói xong câu này tôi biết ngay mình lỡ lời, hơn nữa tôi đã méo nghề, nhà văn phải lắng nghe đối tượng đến cùng, không nên sớm bộc lộ thái độ, ai dám nói hết sự thật sâu kín để mình khai thác. Tôi đổi hướng - Trước cháu học về môn gì?

     

    - Dạ khoa học xã hội. Cháu lại là con mọt sách. Nghề của chúng cháu, ngoài việc cho đàn ông mua vui còn có làm gì ngoài đọc sách. Không có chúng cháu, sách của các bác chắc phải in ấn ít hơn. Cháu nói vui bác đừng giận. Hồi còn đi học, thầy cô bảo học và hành. Nhưng nhờ có đi ở tù bây giờ cháu thấy thêm: còn nghiệm nữa! Học - nghiệm - hành mới đủ nghĩa. Bác cho cháu điếu thuốc nữa đi, cháu sẽ nói cho bác viết một quyển tiểu thuyết.

     

    - Cháu có chồng chưa?

     

    - Cháu có! Một cục cưng giỏi, hiền lành và rất bô trai (mỉm cười), đi với một trăm người đàn ông không bằng một đêm với anh ấy! Anh ấy có đặc điểm mà Võ Hậu ngày xưa ưa thích nên còn có biệt danh là Hai Nạng.

     

    - Xem ra cháu yêu chồng lắm?

     

    - Dưới mắt của thế giới đạo đức, bọn buôn phấn bán hương như cháu làm gì có tình yêu. Nhưng thật ra cũng có đấy bác. Cháu sống với anh này, tình bạn ngày càng được củng cố. Nghe ngược đời lắm phải không bác, nhưng mà đích thực có đấy. Anh ấy đến với cháu thường xuyên, đôi ba ngày, cao lắm là năm ngày, ăn bánh rồi trả tiền thôi. Với kẻ khác xong rồi là vất xuống lề đường, đi đâu thì đi, có khi không cần biết tên, không buồn nhớ mặt, nhưng với anh ấy thấy vắng lại mong, còn về phía ảnh hết tiền không dám tới thôi mà. Một dạo khi lâu không thấy anh ấy đến, tình cờ gặp ảnh trên đường tự dưng cháu thốt lên tự đáy lòng: "Sao anh không đến? Không có tiền cũng được, không sao đâu!".

     

    Sau lần ấy, chúng cháu đến với nhau như đôi bạn tình. Ba bốn năm sau cháu mua được nhà, anh ấy không có đóng góp xu nào đâu nhưng thật ra là tiền của ảnh, vì từ khi nghĩ đến vấn đề chung sống, cháu không bạt mạng buông thả tiêu xài mà bắt đầu biết dành dụm. Thiên hạ khởi đầu bằng tình yêu, kết thúc bằng sự ham muốn. Vợ chồng cháu khởi đầu bằng sự ham muốn, kết thúc bằng tình yêu... Sao bác lại thở dài? Bác muốn bố thí cho cháu tí xót thương ư? Không cần đâu bác, cháu rất hạnh phúc. ba mươi sáu cửa chừa một cửa để lấy chồng mà! Với cháu, cái cửa ấy đã có người bước vô rồi, tin cậy và bảo đảm, mặc dù bây giờ cháu đang ngồi tù. Xét cho cùng, bọn bán phấn buôn hương như cháu còn hơn khối kẻ dơ dáy khác, từ anh chánh văn phòng cất công xách xe đi Vũng Tàu thuê khách sạn cho sếp chơi gái để hưởng phần trăm hoa hồng bỏ túi, anh có cỡ hơn được món hối lộ, anh thương gia giỏi lừa được một cú phe, cho đến cả mấy anh nước ngoài mang đầy ngực cái mác kinh doanh đầu tư đều phải đem tiền nộp cho bọn cháu không cần sổ sách... Bác lại thở dài rồi, cho cháu điếu thuốc nữa đi! Trông bác giống ông ngồi ở tòa án quá. Ông ấy xử cháu mà ông ấy không vui. Cũng thở dài...

     

    - Vừa rồi cháu nói là học - nghiệm - hành, vậy có thể nói cho bác nghe cho đến bây giờ cháu nghiệm được gì?

     

    - Đàn ông họ bỏ tiền ra, người nào cũng đặc đầu óc đầu tư có lãi, xài cho đáng đồng tiền nên có kẻ muốn chiếm trọn thân xác, linh hồn mình để chà đạp, để hưởng thụ. Cầm được đồng tiền của họ sau đó là triền miên lo âu sợ hãi không biết có dính thai hay không, họ có đổ bệnh cho mình không? Tinh lực hao mòn, nhan sắc tàn phai nhanh chóng... Kẻ nào trong bọn cháu may mắn lập được gia đình rồi lại day dứt nhớ câu nói của người xưa: "Cưới đĩ làm vợ, không ai cưới vợ về làm đĩ", nhưng đâu dễ dàng kiếm nghề gì để làm ăn khi có một dĩ vãng chẳng ra gì!

     

    Kẻng đổ hết giờ nên phải đứng dậy, lấy cái nón lót ngồi đội lên đầu, cô tranh thủ nói thêm:

     

    - Bởi vậy làm sao nghiệm đúng được nếu không có xã hội ra tay vớt. Có gì bác hỏi thêm ông Năm Ngôn.

     

    Tôi nói với anh Năm Ngôn rằng tiếc cho cô gái có hiểu biết, không biết rồi đây trở lại ngoài đời làm sao thoát được cái thiên la địa võng của đồng tiền cám dỗ.

     

    - Anh đừng lo, nhiệm vụ của chúng tôi không chỉ là trừng phạt mà đưa họ trở về vị trí làm người lương thiện. Trưa nay anh đi với tôi!

     

    Anh Năm Ngôn đưa tôi xuống một chiếc xuồng gắn máy phóng toé nước trắng xoá. Gió của biển của rừng mát rượi. Nhọc mệt quên đi theo cảm giác như đang lao tới tương lai. Xuồng rẽ vào một con kênh mới đào thẳng tắp. Trên bờ đất là nhà cửa mới mọc lên khoảng cách đều nhau, cột tràm mái lá đơn sơ thôi nhưng có trẻ em nô đùa, trên sân có gà, có heo, có máy công nông cày đất, nhà nào cũng có ăngten trời.

     

    Anh Năm Ngôn đưa tay ra hiệu cho máy chạy chậm lại để nói:

     

    - Anh đừng tưởng ở đây chúng tôi chỉ có phạm nhân, phía bên trái này là công nhân tự do của chúng tôi. Anh chị em nào hết án, ra trại nếu lưu luyến với mảnh đất này, muốn ở đây làm lại cuộc đời lương thiện, tôi cấp đất cho làm nhà, sản xuất tự túc rồi làm giàu. Có những gia đình muốn được ở gần thân nhân phạm trọng án, kéo lên xin lập nghiệp tôi cũng xin Nhà nước cấp đất. Nhà này của Bảy Rỗ, anh chị khét tiếng Cây Da Xà. Nhà này là tay anh chị trấn lột xe khách trên đường 4. Nhà này chủ hụi vỡ nợ bạc tỉ. Nhà này là tay kế toán xí nghiệp ghen tuông giết vợ. Thằng này hiếp dâm... Hàng trăm nhà như thế, mỗi nhà tám mươi thước đất mặt tiền, còn sâu vào trong sức tới đâu làm tới đó, đất rừng thiếu cha gì! Còn phía bên phải này công sở và nhà máy sẽ mọc dài dài đến lập làng - Anh cười hề hề - Để rồi anh xem! Nghe nói Nữu Ước hồi xưa cũng khởi thủy từ những kẻ lưu đày mà! Đó, cái cụm mới xây này là trường học cho trẻ.

     

    Ông Năm Ngôn ra hiệu cho xuồng cập bến một ngôi nhà. Nhìn lên vách thấy treo một bức ảnh phóng to, một cháu gái cỡ năm, sáu tuổi đang ngồi nhai khoai mì nướng xem tivi.

     

    - Ba đâu?

     

    - Dạ ba ngoài ruộng.

     

    Chúng tôi theo chân cháu ra đường đi dọc theo hàng dừa tơ vừa xây tán. Có những liếp dây bí bò xanh um, những quả bí đỏ phơi mình đây đó đếm không xuể, xa nữa là những giàn bắt chéo thẳng tắp trồng khoai mỡ. Phần đất gần nhà lập vườn, đào ao nuôi cá, bên ngoài nữa là ruộng có cắm mốc nhưng không có đắp bờ ranh để cơ giới làm đất cày bừa chung. Ruộng ai nấy cấy, thu hoạch lấy, thanh toán tiền thuê máy móc xăng dầu bằng lúa khi cuối vụ.

     

    Đang vớt đất lên liếp, trông thấy chúng tôi anh chàng trung niên buông xẻng khoát nước rửa tay vội vã bước lên mừng rỡ.

     

    - Đây là chồng của cô Mimô, còn đây là vị khách tham quan - Ông Năm Ngôn giới thiệu. Tôi đưa tay, anh ngần ngại vì tay còn ướt nhưng rồi cũng bắt tay thật chặt. Tôi khen:

     

    - Khá lắm! Dân Sài Gòn về quê làm ăn coi được lắm.

     

    - Cũng vì tình thôi bác à! Cô ấy đang ở trong trại, cháu ở trên Sài Gòn làm sao yên. Cháu xuống đây là để chia sẻ với cô ấy.

     

    - Vậy anh bạn tính ở đời luôn nơi đây sao làm dữ vậy, như anh dân cày chính cống?

     

    - Quen đi bác ơi! Được hạt lúa củ khoai rồi cũng thấy ham đất lắm. Không có tình với đất lấy gì để có tình với người phải không bác.

     

    - Nhưng sau này khi mãn hạn, cô ấy có bằng lòng ở đây với anh không?

     

    - Hoàn toàn là ý kiến của vợ cháu, có bác Năm đây cố vấn. Sau lần thăm nuôi ấy cháu lập tức về bán nhà, có số vốn kha khá lên đây lập nghiệp. Lần sau bác về đây có nhà máy gạch của trại rồi, cả xóm này sẽ lên nhà ngói để rước bác. Nếu 2-9 năm nay cô ấy được ân xá, nhờ ơn bác Năm cô ấy sẽ là cô giáo dạy ở bên trường mới xây bên kia bờ. Còn cháu làm vườn, làm ruộng, chăn nuôi. Vợ chồng hủ hỉ với nhau nuôi con, cực một chút mà có tương lai, khỏi nơm nớp lo âu như trước. Còn chút nhân phẩm cần có đất mới để gieo trồng.

     

    Tôi trở về trại, kể lại lời nói của chồng cho vợ nghe. Cô Tươi còn cắp quyển vở giáo viên trong lớp học trại viên ra, ngẩng mặt nhìn lên bầu trời bao la của vùng sông nước, chép miệng:

     

    - Gần một nghìn ngày đêm suy ngẫm rồi không vỡ lẽ sao được hả bác. Hoàn lương khó lắm bác ơi! Nếu trở lại chốn phồn hoa nơi đồng tiền ngự trị làm sao tránh khỏi cám dỗ để đi theo vết cũ. Chẳng hóa ra ba năm cải tạo thành công cốc ư? Trở lại kiếp người đâu phải dễ.

     

    - Vậy tôi mừng cho cách nghiệm của cô.

     

    - Bác nên cám ơn bác Năm đây hơn. Chính bác ấy mới là người đưa tay dắt chúng cháu trở lại kiếp làm người, có ai làm nổi hở bác!


  10. Trăng đẹp mình trăng

    Truyện ngắn của Trần Kim Trắc

     

    Sống là để yêu và được yêu.

    Tạo hóa ban phát ân huệ ấy cho mọi người đâu phân biệt đối xử hoặc hẹp hòi với bất kỳ ai.

     

    Chân lý thật đơn giản, ai cũng biết. Thị Nở kia còn có được phút giây âu yếm nhất với anh Chí Phèo ngoài lò gạch để lại cho đời "nụ cười Thị Nở". Những người chủ trương diệt dục đi nữa đọc đến đoạn này cũng phải gật gù thừa nhận chân lý hiện thực của cụ Nam Cao.

     

    Chúng tôi 12 người cùng phòng trong ký túc xá đại học. Mười một người đã có ý trung nhân hẹn nhau đến ngày ra trường có sự nghiệp sẽ thu xếp cuộc đời. Ai cũng lo lắng đến thương hại bạn Thuận, người duy nhất chưa được lọt mắt xanh của bạn trai. Học giỏi, đức hạnh, cần mẫn siêng năng vượt trội hơn nhiều người, duy nhan sắc không mấy rực rỡ. Ngày Chúa nhật, từng đôi đưa nhau đi dạo phố hoặc về thăm nhà. Đi chán lại về quấn quýt lấy nhau bày ăn uống chan húp sì sụp nhìn nhau để cười hoặc thượng lên giường lầu ngồi không khoảng cách, tựa lưng vào tường tâm sự... Riêng bạn tôi, thui thủi một mình làm bạn với trang sách, hay tâm sự với cặp que đan.

     

    Sau tốt nghiệp, đến ngày chia tay, các con chim non sẽ từ mái trường tung cánh ra bốn phương, khi ôm chầm lấy nhau giã biệt, tôi vẫn thấy nhoi nhói trong tim lo nghĩ đến hạnh phúc mai sau của bạn. Tôi thầm trách tạo hóa hẹp hòi chi để không ban phát cho bạn tôi chút nhan sắc.

     

    Đâu có ngờ, trong khi mười một đứa chúng tôi còn chạy đáo chạy đôn đi tìm việc, cô bé lọ lem lại chọn được hoàng tử sớm nhất. Hai người mang thiệp mời đến nhà tôi. Lúc nào cũng mỉm cười với hạnh phúc, đẹp trai, cao lớn, con đại bàng hùng vĩ lại say tiếng hót thủ thỉ của con chim nhỏ, sẵn sàng dang đôi cánh rộng che chở cho người mình chọn để yêu, để in tên sóng đôi bằng chữ vàng lên lá thiếp.

     

    Nghe chào hỏi, ngoại tôi ngưng bút, nâng gọng kính ngắm nhìn đôi uyên ương: "Ông cũng được thiệp hồng nữa à! Ông sẽ đến dự, mừng cho hai cháu".

     

    Ông đứng lên chậm rãi bước ra vườn nhà, hồi lâu ông trở vào với bông hoa hồng thắm nhất tặng cô dâu chú rể tương lai.

     

    Thuận ngỏ ý mời tôi làm phù dâu. Khi bạn được hạnh phúc, sao tôi chẳng sẵn lòng. Tôi sẽ chọn bộ xoa-rê màu, khăn voan màu, sẽ đeo đôi hoa tai ngày cưới trước kia của mẹ, tôi sẽ để một buổi đi làm đầu, sẽ nhờ bàn tay nghệ sĩ chuyên nghiệp của các nhà trang điểm đánh phấn thoa son để góp phần rực rỡ cho ngày vui của bạn.

     

    Bộ xoa-rê phù dâu chưa được trắng tuyết như màu áo cô dâu cũng là dịp cho mình được tập sự cho ngày ấy của riêng tôi sau này.

     

    Ông tôi lại đặt bút xuống, ra hiệu cho tôi vào trong.

     

    - Nghe ông đi! Con không nên nhận lời làm phù dâu. Lý do ông sẽ nói sau!

     

    Tôi không dám cãi lời nhưng thật lòng mất hứng nhiều lắm. Ông tôi vỗ đầu cho tôi an tâm rồi bước ra bảo:

     

    - Đến hôm làm lễ, ông sẽ tặng hai cháu tất cả những bông hoa đẹp nhất trong vườn nhà ông để trang trí. Các chị em của cháu ngoại ông sẽ đến trước lo khánh tiết và tiếp tân.

     

    Riêng việc cháu Dung làm phù dâu hai cháu nên chọn chị em khác, vì cháu ngoại của ông yếu tim (lần đầu tiên tôi nghe ông nói dối) e đang vui, có làm sao, sẽ ảnh hưởng đến ngày trọng đại...

     

    Tiễn bạn ra cổng, tôi trở vào nhà tất nhiên với vẻ mặt không vui.

     

    - Cháu ngồi xuống, giận ông rồi phải không? Ông chỉ muốn tránh cho cháu một việc làm ác.

     

    - Làm phù dâu, sao lại là ác hở ông?

     

    - Vì cháu của ông xinh đẹp quá. Cái đẹp đặt không đúng chỗ sẽ phản tác dụng. Cô phù dâu đẹp hơn cô dâu, chú rể và mọi người sẽ nhìn ngắm ai đây.

     

    - Eo ơi!

     

    - Cháu có đi xem cải lương không? Có những khi khán giả thích ngắm cô tỳ nữ hơn ngắm nàng Nguyệt Nga vai chính. Trên sàn diễn thì miền cưỡng châm chước được, nhưng ở ngoài đời nhất là vào ngày trăm năm chỉ có một lần mà vô ý theo ông phải bắt đạo diễn cúi đánh bằng roi cá đuối. Trong ngày cưới phải đặt cô dâu vào vị trí đặc biệt, không được lẫn lộn vào cái chung làm phân tán cái nhìn của quan khách...

     

    - Ông cười gì vậy?

     

    Ông nhớ lại ngày xưa, thuở ông đi coi mắt bà con. Bà ngoại con chị em đông lắm, cô nào cũng đẹp cho nên con trai bên ông đi theo rất đông để được dịp nhìn ngắm. Nhưng nhà gái trừ hai ông bà cố cháu và vài bậc trưởng thượng tuyệt nhiên không cô gái nào được xuất hiện trong phòng khách, tất cả phải giấu mình dưới bếp. Chờ đến khi chủ khách đã an tọa, chỉ duy nhất có bà ngoại cháu xuất hiện, khay trà nước trên tay cúi đầu chào cho người ta coi mắt. Ôi sao lúc ấy bà cháu đẹp lạ lùng đến vậy. Cảnh vật như sáng rỡ ra với sự xuất hiện của thần tượng ông nhìn một lần nhớ mãi đến trăm năm...

     

    - Thời của ông cũng hiện đại dữ dội...

     

    - Chứ sao?

     

    Trăng đẹp vì chỉ có mỗi mình trăng.

     

    - Ông cũng lãng mạn dữ dội...

     

    - Chứ sao? Cháu không nghe câu hát Việt Nam:

     

    Cây trúc xinh tang tình là cây trúc mọc... bờ ao

     

    Chị Hai xinh tang tình là chị Hai đứng một mình tôi thấy xinh càng xinh.

     

    Quan điểm thẩm mỹ của dân tộc ngàn năm nay là vậy. "Đứng một mình mới xinh càng xinh".

     

    Ngày hội làng là ngày hội chung của trăm hoa, đó là cái toàn thể (ensemble) của cả cộng đồng, ai muốn diện ngất trời đến đâu cũng được, nhưng ngày cưới ngày phải suy tôn cô dâu. Hàng trăm ánh mắt chỉ hướng về cô dâu để ngắm nhìn và ngưỡng mộ, nhớ mãi về lâu. Tranh cạnh vào vị trí để mọi người và cả chú rể nữa phải sao lãng là làm việc bất nhân.

     

    Thế giới quan này của người Nhật cũng tương đồng với Việt Nam ta vì cũng nguồn gốc á Đông với nhau cả.

     

    Có một nhà nông người Nhật trồng được loài hoa cúc đại đóa quý hiếm, nổi tiếng gần xa, rực rỡ tuyệt vời. Tiếng đồn đến tận hoàng cung, thấu tai Nhật Hoàng. Nhà vua có nhã ý đến tận nơi ngự lãm. Trước khi ngài ngự đến, người nông dân ra vườn cắt bỏ hết tất cả vườn hoa cúc hằng yêu mến của mình, chỉ để lại duy nhất mỗi một cành, một bông hoa tuyệt vời nhất hầu thỏa lòng ngưỡng mộ của đức vua.

     

    Người nước ngoài có thể không thấu hiểu rõ ràng ý nghĩa của giai thoại này, nhưng đối với người Nhật chân lý ấy rất đơn giản. Khi luyện thói quen tập trung quan sát, con người có thể cải thiện cuộc sống thường nhật sâu sắc hơn và phong phú hơn. Loại bỏ cả vườn hoa, để lại duy nhất một bông hoa toàn bích để nhà vua không bị phân tâm để mắt vào các bông hoa kém sắc khác, tạo cơ hội để nhà vua mở mắt nhìn thấu đáo vẻ đẹp của loại hoa cúc đến tuyệt đỉnh thẩm mỹ từng chi tiết sắc màu.

     

    Lóa mắt trước cái chung, thiếu tỷ mỷ khi ngắm nhìn làm sao chắt lọc tinh hoa cho được. Đó là sự mất mát muôn thuở của kẻ có quá nhiều mà hời hợt.

     

    *

     

    * *

     

    Tôi đem câu chuyện hụt làm dâu phụ và những ý tưởng của ông ngoại kể lại cho má tôi nghe.

     

    Quan hệ chung sống của ba má tôi rất đặc biệt. Má tôi là mẫu người thích sống tưng bừng. Trong gia đình hình như ba tôi bị má tước mất cái lộc nói. Trái lại ba tôi gỡ hòa bằng cách tước mất của má tôi cái lộc cười. Má tôi nói gì, vui buồn, trách móc, than thở, thậm chí nhiếc mắng nữa, ba tôi chỉ tủm tỉm cười. Thanh âm ngôn từ phát ra từ trong chất giọng của má tôi có ma lực nào mà ba tôi luôn tỏ ra thích thú như nghe ca vậy. Phải chăng đó là bí quyết gia đình tôi trường tồn đến lũ nhóc chúng tôi lớn lên, ăn học thành tài và nên gia đình lại con đàn cháu đống.

     

    Má tôi nói:

     

    - Ông ngoại con vậy đó. Rất cổ nhưng cũng rất hiện đại. Chất thâm thúy khi xử thế của ông, trẻ ngày nay chạy nước rút cũng chẳng dễ gì theo kịp.

     

    - Phải đó má! Con nghe mướt mồ hôi khi ông bảo con đi làm phù dâu là chơi ác với bạn.

     

    - Chớ sao! Sắc đẹp hoa hậu đi nữa lúc nào cũng mang theo con dao hai lưỡi.

     

    Về cái chất thâm nho này, con rể, cha vợ, ba con giống ông ngoại con như đúc. Để má kể cho con nghe một câu chuyện hồi còn ngoài Bắc...

     

    Lúc ấy là thời chiến phòng không máy bay Mỹ, tàu hỏa có toa quân sự, quy định đặc biệt quân nhân đi toa riêng, không ngồi lẫn lộn với hành khách dân thường. Hồi ấy có danh từ gọi doanh trại bộ đội là làng đực vì trong doanh trại chỉ có đàn ông, không có đàn bà. Bấy giờ lên tàu hỏa, toa quân sự có con trai, không có con gái thành thử hóa ra là toa đực nốt.

     

    Tàu bắt đầu chuyển bánh, bỗng dưng có một hành khách muộn nhảy tàu lên được là vội vàng lủi vào trong toa. Hóa ra là một cô gái như trên trời rơi xuống. Cả trăm con mắt lính bừng tỉnh chú mục về một mục tiêu như Nhật Hoàng ngắm nhìn bông hoa cúc duy nhất trong vườn vậy. "Lên xe nhường chỗ bạn ngồi", lập tức có người đứng dậy ngay còn hối người ngồi phía cửa sổ nhích ra để ấn cô gái vào trong góc, lấy cái nón nhà binh úp lên mái tóc để che mắt xa trưởng kiểm soát đuổi cô gái sang toa dân sự, uổng còn hơn được vàng mà không biết giữ.

     

    Cả toa tàu bừng sôi lên như câu lạc bộ. Ai cũng tỏ ra quan tâm, người ngồi xa chồm lên thành ghế để bắt chuyện và ngắm. Rồi hỏi thăm thầy u có còn mạnh khỏe? Quê quán ở đâu? Học hành công tác ra sao? Lại xin địa chỉ ghi đến mỏi tay, đời lính, lúc nào cũng tao ngộ chiến, cũng tốc quyết, vội mà, khoảng cách giao tiếp đâu có thể nào thực hiện từng bước A, B, C, A phẩy, B phẩy như trong sách dạy về trình tự giao tiếp. Tiếng sét ai tình gặp từ trường là nổ ngay thôi. Gái khôn giữa chốn ba quân tha hồ hỏi đáp, ba quân lại trổ tài thơ ca, đây không chỉ là lính mà còn là nghệ sĩ nữa.

     

    Trong khi mọi người săn đón vui vẻ hồ hởi, có gì cũng bộc bạch ra nói cười, thứ gì cũng moi ra từ trong túi ba lô mời mọc đặt đầy lên chiếc bàn con trước mặt cô gái, có cả bánh lương khô, kẹo bột... đến đỗi bác soát vé tàu già nói tiếng miền Trung biết tỏng cái trò úp nón lên đầu cô gái cũng không nỡ cắt đứt niềm vui của các chú em bộ đội, duy nhất chỉ có một anh chàng ngồi ghế bên kia đối diện trước mặt cô vẫn giữ nét mặt bình thản khác người. Anh chàng tỳ cằm lên cánh tay gác lên bệ cửa nhìn ra ngoài bầu trời, cảnh vật lướt qua theo con tàu di chuyển. Có một tràng cười cô lại để mắt đến cái vẻ để ngoài tai khác người ấy.

     

    Tàu qua cầu Lèn, đền Bà Triệu, đền Sòng, qua nông trường Đồng Giao, qua thị xã Ninh Binh, không khí trong toa vẫn còn sống động, cô gái lấy quả từ trong giỏ xách ra mời nhưng không có dao bổ cam.

     

    "Có anh nào có dao con, cho em mượn?"

     

    Chẳng ai có dao. Anh chàng lúc ấy mới động tay mò vào thắt lưng lấy ra một xâu, gỡ con dao xếp ra khỏi khoẻn, kéo lưỡi ra ngoài, nắm đằng mũi trao đằng cán đúng phép đưa dao. Trao nhưng không nhìn, mắt vẫn để tâm vào cảnh vật bên ngoài. Cô gái đón lấy, ngỡ ngàng một thoáng cúi xuống mỉm cười với quả cam.

     

    Tàu đến ga Nam Định. Anh chàng với tay lên kệ, khoác hành lý lên vai. Lần đầu tên cô gái có lý do để hỏi:

     

    - Anh xuống ga này à?

     

    - Vâng.

     

    - Em cũng xuống. - Nói xong mới gom hành lý như một quyết định bất ngờ. Chào các anh! Chào các anh! Các anh đi mạnh giỏi! Thắng lợi!

     

    Anh chàng bước xuống sân ga, bước vài bước lại dừng. Khi cô gái bước đến gần, anh chàng đưa tay xách phụ hành lý, ga-lăng với phái yếu đúng phép văn minh, không chê vào đâu được, lại còn đặt bàn tay rỗi rảnh lên vai người đẹp dìu đi như thân quen từ bao giờ.

     

    Trên tàu, quân phục màu cỏ úa chen nhau nhô ra đặc các khung cửa sỗ. Chờ lúc ấy anh chàng quay lại cười, nheo mắt lấy le với "đoàn quân thất trận...".

     

    - Má nói ba đó phải không má!

     

    - Còn ai trồng khoai đất này? Hí! ổng đó! Hôm sau ổng ở lại căng Ga rô - doanh trại Quân khu 3, còn má phải lên tàu đi tiếp về tận Hải Phòng.

     

    - Sao má biết ba để ý mà má dám xuống tàu giữa đường để đi theo ổng.

     

    - Ba mày ghê lắm, mủ mỷ trở khu đ ĩ. ổng o mèo mà diễn kịch câm. Các con biết hôn? Má vừa cầm cái cán dao, bị ông ghịt nhẹ lại bằng hai đầu ngón, bất ngờ không ai thấy mà má nghe rần như điện giật toàn thân... ổng ghê lắm...

     

    Cha tôi ngả người lên thành ghế, ngửa cổ cười khì cho kỷ niệm sống dậy.


  11. Nghe vọng cổ trên sông

     

     

    Thơ: Trương Trọng Nghĩa

    Soạn lời vọng cổ: Đoàn Phú Vinh

     

    NÓI LỐI:

     

    Nửa đêm trên sông

     

    Ai ngâm nga mấy câu vọng cổ

     

    Giật mình, đám dừa nước lao xao

     

    Con cá nhỏ vẫy đuôi vào nỗi nhớ...

     

    VỌNG CỔ 1:

     

    Câu vọng cổ mượt mà dẫn dắt tâm tư tôi trôi về miền ký ức, nơi bến sông xưa thân cò lặn lội bãi vắng ven sông như còn in rõ dấu chân... gầy.

     

    Đời mẹ giao neo bên bến sông nầy.

     

    Tần tảo sớm hôm nuôi chồng đi kháng chiến, chắt mót từng đồng lo cho con ăn học lớn khôn (-)

     

    Đêm khuya giật mình nghe mẹ hát ru, hò sự cống xê trong từng lời ca như có tiếng đàn của cha hòa trong đó.

     

    Không biết tự lúc nào bài vọng cổ thân thương, đã hòa tiếng sóng vỗ ven sông ru hồn tôi bao da diết...

     

    VỌNG CỔ 2:

     

    Ầu ơ con hến mé sông nước ròng con hến lặn, ân tình sâu nặng con thương mãi sông Tiền...

     

    Kỷ niệm ấu thơ nhớ bóng dáng mẹ hiền.

     

    Đâu quản trời khuya nước sông lạnh cóng, thui thủi một mình mẹ mò hến bắt cua (-)

     

    Khi mấy chú mấy anh về đã có sẵn rọ cá kho, bán mớ tép bạc mẹ mua viên thuốc chai dầu tiếp tế cho cách mạng. Cũng bến sông này mẹ là cô giao liên dũng cảm, vững tay chèo đêm đêm đưa bộ đội qua sông.

     

    NÓI LỐI

     

    Ký ức ngày xưa như bồng bềnh cùng sóng nước

     

    Không có tiếng đàn, mái chèo khua hòa nhịp lời ca.

     

    Giọng ai trầm bổng thiết tha

     

    Đám lục bình trôi khe khẽ như cùng lắng nghe.

     

    VỌNG CỔ 5:

     

    Lời ca dưới trăng khuya như làm sống lại bao chiến công oanh liệt, sóng nước ngày xưa từng nhấn chìm lũ hung... tàn.

     

    Như còn âm vang đâu đây tiếng sóng Rạch Gầm.

     

    Dòng nước nặng phù sa tiếp tục chở hồn tôi xuôi về thăm dòng Bảo Định, nhìn bầy đom đóm trên rặng bần thắp sáng quanh mộ Thủ Khoa Huân (-)

     

    Câu vọng cổ như mạch nước ngầm len lỏi giữa lòng dân, nhịp song lang hòa cùng nhịp trống Nam Kỳ Khởi Nghĩa.

     

    Thuyền chòng chành trên dòng sông trăng sáng, khắc khoải lời ca nhớ chị Hồng Gấm anh... hùng.

     

    SÂM THƯƠNG

     

    Đêm sáng trăng ven sông.

     

    Ai ngâm nga, mấy câu vọng cổ.

     

    Nghe lắng sâu tâm tư.

     

    Từng lời ca, sao quá đỗi thiết tha

     

    Chợt sóng lòng nao nao.

     

    Nhớ lời ầu ơ mẹ ru năm nào.

     

    Dòng sông Tiền quê ta

     

    Ngàn năm tươi trang sử sanh oai hùng.

     

    VỌNG CỔ 6:

     

    Cảm ơn câu vọng cổ ai ca nửa đêm trên sông vắng, chạnh lòng tôi thêm yêu tha thiết đất sông...Tiền.

     

    Vẳng nghe hò xự cống xê.

     

    Giật mình thổn thức tìm về nhớ thương.

     

    Đêm nghe vọng cổ trên sông

     

    Lòng tôi như hạt nước hồng phù sa.


  12. Ru em tình chị

    Tác giả: Nguyễn Chi

     

    HÁT RU:

    Ầu ơ... Chuồn chuồn bay thấp thì mưa

    Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm.

    (Có tiếng trẻ khóc)

     

    NÓI DỖ EM:

    Ơi... ơi... Ngủ đi em... Ngủ đi em...

    ... Ầu ơ... (chứ) Em tôi khát sữa bú tay

    Ai cho bú thép ngày rày mang ơn!

     

     

    CÂU 1:

     

    Hãy ngủ đi em, bầy chuồn chuồn trước sân là đà bay thấp, chắc lát nữa đây mưa ướt áo ba, mưa nhòa tóc má. Nghe lời chị hát em ngủ đi cho trọn giấc trưa...

     

     

     

    VỌNG CỔ

    ... buồn… Nín mất đi em đừng khóc nữa chị thêm buồn… Em biết hôn? Làm chị mà sao chị hỏng thương em?! Nhưng làm sao em biết được, khi tiếng khóc còn chưa giáp thôi nôi (-). Hay tại cái võng dây chuối sờn rài, sứt mối lại không có manh đệm lót lưng làm em khó ngủ. Trên cái này đây chị đã từng phải trở đầu nằm để hát ru cho bầy em bốn đứa(-)

     

    DẶM:

    Người ta lên ngựa, xuống xe

    Chị em mình xúm ven hè mà chơi.

    CÂU 2:

     

    Rồi thằng Vẹt, thằng Tràm, con Lung, con Lán... nó cũng lớn dần trong ngôi nhà xiêu vẹo mà năm tháng đi qua đã trắng nếp đưng chèn... Hồi chị còn cắp sách theo chân ba đi học ở đầu làng... Ba má sinh các em ra trong cái cảnh thiếu trước hụt sau, cháo rau còn chưa nuôi đủ miệng (-) Nên đến một chiều kia, ba má buộc lòng kêu chị Hai bỏ học, chị Hai buồn trốn ra sau hè ngồi khóc. Nhìn mấy cuốn tập học vỡ lòng ba quấn thuốc sâu kèn mà nước mắt chị rưng rưng (-)

     

    NÓI LỐI:

    Bởi đã có các em rồi, chị không còn nhỏng nhẻo.

    Như cái hồi ba má ẳm tay chuyền

    Má ơi con vịt nó chết chìm

    Con thò tay bắt... Cá liềm kiềm nó cắn tay con...

    RU EM:

    Ầu ơ... Lòng mẹ cha của mình như biển, như sông

    Thương con nên đành phải kềm lòng cắn răng.

    CÂU 5:

     

    Bởi em còn nhỏ dại, bú tay nên chưa có biết mẹ cha than dài, thở vắn. Có được miếng nạc cũng dành để con ăn, miếng xương thời cha mẹ mút; hẩm hút với nồi canh rau đắng rau...

     

     

     

    VỌNG CỔ

    ... dền... Ngày thì đổi công, đêm lại thắp đuốc thăm đồng... Có mấy lần giật mình thức giấc nửa đêm chị thường nghe ba má rầy rà những ân tình sâu lắng mà chị cũng buồn lây (-)

     

    Mỗi khi trời trở heo may

    Chị em mình chia sớt cũng đầy bát cơm.

    Mấy em đòi bánh chị hờn

    Rầy em, em khóc... chị đưa lưng ra hứng đòn(-)

    CÂU 6:

     

    Đây nè em... Hai bờ hông của chị sần chai trứng cá cũng vì đã từng ẵm nách em thơ. Ngủ đi em, ngủ đi đứa em khờ của chị; ngủ để chị còn giúp má hái rau, bắt ốc (-). Đừng khóc nghe em, em đừng khóc nữa, tiếng khóc nghẹn ngào thương khó biết nhờ ai?

     

    Ầu ơ... Má ơi đừng đánh con hoài

    Để con bắt cá nấu soài cho má vui.

    Chuồn chuồn bay thấp em ơi...

    Sét trời thôi đánh kẻo em tôi giật mình (-).

    Có cha, có mẹ thì hơn

    Không cha, không mẹ như đờn đứt dây

    Em nhiều chị chịu đòn thay

    Mẹ vắng, cha rầy... cũng tình chị thương em (-)./.


  13. Tìm hiểu về bản vọng cổ

    Phục Lư

     

    Bằng sức sống mãnh liệt của dân tộc, với tâm hồn và ý sống của bước đường mở cõi phương Nam, dòng nhạc tài tử Nam Bộ theo dòng đời mà hình thành, tồi tại và phát triển mạnh vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Trên đà phát triển đó, năm 1919 tại Bạc Liêu, cố nhạc sư Cao Văn Lầu (thường gọi Sáu Lầu) đã sáng tác cho ra đời bản Dạ Cổ Hoài Lang gồm 20 câu, mỗi câu 2 nhịp, mang hơi nam và hơi oán. Bản này được giới nghệ sỹ đương thời chú trọng ưa thích và mau chóng đi vào lòng người. Đến năm 1927, tại Bạc Liêu, bản Dạ Cổ Hoài Lang được mở nhịp mỗi câu 4 nhịp và mang tên Vọng Cổ Hoài Lang. Đến năm 1940, bản Vọng Cổ Hoài Lang được mở nhịp 8 mỗi câu, mang tên là Vọng Cổ Bạc Liêu. Từ khoảng 1955, tại Sài Gòn, bản Vọng Cổ Bạc Liêu được tiếp tục mở nhịp 16, rồi nhịp 32. Khoảng năm 1964, có nơi mở nhịp 64. Và hiện nay thông dụng nhất là bản Vọng Cổ nhịp 32.

     

    Qua khảo sát, nghiên cứu về căn gốc, về bước đường sáng tạo chỉnh lý thì phải nói bản Dạ Cổ Hoài Lang đã được giới nhạc sĩ, nghệ sĩ tài danh đầu tư rất nhiều công sức, vừa sử dụng, vừa nghiên cứu, phát huy đúng mức giai điệu độc đáo ban đầu, để rồi sáng tạo cho phong phú thêm. Điều đáng nói là, dù có sáng tạo, phát triển qua bao giai đoạn, nhưng người ta vẫn giữ được căn gốc, giữ được giai điệu, cái hồn của bản Dạ Cổ Hoài Lang buồn mang m1c, chất chứa niềm u uất, ai oán, thổn thức, nghe lòng vang nỗi buồn vạn kỷ.

     

    Cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu, sinh năm 1982 tại xã Thuận Mỹ, quận Bình Phước, Long An (thời Pháp thuộc Long An thuộc tỉnh Gia Định). Ông mất năm 1976. Qua nghiên cứu tài liệu và qua gặp gỡ trao đổi với ông Sáu Lầu lúc còn sanh tiền, thì qua giai điệu, âm hưởng của Bài Từ, bản dân ca do một nhà sư, thuộc đoàn người từ miền ngoài đi vào mở cõi phương nam. Đêm đêm thanh vắng, nhà sư ấy ngâm hò Bài Từ này. Dân gian trong vùng bắt theo. Ông Sáu Lầu cảm nhận được giai điệu Bài Từ đó, rồi chỉnh âm, sáng tác ra bản Dạ Cổ Hoài Lang.

     

    Từ lồng bản gốc, các nghệ nhân dùng nghệ thuật diễn tấu bằng ngón nhấn, rung , vuốt, tại âm cống thường tấu Xể, tại dứt câu 9 và 23 âm Xự (hay Lịu) đưa Xang. Đặc biệt nhấn rung âm xang phải đúng điệu mới bộc lộ giai điệu truyền cảm của bản Vọng Cổ.

     

    Ở bản Vọng Cổ, người ca phải hết sức luyện hơi, luyện giọng để xuống âm Hò (tức Vọng cổ đầu) và âm Hò cuối lái bắt buộc.

     

    Ca vọng cổ theo phong cách tài tử thì đờn vô trước 4 nhịp, rồi người ca vô sau.

     

    Ca Vọng Cổ theo phong cách cải lương, người ca nói lối hoặc ca bài bản gối đầu, rồi vô vọng cổ Hò. Ngày trước cũng có vô vọng cổ Xang hoặc Xê, tùy câu, nay không thấy.

     

    Để phù hợp thời lượng cho phép khi ca diễn ở tụ điểm văn nghệ hoặc trong tuồng cải lương, hoặc phát sóng trên đài truyền thông, thường chỉ dùng đôi ba câu, hoặc 4 câu (1-2-5-6) hoặc 5 câu (1-2-3-4-6 hay 5-6), hoặc 6 câu (1-2-3-4-5-6). Các bài ca vọng cổ lưu hành hiện nay cũng chỉ soạn số câu như vừa nêu. Từ thực tế này đã đưa đến sự ngộ nhận rằng bản Vọng Cổ 20 câu nay chỉ còn là 4 câu, 5 câu hay 6 câu. Thậm chí có người bảo bản Vọng Cổ 20 câu đã được cải tiến rút ngắn còn 6 câu. Ví như con voi ép nhỏ lại thành con chuột. Không hề có như vậy, bản Vọng Cổ 20 câu vẫn là 20 câu. Còn sử dụng số câu nào đó thực chất chỉ trích dùng từ 20 câu vọng cổ mà thôi. Soạn giả, tuỳ trạng huống, tâm trạng nhân vật ở vở cải lương mà chọn trích bất cứ số câu nào trong số 20 câu Vọng Cổ. Ngày xưa, khi bản Vọng Cổ ở nhịp 4, nhịp 8, nhịp 16 thì có soạn bài ca đến 20 câu, thu vô đĩa đá hát máy.

     

    Bản Vọng Cổ đã tạo cho người đờn , người ca nhiều điều kiện sáng tạo nghệ thuật rất phong phú. Nghệ thuật ngón nắn nót cung đàn, nghệ thuật sắp chữ đờn đã nở hoa nhiều nhạc sĩ thiên tài. Nhiều cách lên dây đờn như: dây Rạch Giá, dây Bạc Liêu, dây Sài Gòn, dây Hò đậy, dây Tố Loan, dây Tứ Nguyệt, dây Ngân Giang hạ,v.v…

     

    Bản vọng cổ được tôn vinh là "bà hoàng cải lương". Một vở cải lương mà thiếu bài vọng cổ khó được chấp nhận.

     

    Rất nhiều đào kép nổi tiếng trên sân khấu cải lương cũng nhờ từ bản vọng cổ. Ngoài chất giọng thiên phú còn cần phải khổ công luyện tập nghệ thuật phun hơi nhả chữ, nghệ thuật ngân giọng, nghệ thuật xếp chữ ca,v.v…

     

    Những năm gần đây, một số nghệ sĩ nôn nóng muốn cải tiến, sáng tạo đổi mới bằng lối ca vọng cổ trăm chữ. Ở phần nói lối vô vọng cổ hò, hoặc ở phần cuối từ nhịp 24 đến dứt câu thì dùng lối ca như tụng kinh, lẹ như xe lửa chạy. Giọng ca khi vút cao, hạ thấp, lượn lách, kiểu cọ nhiều chặp để rồi dứt câu bị đứt hơi, hoặc hơi có hột. Người nghe cảm thấy như muốn đứng tim. Lối ca diễn mất căn, mất điệu, phi nghệ thuật như thế ban đầu thấy ngồ ngộ, người ta vỗ tay nhưng rồi dần dần bị chê trách, bị phê phán, bị tẩy chay.

     

    Tóm lại, bằng tâm hồn nghệ sĩ thanh cao, bằng tim bằng óc bằng tài nghệ, bằng tar1ch nhiệm nghệ thuật cao, các nghệ nhân tiền bối và thế hệ tiếp theo, đã khai hoa nở nhụy bản Dạ Cổ Hoài Lang, rồi chắt chiu nâng niu phát huy sáng tạo, phát triển thành bản Vọng Cổ nhịp 32, cống hiến cho đời bản nhạc dân tộc hết sức độc đáo có giá trị nghệ thuật vượt thời gian.


  14. Tình yêu học trò, mà thơ văn ngợi ca là trong sáng, đẹp đẽ, lãng mạn, nếu để xảy chuyện "ăn cơm trước kẻng" thì phần thiệt thòi, đau khổ thường là chỉ dồn về phía cô gái...

     

    Đi đâu thì thôi, chớ về nhà là nét mặt của chồng M cứ cau có, hằm hằm và đỏ kè vì rượu. Lắm lúc điên tiết lên, chồng M chửi M như tát nước vào mặt M và choảng bát, đĩa, đánh đập M...

     

    Chưa được ba năm chung sống với nhau mà bao phen họ cần đến sự can thiệp, giảng hòa của làng xóm, gia đình nội, ngoại. Vợ chồng M cùng tuổi, năm nay tròn 21 mà họ đã có với nhau đến hai mặt con, đứa đầu lên 3, đứa thứ hai được 3 tháng, đứa nào đứa nấy cũng còi cọc, nhếch nhác, trông tội nghiệp lắm. Còn M, người vợ, từ ngày lấy chồng, hiếm có một nụ cười hiện trên môi, nét mặt bao giờ cũng buồn rười rượi như người đi đưa đám, cái nét thơ ngây, hồn nhiên, duyên dáng của một cô học trò cấp 3, trường B. G ở cô mới ngày nào đã tan biến, dường chỗ cho một người phụ nữ lam lũ, cực nhọc, nhìn bề ngoài trông già hơn cái tuổi hiện tại của cô nhiều lắm, vì lẽ sớm phải vất vả, khổ sở với chồng, con.

    080615221850-806-16.jpg

    Nhiều bạn trẻ sẵn sàng công khai tình tự giữa thanh thiên bạch nhật...

    M không giấu giếm quá khứ của mình, giọng kể của cô vợ trẻ này lại chứa đầy nỗi xót xa, nuối tiếc, cả ân hận nữa: "Cũng tại em, ham yêu sớm, em và anh ấy yêu nhau say đắm từ khi cả hai cùng học lớp 10, cả trường đều biết. Thế rồi em, có bầu cuối năm lớp 11. Còn mặt mũi nào đến lớp nữa. Em nghỉ, Anh ấy cũng nghỉ theo. Chuyện vỡ lỡ, hai bên đành chấp thuận, tổ chức đám cưới vội sau đó, dấu kín bạn bè, sợ chê cười. Bây giờ, bạn bè lớp em vẫn cứ vô tư, phần đông lo học nghề này, ngành kia để có công ăn việc làm ổn định sau này, còn chúng em, tuổi chưa nhiều mà sớm rơi vào tình cảnh ấy, nghề nghiệp chẳng có, mấy sào lúa, mì chỉ đủ múc lên đổ xuống, trông mong chi viện của cha mẹ hai bên cũng chẳng được lâu. Nghĩ lại, nhìn bạn bè hôm nay, em thấy mình sai lầm quá chừng, ước ao được như chúng bạn... nhưng đã muộn... rồi." Với hoàn cảnh của M, chúng tôi chỉ biết ân ủi, động viên họ thôi và gởi cho hai con M mấy hộp sữa trước khi chia tay.

     

    Tình cảnh của vợ chồng M tuy đáng thương thật nhưng vẫn còn may mắn hơn nhiều cô học trò trót yêu, trót mang bầu, đến khi bầu không thể phá được nữa, cũng là lúc người yêu, miệng còn dính sữa mẹ của các cô bé, cao chạy xa bay, thoái thác trách nhiệm, gia đình các chàng trai lại không cảm thông, chia sẻ gánh nặng cho cô bé và gia đình cô.

     

    080615221850-827-262.jpg

    Học theo phim ảnh, nhiều học trò lao vào yêu đương từ rất sớm, dẫn tới hậu quả là cuộc sống bi đát, khó có thể cứu vãn.

    Huyện Sơn Tịnh (Quảng Ngãi) quê tôi, từng có những trường hợp, gia đình cô gái dọa, gây sức ép với gia đình bố đứa bé mới chào đời nếu không nhận con, cháu và tổ chức cưới ngay thì sẽ xử theo luật rừng, đem ném con vào nhà cho nuôi hoặc quẳng cho… chó nó ăn. Không ít những sinh linh bé bỏng, tội nghiệp ra đời trong hoàn cảnh bất đắc dĩ ấy bị bỏ rơi, đem cho các sơ nhà thờ cưu mang. Nếu không có các sơ mở rộng lòng từ bi thì những sinh linh sẽ ra sao, về đâu?

     

    Tình yêu học trò, mà thơ văn ngợi ca là trong sáng, đẹp đẽ, lãng mạn, nếu để xảy chuyện "ăn cơm trước kẻng" thì phần thiệt thòi, đau khổ thường là chỉ dồn về phía cô gái. Hậu quả của tình yêu sớm khó lường hết nhưng tình trạng học sinh nữ, nam sớm muốn thử, hưởng hương vị ngọt ngào của tình yêu, khám phá trái cấm... ở nhà trường, cấp hai, ba đang có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp.

     

    Chọn một đêm, không vào thứ bảy, chủ nhật, từ 8 giờ trở đi, dạo bước vào các quán cà phê dành cho trai gái, đến những chỗ vắng như chùa Thiên Ấn, một đoạn đường sát công viên Ba Tơ ở Sơn Tịnh và thành phố Quảng Ngãi, nhìn thoáng qua, có thể bắt gặp vô số cô cậu học trò đang say sưa âu yếm, làm tình... đến nỗi không nhận ra có người đi bên cạnh.

     

    Anh bạn tôi, một thầy giáo ở trường Tư Nghĩa, thốt lên: Bây giờ học sinh, nhất là cấp 3 "loạn" mất rồi. Ở tỉnh lẻ như Quảng Ngãi đã vậy, còn ở những thành phố, tỉnh lớn thì sao? Có câu trả lời ngay: đã công khai và dữ dội gấp bội lần ở đây.

     

    Tình trạng học sinh yêu sớm hiện nay gia tăng, đến mức báo động đỏ, có thể chỉ ra đây nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân chính là do thói tò mò, học đòi, bắt chước của học sinh từ phim ảnh, sách báo, từ thực tế, thấy họ yêu mình cũng yêu cho biết. Một nguyên nhân nữa là sự lúng túng, hững hờ, thiếu quan tâm, can thiệp kịp thời của các bậc phụ huynh, thầy cô, nhà trường khi con em, học trò mình có dấu hiệu "sa lầy".

     

    Khi đặt câu hỏi: phụ huynh và thầy cô có hay quan tâm đến chuyện tình cảm, chuyện quan hệ khác giới của con trẻ, học sinh không? Hầu hết đều trả lời là không biết và cho đó là chuyện tế nhị, khó nói lắm. Hầu hết những học trò yêu sớm, về học tập thường sa sút, yếu kém, không ra gì, vì thời gian đã dành hết cho tình yêu thì học làm sao được. Học tập tệ, kéo theo nghề nghiệp, cuộc sống về sau rất chênh vênh, giống như tình cảnh vợ chồng M đã nói ở trên.

     

    Có ai cấm đoán tuổi trẻ yêu nhau đâu. Nhưng yêu nhau khi tuổi nhỏ, còn ăn học PT, còn bồng bột, non dại, khi kĩ năng, hiểu biết về cuộc sống gia đình, nghề nghiệp rất hạn hẹp, tù mù thì không nên, không được. Phụ huynh đừng chủ quan, hãy cảnh giác với con cái mình trong chuyện tình cảm và có biện pháp xử lí hiệu quả, vì môi trường xã hội hiện nay và con em bạn khác trước nhiều. Nhà trường phải vào cuộc, phải giáo dục tuyên truyền phòng chống tệ nạn xã hội, HIV… Đồng thời, sách báo, phim ảnh... của Việt Nam cũng cần tỏ rõ thái độ phê phán mạnh mẽ đối với tình trạng học sinh yêu sớm.

     

    Tấn Ngọc/VTC


  15. Đôi bàn tay mẹ

     

    Cầm tay mẹ đưa lên mũi

    Con nghe mùi bùn non những ngày mẹ cấy đồng sâu ruộng cạn

    Có mùi khét nắng những buổi trưa đổ lửa

    Và mùi hoa bưởi thoang thoảng mẹ gội đầu lúc chiều hôm

    Có mùi tanh nồng của những con sặc con rô mẹ bắt ngoài đồng

    Có hương gạo mới trên bếp hồng mỗi tối

    Có mùi khói nồng nàn rơm rạ

    Và mùi dầu phong thấp mẹ xoa mỗi đêm…

     

    Bàn tay có ngón vắn, ngón dài

    Nhưng tình thương mẹ dành cho đứa nào cũng vậy

    Đôi bàn tay suốt đời lam lũ

    Suốt một đời mẹ chẳng đi đâu

    Chỉ quanh quẩn, xóm làng ruộng rẫy…

     

    Đôi bàn tay mẹ

    Dẫu đầy những vết chai lồi lõm như bờ ruộng tháng ba

    Khi áp vào má bỗng thấy mình bé lại

    Đôi bàn tay vuốt tóc con êm như ru…

     

    Đôi bàn tay mẹ

    Dẫu ngón trỏ bám phèn

    Ngón giữa lấm lem

    Ngón út dính đầy mủ chuối

    Mẹ vẫn luôn dạy các con giữ mình sạch trong…

    • Like 4

  16. Quán cóc

     

    Cây trứng cá và khoảng trời nho nhỏ

    Trước cổng trường mãi không quên

    Dăm chiếc bàn ghế đã cũ màu sơn

    Vẫn ngọt ngào vị những ly nước mía

     

    Khung trời nhỏ của ta và bạn

    Rộn tiếng cười trong vòm lá giòn tan

    Ngày ra trường giữa nỗi nhớ mênh mang

    Những kỉ niệm gối dày trang lưu bút

     

    Ly nước mía ngày chia tay thêm ngọt

    Khoảng cách nào chợt gần gũi yêu thương

    Biết rằng xa lòng dặn đừng buồn

    Thế mà mắt đứa nào cũng đỏ…

     

    Góc bàn ấy, hàng cây… ô cửa nhỏ.

    Giữ giùm ta chút kỉ niệm ngày xưa…

    • Like 2

Footer title

This content can be configured within your theme settings in your ACP. You can add any HTML including images, paragraphs and lists.

Footer title

This is an example of a list.

Footer title

This content can be configured within your theme settings in your ACP. You can add any HTML including images, paragraphs and lists.

Footer title

This content can be configured within your theme settings in your ACP. You can add any HTML including images, paragraphs and lists.

×
×
  • Create New...