Jump to content

duonghoanghuu

Thành viên
  • Số bài viết

    328
  • Gia nhập

  • Đăng nhập

  • Nổi bật trong ngày

    8

Mọi thứ được đăng bởi duonghoanghuu

  1. Danh sách này đã được công bố vào hồi 14h30p chiều 19/10 tại Lễ trao thưởng , xem dưới đây. Các bạn có thể đọc lại các bài viết tại đây nha: https://www.facebook.com/iBestApp/notes
  2. duonghoanghuu

    MÀU HOA NGHỆ

    Tôi yêu bông nghệ hoe vàng, Gót em vườn cũ nhẹ nhàng – rồi yêu Tôi thầm hóng ngọn nắng chiều Hong tươi hoa nghệ liêu xiêu đợi chờ
  3. duonghoanghuu

    MỘT MÙA HÈ

    Các bạn Hoanghai11 và hoàng Kỳ yêu thích thời HS và mùa hè lắm nhỉ. Cũng như dhh và rất nhiều người khác. Chỉ còn biết gửi tâm tình qua đôi dòng thơ luyến nhớ vậy thôi. Chúc vui, khỏe.
  4. [CUỘC THI VIẾT] MY DEAR – NGƯỜI PHỤ NỮ TÔI YÊUAugust 30, 2013 at 10:50amAi là người phụ nữ của đời bạn? Người mẹ, người chị,người vợ, người bạn gái hay có khi chính là cô bé hàng xóm đáng yêu ngày nào ?!.Bạn trân trọng họ nhưng đã mấy khi lắng lại để kịp nói một câu yêu thương. Hãy cùngiBest dành những điều “ngọt ngào” nhất bấy lâu nay bạn chưa dám thổ lộ đến họvà có cơ hội nhận được những phần quà bất ngờ cho bạn và người phụ nữ trong timmình. Như một lời tri ân, lời chúc ý nghĩa nhất đến 1 nửa thếgiới, iBest tổ chức cuộc thi viết vềngười phụ nữ với thông điệp “My dear –người phụ nữ tôi yêu”. Thời gian tổ chức: 01/09 đến 20/10 Thời gian nhận bài: từ 01/09 đến hết 15/10 Đối tượng tham gia: Tất cả mọi đối tượng ở cácđộ tuổi, giới tính trên đất nước Việt Nam. Bài viết hướng đến người phụ nữ bạn yêu thương: mẹ, chịem gái, vợ, người yêu, bạn bè… Thể lệ chương trình: Các bài viết sẽ được gửi qua hòm mail của chương trình:mydear@gviet.vn với tiêu đề:Bài dự thi viết vềngười phụ nữ tôi yêu, những bài viết hợp lệ (trong thời gian nhận bài, có đầyđủ thông tin cá nhân), đạt các tiêu chíBTC đưa ra sẽ được đăng lên fanpage:www.facebook.com/iBestApp, Forum, trong nội dungMy dear trên iBest (từ 15/09), căn cứ vào lượt like, share (1 share = 2 like) trên fanpage và đánh giá của BTC đểquyết định các bài viết đạt giải (tỉ lệ 50/50). Thông tin cá nhân: - Họ và tên: - Địa chỉ hiện tại: - Điện thoại: - Email: - Địa chỉ Facebook: CácTiêu chí: + Phù hợp chủ đề (viết vềphụ nữ) + Bàiviết không quá 1000 từ + Bàiviết hay, có ý nghĩa (theo đánh giá của BTC) Thể loại: Thơ,tâm sự (kỷ niệm), truyện ngắn, thư… Lưu ý: Bài viếtcó tiêu đề, có đính kèm ảnh minh họa hoặc ảnh nhân vật trongbài viết (nếu có), cam kết bài viết chưa được đăng trên bất kỳ phương tiện truyềnthông nào, người viết tự chịu trách nhiệm về vấn đề bản quyền khi xảy ra tranhchấp. Những giảithưởng vô cùng hấp dẫn đang chờđón các bạn: · Giải Nhất(01 giải): 2.500.000đ tiền mặt + 1 voucher chăm sóc sắc đẹp · Giải Nhì(02 giải): 1000.000đ tiền mặt + 1 voucher chăm sóc sắc đẹp · Giải Ba(05 giải): Thẻ cào điện thoại 200.000đ · Tặngngay 10.000 gold cho những bài viết được đăng Ban tổ chức được quyền sử dụng các bài viết dự thicũng như hình ảnh của những người trúng thưởng trên mọi phương tiện thông tin đạichúng mà không cần thông báo cho tác giả hoặc trả bất kỳ chi phí nào; không chịutrách nhiệm về việc cung cấp sai thông tin của người trúng giải; có quyền thayđổi cơ cấu hoặc nội dung giải thưởng nhưng vẫn đảm bảo giá trị giải thưởngkhông thay đổi. Kết quả và giải thưởng sẽ được công bố và trao giảitrong ngày 20/10 (nếu người nhận giải ở nội thành Hà Nội, các bạn ở xa sẽ đượcnhận giải theo đường bưu điện).
  5. TỔNG KẾT CUỘC THI THƠ TÌNH HẠ TRÊN DIỄN ĐÀN AOTRANG.VN Nhằm giúp các bạn trẻ đam mê nghề viết có sự trải nghiệm thông qua đó có thể rút ra những bài học bổ ích, Gia đình Áo Trắng Cần Thơ luôn tranh thủ “xã hội hóa” nhằm tổ chức các giải viết không thường xuyên. Khởi động từ đầu tháng 5/2013, cuộc thi thơ TÌNH HẠ trên trang http://aotrang.vn/f đã thu hút được đông đảo thành viên và bạn đọc dự thi cả ở hai thể loại thơ Đường Luật (54 bài) và các thể thơ Truyền thống và Hiện đại khác (73 bài). Nhìn chung, các bài thơ dự thi đều có sự đầu tư công phu, thể hiện kỹ thuật nhuần nhuyễn, cấu tứ giàu cảm xúc. “HẠ CON GÁI” của Thái Văn Lợi mang đến phép liên tưởng thú vị với những gam từ giàu hình ảnh. Cô gái hạ vừa xinh đẹp, vừa bình dị, sôi nổi, sinh động đấy nhưng cũng rất vô tư: “Mây xõa tóc đắp mền lên ngực ruộng”; “Gió nhởn nhơ khua gợn sóng ao làng/ Bầy cá nhỏ nghịch đùa bong bóng nước/ Gốc tre già thả chiếc lá chen ngang”… Xứng đáng với giải Nhất được trao tặng. “MÙA SEN” của Huyba mang phong cách khá độc đáo. Hoa sen là biểu trưng cho hình bóng người mẹ, người vợ chịu thương chịu khó, chắt chiu làm đẹp cho đời quên cả tháng năm mòn mỏi, tù túng trong sự hữu hạn của một phong tục, một nếp nghĩ đã “bọc kén” ở một miền quê, nhưng vẫn cố vùng vẫy nhằm vươn tới một giá trị cao đẹp hơn. “Dậy một mầm sen đỏ/ Tiếng quyên vừa sang canh” là cái kết để ngỏ đầy thi vị. Lê Trang thuyết phục BGK bằng sự mượt mà trong việc kết hợp các nghệ thuật điệp từ, nhân hóa, so sánh với nhiều động từ sống động. Đặc biệt nhất là quy luật “sự thống nhất của các mặt đối lập” được vận dụng để mô tả những cung bậc tình yêu đầy sáng tạo trong “RƯỚC TÌNH VÀO HẠ”. “THÁNG NĂM” của Nguyengiangsan mang đến một mùa hạ dậy thì tươi tắn, tinh khôi có đầy đủ tiếng ve, cánh hạc, cỏ hoa, mưa gió và sâu lắng kỷ niệm vui buồn của mỗi kiếp người. “TÌM” của Mai Đức Trung đau đáu dòng hoài niệm mối tình đầu trong sáng, thơ ngây nhưng lại rất mong manh bởi thiếu hẳn sự từng trải, chịu đựng. “CHIỀU XA” của Phan Duy thể hiện sự khát vọng đi tìm sự khác biệt trong nghệ thuật hình dung từ. Những “phiến hạ”, “điệu phôi pha”, “nhành thương”… toát lên sự trăn trở, day dứt. Mảng thơ ĐL cho thấy sự tiến bộ đáng kể của thí sinh so với lần thi trước, nhưng cũng chỉ có ít t/g có bài lọt vào vòng trong. Điều này thể hiện chỉ những ai thật sự đam mê mới mong gặt hái thành công ở thể loại này. Chính sự chặt chẽ trong bố cục, khắt khe niêm luật và sự chắt lọc ngôn ngữ đã phân loại và lựa chọn ra bốn t/g nổi bật nhất. “HẠ NHỚ” của Kiều Thành là ký ức về mối tình cũ thơ mộng với nhiều màu sắc, âm thanh và những cung bậc cảm xúc khác nhau. Tất cả như còn đọng lại và thật sống động trong dòng hoài tưởng. Nghệ thuật nhân hóa, hoán dụ cùng với việc chọn lọc phối hợp thanh điệu trong mỗi câu thơ nâng tác dụng biểu cảm đầy dụng ý. Nghệ thuật chắt lọc ngôn ngữ trong “MÙA RƠI” của Phan Duy khá tinh tế với những gam từ đắt và khá sáng tạo (ru mềm hạ biếc, vàng xe dải nắng, đỏ kết lưng thềm,…). Việc phối hợp nhuần nhuyễn nhiều thủ pháp nghệ thuật đặc biệt là sự thể nghiệm Ngũ Độ Thanh, lồng ghép từ láy và màu sắc ở từng câu kết hợp với đảo ngữ, nhân hóa, ẩn dụ đã mang lại thành công cho bài thơ. Theo bước chân Nguyên Xuân, người đọc như được tắm mình trong khoảng không gian đầy màu sắc, âm thanh của “TÌNH HẠ” với hoa phượng đỏ rực giữa trưa hè, với lời hát ru của biển xanh thơ mộng, với tiếng dạt dào của suối, với đêm trăng huyền ảo mộng mơ… Chính bức họa thiên nhiên huyền diệu cùng bản giao hưởng trầm bổng của vũ trụ là món quà vô giá làm thăng hoa cảm xúc sáng tác… T/g bất chợt thấu hiểu quy luật vần xoay của đất trời và sự hữu hạn ở đời. Sự thấu hiểu ấy là kim chỉ nam, là lý tưởng sống “hiến dâng nghĩa sống chan hòa”. Đã qua những ngày xuân ủ mộng, nắng hạ chợt bùng lên mãnh liệt hơn bất cứ bao giờ. Tứ thơ tưởng như đơn giản mà dặt dìu xúc cảm, sâu lắng những thông điệp gửi cho đời. “HOÀI NHỚ” của Hương Thủy mang đến sự nhẹ nhàng, thanh thoát, thơ ngây của tuổi trẻ chất đầy sự lắng đọng của hồn thơ lãng mạn và rất tinh tế. Cái mở rất khéo, đặc biệt là ở câu 2 với những cung bậc trầm bổng rất đắt “Mộng níu thời gian trở lại ngày”. Kỷ niệm học trò như sống động trong mỗi con người với đầy đủ trạng thái, màu sắc, âm thanh, hình ảnh, tình cảm… Tất cả đều lưu giữ vẹn trong tim, chẳng nhạt phai. Cuộc thi đã khép lại với những thành công đáng khích lệ. Thay mặt Diễn đàn, NX trân trọng cám ơn sự hợp tác quý báu của tất cả quý vị. Đặc biệt là: – Quỳnh Nguyễn và Huyzozo đã tài trợ kinh phí. – Các thành viên Ban Giám Khảo đã không ngại dùng sự “hữu hạn” về thời gian và vốn hiểu biết để đánh giá sự “vô hạn” của kiến thức nhằm đưa ra kết quả kịp thời, công minh ở mức tương đối có thể. – Các thành viên Dự thi, những người quan trọng nhất, quyết định sự bội thu hay thất bát của mỗi vụ gieo trồng hay một Dự án đầu tư. Một lần nữa xin cám ơn tất cả các bạn. Cần Thơ, ngày 14 tháng 9 năm 2013 TM. Ban Tổ Chức và Ban Giám Khảo NẮNG XUÂN Nắng Xuân BTC và một số tác giả đạt giải
  6. Trần Mạnh Hảo Kẻ viết bài này đã có hơn 50 năm kinh nghiệm làm thơ dở, nên gã có một giác quan khá nhậy bén khi phát hiện ra thơ dở trong các cuộc thi thơ hoặc trong các giải thưởng văn học tầm quốc gia đến các giải thưởng thơ ca làng xã. Hơn 50 năm trước, gã đã từng được in thơ trên khá nhiều báo ( tất nhiên là báo quốc doanh), nhất là báo tỉnh ( Nam Định) của gã. Khá nhiều bài thơ của gã sến và sáo mòn như thế này, trích trong bài “Mùa vải” : “Quả vải như trái timHồng tươi khi hè đếnTiếng con tu hú chìmVào mùa hè thương mến” Thơ của chính gã mà giờ đọc lại, gã còn ngượng lắm. Nhưng hơn 50 năm trước, phỏng có kẻ nào liều mạng uống mật gấu chê bài thơ rất “hồng tươi”, rất “thương mến” này của gã là dở và sáo, xin có giời làm chứng, gã sẽ thù kẻ đó suốt đời. Xem ra, những nhà thơ được giải thưởng các cuộc thi thơ, hoặc trong các mùa xét giải thưởng thơ thường niên của hội này tỉnh nọ bị gã chê dở, chắc sẽ thù gã đến muôn đời muôn kiếp không tan. Và giờ đây, ngót 70 tuổi, gã đã sản xuất ra một sự nghiệp thơ mà những bài thơ dở ( dở một cách gan ruột) đếm hoài không xuể. Nghĩ cho cùng, ngay cả thiên tài thơ Nguyễn Du, trong “ Truyện Kiều” nếu vạch lá tìm sâu vẫn soi thấy mươi mười lăm câu dở. Chế Lan Viên mới 16 tuổi đã cho xuất bản một siêu phẩm thơ tuyệt vời là “Điêu tàn”; sau khi theo kháng chiến ông cho ra một tập thơ rất dở có tên là “ Gửi tới các anh”, để rồi năm 1960 mới xuất chiêu một tập thơ có nhiều bài hay là tập : “Ánh sáng và phù sa”.Ngay trong tập thơ rất hay này, thi tài Chế vẫn còn có mấy bài thơ dở ví như bài : “Ngô tổng thống trong dinh thuốc độc”… Vậy thì gã việc gì phải xấu hổ khi có rất nhiều kinh nghiệm về thơ dở và làm thơ dở ? Hôm rồi, nhân chuyện gã phê bình ba bài thơ nhất nhì của cuộc thi thơ trên Facebook là dở, có một bạn “còm” ( phản biện) chê gã “cũng làm thơ về váy đó thôi”, sao dám chê bài thơ “ Mùa phơi váy” là thơ xoàng xĩnh? Bạn “còm “ kia bèn trích nguyên cả bài thơ của gã : “Bài thơ trên váy” viết cách đây hơn 30 năm trước có in trên mạng http://gio-o.com rồi chê ỏng chê eo là Trần Mạnh Hảo cũng là một tay làm thơ dở có hạng : thơ TRẦN MẠNH HẢOBÀI THƠ TRÊN VÁYTưởng nhớ nữ sỹ Hồ Xuân HươngMở ra một cái váy trời Qụat cho thế sự tơi bời lá hoa Chành ra ba góc dư ba Hỏm hòm hom thế mới là văn chươngGiời ghen ông phủ Vĩnh Tường Đứt đuôi nòng nọc tình dường bôi vôi Xót thân quả mít nằm phơi Miệng càn khôn ghẹo cọc trời tùm humTrách Chiêu Hổ sợ hang hùm Bao nhiêu quân tử khuất lùm rêu con Cái khuôn tạo hoá méo tròn Để cho hậu thế mãi còn ngẩn ngơ ?Hồng nhan từ độ trơ trơ Nước non một bánh trôi bờ dại khôn Mắt dao cau liếc rách hồn Ốc nhồi xưa vẫn phơi trôn lên trờiBao nhiêu vua chúa qua rồi Chỉ còn chiếc váy tốc trời thi caHà Nội 1980 Trần Mạnh Hảohttp://www.gio-o.com/TranManhHaoTho1.htmlCó lẽ những vị trong các ban giám khảo các cuộc thi thơ, các cuộc xét giải thưởng thơ hàng năm và các vị chuyên môn tâng bốc các tập thơ dở lên thành thơ hay để kiếm lợi toàn là những nhà thơ làm thơ hay chuyên nghiệp vào loại nhất nước? Có thể họ chưa từng làm ra một bài thơ dở bao giờ, do đó họ không còn khả năng phát hiện ra thơ dở ở kẻ khác như gã làm thơ dở chuyên nghiệp Trần Mạnh Hảo này. Với phương châm của nhà thơ Tế Hanh : “Đọc câu thơ đồng chí tưởng thơ mình”, họ - các ban giám khảo chuyên nghiệp ấy đọc thơ dở của kẻ dự thi mà cứ ngỡ thơ mình; tình đồng chí làm họ mờ mắt, nên chấm thơ dở thành thơ hay chăng ?Kẻ viết bài này có một ông bạn làm thơ đã vào tuổi U 80 tên Q. thi thoảng gặp nhau thưởng đùa rằng : “ Mình phục chúng nó quá. Chúng nó làm bài thơ nào là thành bài thơ dở ngay. Còn mình làm bài thơ nào giời bắt cũng thành thơ hay, muốn làm một bài thơ dở mà than ôi không sao làm nổi”. Có lẽ những nhà thơ trong ban giám khảo các cuộc thi thơ, cũng giống như ông bạn Q. này ở khả năng không sao làm nổi một bài thơ dở …?Làm thơ là quyền của mỗi người. Làm thơ hay có khi bị chém đầu như vua thơ Cao Bá Quát, hay như vua bình văn chương Thánh Thán thời nhà Thanh bên Trung Hoa. Chao ôi, thi tài, văn tài có khi thành đại họa cho mình và người thân, gã chả báu. Ở ta các bác Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Hoàng Cầm, Phùng Cung, Hữu Loan… bị họa vô đơn chí cũng bởi tài làm thơ hay đấy ru ? Làm thơ dở cũng là quyền thiêng liêng của mỗi người. Chúng tôi, kẻ viết bài này, chưa từng viết một bài phê bình bất cứ ông nào bà nào làm thơ dở, trừ những bài bốc thơm khen láo và các bài thơ được giải lại rất chi là dở mà thôi.Lỗi tôn vinh thơ dở thuộc về những ban giám khảo. Thơ hay không chấm lại toàn chấm cho thơ dở được nhất nhì là sao ? Trong hai chùm thơ của người làm thơ trẻ Sâm Cầm được nhà thơ Phan Hoàng giới thiệu trên internet, thấy hai bài dở nhất của cô là “ Sài Gòn, Sài Gòn” và “ Nấc cụt” được ban giám khảo chọn trao giải nhất cuộc thi thơ trên Facebook. Các bài khác trong hai chùm thơ này của Sâm Cầm đều có thể gọi là loại khá hoặc trên trung bình. Chê hai bài thơ dở được tôn vinh kia là chúng tôi chê ban giám khảo mắc bệnh mù thơ chứ không chê Sâm Cầm, vì cô không hề có lỗi. Xin trích ra một số câu thơ khá xúc cảm của Sầm Cầm :“Nắng cong chỗ em ngồi rồi anh ạ …Em đi tìm mùa thu trên những nóc nhà …Buổi sáng của em trên tàn cây xanh… Có con chim hót tên người vừa kịp biết … Bông cúc nhỏ đã một thời đi lạc… Và ta buông khi chưa kịp bắt đầu Và mùa thu chưa kịp về trên nóc nhà sau những đêm mất ngủ” (Trích trong bài thơ : “Rồi cũng hút xa” của Sâm Cầm) “nàng sẽ đi ngược từ phía hoàng hôn không đi bằng gương soi mà đi bằng đôi mắt sáng …. có vài người đàn bà đối diện với cơn mưa và một căn phòng nàng vẽ cho họ nhiều chiếc gối vật thể để ôm và không bao giờ nguy hại “( trích trong bài thơ : “Nào biết trước gai đâm” của Sâm Cầm) Người làm thơ dở ở ta còn nhiều hơn sao trời. Thậm chí nhìn vào góc độ truyền thông đại chúng, những người làm thơ dở có khi còn có công gây cười giúp ta xả stress; ví như các chương trình “ Chiếc nón kỳ diệu” của anh Tuấn Tú trên VT 3 làm người nghe cười vỡ bụng vì các bác, các em, các chị dự thi thi nhau nói thơ, kể thơ bằng vè, tấu, tuy rất là phản thơ, lại được anh Tuấn Tú khen hay….Thơ dở đang lên giá vùn vụt. Trong hơn mười năm gần đây, các tập thơ giở được giải có khi lên với vài ba trăm triệu. Các giải thi thơ rời cũng được giải một hai bài giá lên vài ba chục triệu. Không có đơn vị nào tổ chức thi thở dở văn dở cả. Họ thi thơ hay văn hay nhưng khi trao giải thưởng lại toàn trao cho những tập thơ dở nhất, tập văn dở nhất mà thôi. Ngay cả những đợt trao giải thường niên của đơn vị nọ, ban giám khảo mù thơ vẫn quyết chọn những tập thơ dở nhất để trao giải mới là lạ. Những tập thơ hay của Cát Du, Nguyễn Thị Đạo Tĩnh, Nguyễn Thị Ánh Huỳnh… đều bị loại để nhường chỗ cho nền thơ dở lên ngôi.Khi hầu hết các cuộc thi văn học, thi thơ không lấy tiêu chí hay dở làm trọng, mà căn cứ vào nhiều động cơ phi văn học, thì than ôi nền văn học nước nhà không còn nữa. Do đó, thơ dở trở thành kiểu mẫu, thành gương soi cho lớp trẻ, cứ thế mà viết, càng dở càng hay các cháu các em ơi, càng dở càng hi vọng được giải. Khi thơ dở được cấp quốc gia đến cấp phường xã tôn vinh thì cũng là lúc nền văn học nước nhà đã chết.,.Sài Gòn 01-8-2013Trần Mạnh Hảo
  7. "Truyện cực ngắn có nhiều tên gọi: truyện chớp (flash fiction), truyện bưu thiếp (postcard fiction), truyện mỏng (skinny fiction), truyện nhanh (fast fiction), vi truyện (micro fiction)... Không có một quy chuẩn cụ thể nào cho thể loại truyện cực ngắn, nhưng để được gọi là truyện cực ngắn thì dung lượng chỉ khoảng vài trang sách, vài trăm chữ, ngắn đến mức không thể rút gọn. Và truyện cực ngắn không phải là một truyện rút gọn mà được cấu trúc nén, thậm chí một câu, một chữ cũng được gọi là một truyện." Truyện cực ngắn không phải là một thể loại xa lạ. Trên thế giới, Luis Borges (Argentina), Yasunari Kawabata (Nhật Bản), Ernest Hemingway (Mỹ), Lỗ Tấn (Trung Quốc)... được xem là những cây bút tài năng, mang lại sự tuyệt thú cho người đọc từ truyện cực ngắn. Như một thách đố Ở VN, lâu nay có không ít nhà văn thể nghiệm với thể loại này, thậm chí trên tờ Kiến Thức Ngày Nay từng có cuộc thi và trang mục truyện ngắn 100 chữ. Nhưng ý thức viết thành vệt, in sách chỉ toàn truyện cực ngắn thì gần đây xuất hiện khá nhiều. Cho ra sách truyện cực ngắn có Nhật Chiêu, Y Ban, Nguyễn Thị Hậu, Nhã Thuyên, Hoàng Long... Còn đang “thâm canh” ở thể loại cực ngắn thì có: Nguyễn Nguyên Phước, Phạm Vũ Văn Khoa, Tăng Song Nam, Nguyễn Thị Hải... Vì sao là cực ngắn? Nhã Thuyên - tác giả Ngón tay út (Phương Nam Book & NXB Hội Nhà Văn) - bộc bạch: “Ban đầu tôi đến với cực ngắn vì... lười đọc văn xuôi, ngại viết cái gì dài dài, rồi dần dà cực ngắn là một sự rèn luyện, một ý thức viết”. “Vì nó như một thách đố: càng ngắn gọn, càng chính xác thì càng đạt đến sự giản dị. Viết truyện cực ngắn cũng rất thú vị vì thường mang lại bất ngờ: định viết thế này mà khi hoàn chỉnh lại ra một truyện hoàn toàn khác hẳn” - tác giả Nguyễn Thị Hậu, đồng tác giả tập sách Ngắn và rất ngắn (Phương Nam Book & NXB Thanh Niên), lý giải. Còn nhà văn, dịch giả Hoàng Long - tác giả Những tàn dư mưa (Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Ðông Tây - NXB Lao Ðộng) - cho rằng: “Tôi thấy thể loại này có nhiều cái hay. Thứ nhất là kiệm lời, thứ hai là đòi hỏi tác giả phải nỗ lực chiêm nghiệm tìm kiếm. Truyện cực ngắn còn dạy tôi biết chọn lọc ngôn từ và suy tư một cách nghiêm chỉnh, bởi nếu như không có một điều gì để nói, truyện cực ngắn không thể nào được hình thành”. Ðiểm thú vị ở truyện cực ngắn là giải quyết vấn đề tiết kiệm thời gian cho cả người viết và người đọc (tất nhiên vấn đề này được hiểu theo nghĩa tương đối, vì có khi phải mất thời gian rất lâu mới hoàn tất một truyện cực ngắn, phải bỏ ra rất nhiều ngày mới “giải mã” được một truyện chỉ một câu). Truyện “tuyệt ngắn” Nhà văn Nhật Chiêu, trong tập truyện Lời tiên tri của giọt sương (Phương Nam Book & NXB Hội Nhà Văn), gọi truyện cực ngắn của mình bằng tên gọi là “truyện tuyệt ngắn”. Tiến sĩ Nguyễn Nam (bút danh Hoàng Lương) đề xuất một cách đọc Nhật Chiêu: “Hãy thử đọc như một hành trình khảo cổ tri thức, bóc tách và tạo đa nghĩa cho tập truyện, cũng như suy nghiệm trong không gian đa chiều, đa nghĩa của văn chương”... Quả vậy, truyện “tuyệt ngắn” của Nhật Chiêu như những đoản ngôn trải ra vẻ đẹp của tâm hồn và sự sắc sảo của tư duy. Trong trang phục mới, nhà vua diễu hành. Lệnh cho dân chúng hôm ấy không ai được mặc quần áo, phải hoàn toàn trần truồng. Một đứa bé (tồng ngồng) reo lên: “A ha! Quần áo đẹp quá! Quần áo đang đi. Quần áo không vua!”. Mọi người (tồng ngồng) ồ lên: “Vua đâu rồi?”. “Vuua đââu rôồi”. Ðấy là truyện (tuyệt ngắn) Quần áo không vua của Nhật Chiêu. Và đây là truyện ngắn (một câu) cũng của Nhật Chiêu: Từ sau lưng, Tương lai đuổi theo kẻ tội phạm và tống y vào tù để y ngồi đó mà đón đợi Quá khứ (truyện Thời gian). Với hai truyện ngắn vừa dẫn của Nhật Chiêu, có thể thấy sự thú vị của thể loại truyện cực ngắn là đọc nhanh, nhớ nhanh nhưng thấm rất lâu. Với một số ít câu chữ thì phép ẩn dụ là một chọn lựa khả thi. Tuy nhiên, truyện cực ngắn hoàn toàn có thể làm nhiệm vụ phản ánh hiện thực một cách sắc sảo, hay đề cập những vấn đề thời sự xã hội một cách kịp thời. Nếu như người viết “nén” tâm trạng, thông điệp trong truyện, thì người đọc “giải nén” bằng những chìa khóa riêng của mình. Hãy thử đọc một truyện cực ngắn của Nguyễn Thị Hậu: Tháng bảy mùa xá tội vong nhân. Những ngôi chùa lớn nhỏ đông người lui tới đèn nhang. Tháng bảy mưa ngâu... Sài Gòn áp thấp nhiệt đới, phố xá khuất trong mưa, nhà cửa mờ sau màn nước. Từ trong ngôi chùa lớn một chiếc xe hơi sang trọng chạy ra. Qua vũng nước đọng ở cửa chùa làm nước bắn tung tóe lên người ông già bán vé số đứng nép dưới mái hiên. “Mô Phật” - ông già khẽ nói”. “Mô Phật”, giọng trầm bổng mấy Thầy ngồi trên xe hơi cũng nói (truyện Xá tội vong nhân). Như vậy, truyện cực ngắn khi được các nhà văn ý thức sáng tạo, với tâm thế đồng hành cùng cuộc sống thì sẽ sản sinh những tác phẩm hay. Còn với bạn đọc, việc có trên tay một cuốn sách bỏ túi (pocket book) hay một tập truyện cực ngắn đơn giản trước hết là một sự lựa chọn tiêu dùng trong cuộc sống hối hả hôm nay. Theo Tuổi Trẻ
  8. dhh đồng ý với nhận xét của NM đấy. Có bài thơ đọc được đàng hoàng là vui lắm à. Cuộc thi này của aotrang.vn, vậy cỡ "bác"dhh có dự thi không, NM đoán thử xem? Chúc vui khỏe nhé..
  9. Nhân 65 năm phong trào thi đua yêu nước, để góp phần xây dựng con người mới trên cơ sở lao động sáng tạo và ứng xử văn hoá, báo Người Hà Nội phát động cuộc thi thơ với mong muốn cổ vũ đợt sáng tác rộng khắp, nhằm chọn lựa được những tác phẩm hay, những cây bút nổi trội tiếp tục đóng góp vào chặng đường văn chương và sự nghiệp xây dựng xã hội mới hôm nay. I. Chủ đề Thơ thể hiện khát vọng về lao động sáng tạo và quan hệ cao đẹp trong cuộc sống II. Đối tượng tham gia Các tác giả là công dân Việt Nam và kiều bào ta ở nước ngoài. Ban Giám khảo, Ban Thư ký và Ban Tổ chức của cuộc thi không được tham gia dự thi. III. Thời gian Ban tổ chức nhận tác phẩm kể từ ngày ra thông báo đến hết ngày 31/12/2013 (Căn cứ theo dấu bưu điện và ngày gửi qua email) IV. Địa chỉ nhận tác phẩm dự thi Báo Người Hà Nội Địa chỉ: 126 Nam Cao, Giảng Võ, Ba Đình, Hà Nội Điện thoại: 043. 8465092 Email: nguoihanoibao@yahoo.com V. Tác phẩm dự thi - Thơ: Mỗi tác giả gửi 1 lần nhiều nhất 5 bài thơ, mỗi bài không quá 350 từ. (Không nhận thơ Đường luật và thơ thiếu nhi). Mỗi tác giả gửi không quá 3 lần (cần ghi rõ những lần đã gửi, để tránh nhầm lẫn, thất lạc, trên đầu trang ghi rõ Tác phẩm dự thi) - Tác phẩm dự thi phải là tác phẩm mới, chưa được phổ biến dưới bất kỳ hình thức nào. Không có tranh chấp về bản quyền tác giả. - Tác phẩm dự thi được đánh vi tính trên khổ A4, trên một mặt giấy hoặc qua email phông chữ Times New Roman. VI. Giải thưởng - Giải Nhất: 1 giải x 20.000.000 đồng - Giải Nhì: 2 giải x 10.000.000 đồng - Giải Ba: 3 giải x 5.000.000 đồng VII. Ban Giám khảo Ban tổ chức sẽ mời các nhà thơ, nhà văn có uy tín và có kinh nghiệm chấm thi tham gia Hội đồng vòng sơ khảo và chung khảo. VIII. Công bố kết quả và trao giải: tháng 1/2014 - Giá trị giải thưởng sẽ được trao trực tiếp cho các tác giả có bài viết được giải hoặc người được tác giả uỷ quyền, trường hợp tác giả không có điều kiện tham dự lễ nhận giải, Ban Tổ chức sẽ gửi qua đường bưu điện sau khi kết thúc cuộc thi. Ban Tổ chức cuộc thi rất mong sự hưởng ứng, tham gia nhiệt tình của các tác giả trong và ngoài nước, để cuộc thi đạt được kết quả tốt.
  10. Một vài nhận xét về thơ trong cuộc thi Tình hạ.NGUYỄN THẾ DUYÊN Trước tiên cho tôi được gửi lời chúc mừng đến các bạn đoạt giải trong cuộc thi tình hạ. Tôi có đọc ý kiến của bạn Bạch Vân “Em rất muốn biết nhận xét của ban giám khảo về các bài…” Thể theo yêu cầu của bạn Bạch Vân và theo đề nghị của bạn Nắng Xuân tôi xin đưa ra một số nhận xét của cá nhân tôi (Của cá nhân tôi thôi nhé) về chất lượng của thơ dự thi năm nay. Tôi sẽ cố gắng đi sâu phân tích những bài thơ đoạt giải mong giải đáp một phần nào những thắc mắc của các bạn trẻ. Nhìn chung mà nói thơ dự thi năm nay, các bạn đã tiến một bước rất dài trong thơ. Thơ các bạn đã nhuyễn hơn, biết dùng nhiều những hình tượng để nói lên những cảm xúc của mình. Nhưng các bạn cũng đã có một bước lùi dài không kém. Có mâu thuẫn không với hai nhận xét này? Không mâu thuẫn đâu. Các bạn tiến ở kĩ huật làm thơ nhưng các bạn lại lùi trong cảm xúc thơ. Nhiều bài thơ của các bạn rơi vào sáo mòn, cũ kĩ. Đọc bài thơ lên thấy nó mượt mà hình tượng đẹp chứng tỏ kĩ thuật làm thơ của các bạn rất tốt nhưng không để lại được một ấn tượng gì mới lạ. Ví dụ như “Nhớ ai tốc xõa vai mềm Song thưa dõi dáng, nén kìm sợi thương. Cung tình nhối nhịp tơ vương. Trăm năm lạc cảnh thiên đường nợ duyên. Câu thơ rất mượt nhưng tất cả câu thơ từ hình ảnh đến tứ thơ đều rất xưa cũ không gây được cảm xúc cho người đọc. Những câu thơ như thế này hầu như bạn nào cũng mắc phải kể cả những bài thơ đoạt giải như câu Phượng đâu bằng má em hồng. Mắt huyền tựa ánh trăng lồng bóng mây Của bài thơ đoạt giải ba “Rước tình vào hạ” cũng sáo mòn xưa cũ. Xin lỗi tất các bạn nào bị tôi trích dẫn ra đây. Tôi không muốn trích dẫn sợ các bạn tự ái (Văn mình vợ người mà) nhưng nếu không trích dẫn thì không nêu bật được vấn đề và bạn Nắng Xuân có nói với tôi “Anh đừng ngại, vấn đề là làm sao cho các em học hỏi, biết để tiến lên”. Tôi đã có lần nói “Ý tưởng không phải là tất cả! Nhưng thơ mà không có ý tưởng khác lạ thì chưa phải là một bài thơ hay.” Trên phương diện này mà xét thì những bài thơ được giải là xứng đáng. Trước tiên ta xem thử bài thơ đoạt giải nhất “Hạ con gái”. Bài thơ này có nhiều cái được và cũng có nhiều cái chưa được. Cái hay đầu tiên của bài thơ chính là ý tưởng ví mùa hạ như một cô gái. Mà mùa hạ ở đây không chỉ là thời tiết mà là cả khung cảnh thiên nhiên mùa hạ. Với cái ý tưởng này tác giả của nó đã vẽ nên một khung cảnh nên thơ với những hình tượng rất lạ “Mây xõa tóc đắp mền lên ngực ruộng” Quang cảnh thiên nhiên mùa hạ đuộc tác giả vẽ nên bằng những nét rất sinh động Cánh đồng xa ngây ngây mùi rạ mục. Gió nhởn nhơ khua gợn sóng ao làng Bầy cá nhỏ nghịch đùa bong bóng nước Gốc tre già thả chiếc lá chen ngang Một khung cảnh rất thanh bình, nên thơ. Những hình ảnh rất chọn lọc , trong sáng. Riêng khổ thơ thứ năm là hay nhất. Những ý tưởng được giấu kín chỉ hơi gợi mở dẫn hướng cho cảm xúc của người đọc thăng hoa. Sấm triều đông dư âm lời biển vọng. Chim bàng hoàng rũ cánh nép vào cây. Hạ con gái bỗng rưng vài giọt lệ. Chờ khát khao vỡ nứt mặt sông dài. Tuy nhiên bài thơ cũng có nhiều cái chưa được. Cái chưa được đầu tiên chính là khổ thơ thứ ba Gió xô cửa len vào căn phòng ấm Nằm khỏa thân lũ chăn chiếu ỡm ờ. Bàn trần trụi tênh hênh trang sách mở Chú thạch sùng tặc lưỡi giữa cơn mơ Tôi đoán rằng tác giả của nó tâm đắc với khổ thơ này nhất vì ý tưởng của khổ thơ là lạ nhất hơi sex . Chắc rằng không chỉ riêng tác giả của bài thơ mà nhiều bạn trẻ khác cũng thích câu thơ này.Tôi cho khổ thơ này là dở không phải vì tôi cổ hủ , một lão khọm già đâu. Khổ thơ này là hay nếu đặt nó vào bài “ Rước tình vào hạ” còn như đặt nó vào bài “Hạ con gái” thì khổ thơ trở nên lạc lõng. Giữa một khung cảnh thiên nhiên mùa hạ nên thơ, thanh bình mà có khổ thơ này thì chẳng khác gì một cô gái mặc váy ngắn vào lễ chùa. Cô gái đó có thể là rất đẹp nhưng chắc chắn nhà chùa sẽ mời cô gái ra ngoài. Bài thơ còn một điểm yếu khác nằm ở chính tiêu đề của bài thơ. Ngoài câu “Mây xõa tóc đắp mền lên ngực ruộng” Thì cả bài thơ không có một chi tiết nào để cho người đọc có thể liên tưởng đến người con gái mùa hạ cả. Lẽ ra tác giả nên chọn lựa những chi tiết để có thể nhân hóa mùa hạ với cô gái thì bài thơ sẽ hay hơn nhiều. Cả bài thơ không có câu nào sáo mòn đấy cũng là cái hay của bài thơ này. Ta chuyển sang bài Đoạt giải hai “Mùa sen” Đọc bài thơ này tôi tự hỏi “Đây là một ông cụ thật hay một ông “Cụ non”? Nếu là một ông cụ thật thì đây là một bài thơ hay. Thậm chí là rất hay. Tôi đưa ra một văn cảnh để chúng ta hình dung ra bài thơ này” một người Đàn bà đã cao tuổi chồng chết. Sau nhiều năm đơn độc bỗng dưng một hôm trái tim người đàn bà ấy bỗng xao động” Nếu theo văn cảnh này thì bài thơ hay. Nó mang âm hưởng của những bài cổ thi.Tình cảm đuộc dấu kín trong những hình tượng đuộc nhân hóa một cách rất già dặn “ Buốc qua bờ hoàng hôn” hay “Bọc kén tâm hồn”. Hai câu kết là tuyệt vời Dậy một mầm sen đỏ TIẾNG QUYÊN VỪA SANG CANH Hai câu thơ này dẫn liên tưởng của người đọc mênh mang đến vô cùng. Nhưng nếu là một “Cụ non” Thì sao? Thì đây là một bài thơ thất bại. Tôi nói là thất bại chứ không nói là bài thơ dở. Tại sao vậy? Vì nếu là một “Ông cụ non” Thì cái điều tôi vừa nói với các bạn chắc không phải là điều tác giả của bài thơ muốn nói đến. Đọc một bài thơ, người đọc có thể cảm thụ theo mọi góc độ khác nhau. Nhưng nhà thơ phải dẫn hướng được cho cảm xúc của người đọc gặp được cảm xúc của mình khi viết thì bài thơ mới thành công còn nhà thơ không dẫn hướng được cho cảm xúc của người đọc gặp cảm xúc của mình thì đó là một bài thơ thất bại. Nó cũng giống như khi bạn tán tỉnh một cô gái đáng lẽ ra bạn phải làm cho cô gái yêu mình thì bạn lại làm cho cô gái ghét mình thì dù lời bạn tán tỉnh có hay đến mấy thì bạn cũng là thất bại. Ta chuyển sang bài đoạt giải ba bài “Ruốc tình vào hạ”. Tôi khá ấn ấn tượng với bài thơ này. Một bài thơ sex mà không sex. Có thể cảm nhận nó theo hướng nào cũng đuộc. Đấy chính là cái khác lạ của bài thơ. Tình yêu là cái không thể định nghĩa đuộc nên lời thơ phải chăng vì thế mà không có một quy luật nào Say say ta cạn chén đầy đầy em Bài thơ nói nên đuộc cái đam mê mãnh liệt của tuổi trẻ “Khóa vòng vô tận trói ghì siết đêm”. Cái hay của bài thơ là ở chỗ tác giả của nó đã đưa ra những hình ảnh tưởng như là rất trái nguộc với nhau nhưng lại rất thống nhất với nhau. Tưởng như mâu thuẫn mà lại hóa ra không mâu thuẫn. Cái “trói ghì siết đêm” nó như ngược với “Bình yên lạ kì” nhưng nó đúng là như thế. Tuy nhiên bài thơ cũng chỉ thế thôi. Nó không đẩy được cái suy tư của người đọc lên đến đuộc tầm cao của sex. Và “Hồn nhiên cởi nút nhu mì” Hai từ” Hồn nhiên” ở đây rất đáng để chúng ta bàn luận. Tôi chỉ đi sâu phân tích ba bài đoạt giải cao thôi vì phân tích tất cả thì không có thời gian. Tuy các bạn có một bước tiến dài về kĩ thuật làm thơ nhưng cũng nên nhắc nhở các bạn về ngôn ngữ trong thơ. Nhiều bạn dùng từ rất sượng Ví dụ câu Chiếc hạ lặng thầm ôm dáng nhỏ Hai từ “Chiếc hạ” đọc lên rất không thuận hay câu Nhưng chú chim non Lăn tăn như chú bé Hai từ “Lăn tăn” những từ như thế các bạn mắc phải rất nhiều. Đấy còn chưa kể đến việc các bạn dung nhiều từ và cụ từ quá cổ điển như “Mi hoen cánh phượng” , “Mảnh tình si”V…v… Những từ và cụm từ như thế nên tránh trong thơ. Mỗi một cuộc thi bao giờ cũng có chủ đề của nó. Ở đây là TÌNH HẠ vì vậy những bài thơ không phù hợp với chủ đề này dẫu có hay cũng vẫn bị loại vì lạc đề các bạn nên rút kinh nghiệm cho các cuộc thi sau. Ý kiến cuối cùng xin dành cho Ban Tổ chức. Khi chấm một cuộc thi nhất là một cuộc thi thơ thì không thể có barem. Cho điểm một bài thơ phụ thuộc nhiều vào gu của người chấm nhưng nhưng thực ra cái gu của người chấm cũng không chênh lệch nhau quá nhiều vì thành phần Ban Giám khảo chắc chắn được lựa chọn bởi những người có khả năng thẩm thơ. Sự chênh lệch về điểm số nằm ở cách cho điểm từng bài . Có người nghĩ rằng văn không có điểm 10 chỉ cho 8 (Hoặc 80) chẳng hạn tức là cái giới hạn trên của mỗi người chấm là khác nhau nên điểm số của từng bài có một độ tản mát rất cao. Nên quy định bài hay nhất điểm 10 bài hay nhì điểm 9 bài hay ba điểm 8 bài hay thứ tư điểm 7 và bài hay thứ năm là điểm 6 còn lại tất cả là năm điểm thì tôi nghĩ rằng cách cho điểm như thế sẽ làm mất đi sự tản mát của người chấm. Cuối cùng xin chúc mừng tất cả các thi sỹ tương lai. Xin hẹn gặp lại các bạn trong cuộc thi sắp tới
  11. Trang website aotrang.vn vửa tổ chúc cuộc thi thơ TÌNH HẠ vời hai thể loại thơ tự do và thơ Đường luật. Qua 3 tháng đã có đông đảo các thành viên hưởng ứng. Thể thơ tự do có 73 bài qua vòng sơ khảo, chọn 18 bài vào chung khảo và quyết định trao giải cho 6 tác phẩm ( 6 tác giả). Thể Đường luật có 53 bài qua vòng sơ khảo và 13 bài lọt vào chung khảo, quyêt2 định trao giải cho 4 tác phẩm (4 tác giả) Xin giới thiệu Kết quả của thể loại thơ tự do: Chúc mừng các tác giả đã đạt kết qủa cao nhất trong cuộc thi thơ " TÌNH HẠ " 2013 do diễn đàn Áo Trắng tổ chức Chúc mừng các tác giả đoạt giả cao trong thể thơ tự do GIẢI NHẤT Trao tặng tác giả Thái Văn Lợi HẠ CON GÁI Ngoài cửa sổ hạ vào thì con gái Găm nắng vàng từng vệt ngã liêu xiêu Mây xõa tóc đắp mền lên ngực ruộng Trời im ru xa vọng tiếng sáo diều Em nghỉ ngơi mênh mang trời tháng sáu Khói rơm vờn thêu ngọt khúc đồng dao Có một lũ ve sầu đi hát dạo Lả lơi từng cánh phượng đỏ theo sau Gió xô cửa len vào căn phòng ấm Nằm khỏa thân lũ chăn chiếu ỡm ờ Bàn trần trụi tênh hênh trang sách ngủ Chú thạch sùng tắc lưỡi giữa cơn mơ Cánh đồng xa ngây ngây mùi rạ mục Gió nhởn nhơ khua gợn sóng ao làng Bầy cá nhỏ nghịch đùa bong bóng nước Gốc tre già thả chiếc lá chen ngang Sấm triền đông dư âm lời biển vọng Chim bàng hoàng rũ cánh nép vào cây Hạ con gái bỗng rưng vài giọt lệ Chờ khát khao vỡ nứt mặt sông dài Ngoài cửa sổ rơi ngập ngừng lá đỏ Nắng oi nồng mây ủ xám chân trời Em khe khẽ trở mình xua giấc hạ Tháng sáu để dành thêm chút thảnh thơi GIẢI NHÌ Trao tặng tác giả Huy Ba MÙA SEN Ao sen hồng đã lấp Mùa hạ giờ đìu hiu Cánh sen khô vết nắng Vương vất ráng lưng chiều Quyên muốn đi bước nữa Bước qua bờ hoàng hôn Nhưng ngó tơ kỉ niệm Đã bọc kén tâm hồn Cái ao nhà tù đọng Xao vỡ ánh trăng tàn Dậy một mầm sen đỏ Tiếng quyên vừa sang canh GIẢI BA Trao tặng tác giả Lê Thị Thùy Trang RƯỚC TÌNH VÀO HẠ Vùi vào vạt tóc thơ ngây Say say ta cạn chén đầy đầy em Thẩn thờ nhớ nhớ quên quên Nồng nàn rót những bình yên...lạ kì! Hồn nhiên mở nút nhu mì* Khóa vòng vô tận trói ghì siết đêm Hạ tràn bốn phía mông mênh Men tình thắp lửa nhẹ tênh giấc nồng! Phượng đâu bằng má em hồng Mắt huyền tựa ánh trăng lồng bóng mây Lật bàn tay, sấp bàn tay Rước tình vào hạ lối đầy đam mê! GIẢI KHUYẾN KHÍCH Trao tặng tác giả Nguyễn Giang San THÁNG NĂM Đã nghe từ phía tháng năm Tiếng con ve gọi hè râm ran rồi Người mang kỉ niệm hong phơi Ong oi thương nhớ một thời lá xanh Buồn vui gom góp để dành Mang về chót mộng đành hanh nỗi đời Tuổi người trong trẻo tinh khôi Mắc gì phượng thả cánh rơi úa ngày Lòng còn dan díu cỏ may Thương đôi cánh hạc vẫy bay xa dần Mưa rây rắt hạt phù vân Bàn chân mỏi mệt thêm lần gọi đi Nương theo hướng gió nhu mì Tháng năm mở tiệc vu quy cưới mùa Ta ngồi xâu những hạt mưa Quàng lên tóc nắng em vừa hai mươi! GIẢI KHUYẾN KHÍCH Trao tặng tác giả Mai Đức Trung TÌM Chiều nay phố đổ cơn mưa Hình như kỷ niệm ngày xưa chòng chành Có người áo mỏng phong phanh Đi tìm ký ức trên nhành lãng quên! Hạ còn xót lại cái tên Của người năm cũ cạnh bên một người... Tình đầu năm tháng khôn nguôi Em xưa, cùng những nụ cười thiên thanh Đâu rồi áo trắng mong manh? Rêu mòn lối nhớ, mình anh! rêu mòn... Con đường trổ nhánh cô đơn Chú ve tấu khúc dỗi hờn ngày qua Mùa trôi hạ cũ đã xa Ngoài kia chiếc lá la đà, thu sang? GIẢI KHUYẾN KHÍCH Trao tặng tác giả Phan Duy CHIỀU XA Mưa ngơ ngẩn Thì thầm lên phiến hạ Nép cong thềm môi thắm điểm chiều xa Hạt sương nào Nghiêng mình Đọng hờn qua kẽ lá Mà nghịch tơ đàn bỡ ngỡ điệu phôi pha. Vẫn biết mùa lạc dấu đôi ta Màu phượng tím có giọt mưa lăn tròn nỗi nhớ Nửa câu thơ, ai ! Đợi vần nằm yên trong vở Hay hạ vô tình Trở lạnh mấy nhành thương.
  12. CHÚC MỪNG 14 TÁC GIẢ SẼ ĐƯỢC TRAO THƯỞNG LỤC BÁT TRĂNG VÀNG VÀ LỤC BÁT TRĂNG BẠC LẦN THỨ NHẤT! Kể từ cuộc thi thơ lục bát đầu tiên của báo Giáo dục và Thời đại năm 1996 -1997 đến nay, trên thi đàn chúng ta đã có nhiều cuộc thi Thơ Lục Bát. Nhưng đây là lần đầu tiên một cuộc thi sáng tác thơ Lục Bát về đề tài Phật giáo được tổ chức, với quy mô và thời gian kỷ lục: Kéo dài tới 6 năm (2012 – 2018). Và cũng lần dầu tiên ở nước ta có một bộ giải thưởng bằng Vàng và Bạc thật, được trao cho các tác giả đạt giải. Đó là những ý tưởng, sáng kiến độc đáo của lucbat.vn – Một trang web cộng đồng phi lợi nhuận, được điều hành bởi những nhà thơ tình nguyện viên. Ngay từ khi thành lập, cách đây 5 năm, vào đúng ngày 6 tháng 8 âm lịch, lucbat.com (nay là Lục Bát Việt Nam – Lucbat.vn) đã nhận được sự hưởng ứng nồng nhiệt của những người yêu thơ lục bát trong cả nước, nên khi cuộc thi thơ Lục Bát với nội dung “Tổ quốc và Đạo pháp” được Lục Bát Việt Nam khởi khởi xướng và phát động, thì được đông đảo bạn viết tham gia. Về nội dung, “Tổ quốc và Đạo pháp” rất rộng, hầu như ôm chứa mọi tâm tư, suy nghĩ và tình cảm của chúng ta: Tình yêu quê hương, đất nước; tình yêu giữa con người với nhau, về lòng nhân đạo… Như thể lệ đã thông báo: Cuộc thi sẽ kéo dài trong 6 năm, mỗi năm đều có Tổng kết và trao giải… Và sau 6 năm sẽ là “Đại Tổng kết”: Ngoài bộ giải thưởng 6 Lục Bát Trăng Vàng và 8 Lục Bát Trăng Bạc; còn có một giải thưởng độc đắc mang tên “Kim cương”, trị giá tới một “cây” vàng. Cuộc thi năm nay bắt đầu nhận bài từ ngày 12 tháng 9 năm 2012, và kết thúc nhận bài vào ngày 15 tháng 7 năm 2013. Trong khoảng thời gian xấp xỉ 10 tháng đó, Ban Tổ chức đã nhận được trên 700 tác phẩm của hàng trăm tác giả ở mọi miền đất nước. Ban Sơ khảo đã làm việc và thống nhất đưa lên Ban Chung khảo 21 tác giả xuất sắc nhất với tổng số 36 bài thơ. Ban Chung khảo gồm nhà thơ Vương Trọng (Trưởng ban) và các nhà thơ Trần Nhương, Đặng Vương Hưng, Bùi Kim Anh và Thu Nguyệt là các ủy viên. Một điều thuận lợi là nhiều ủy viên ban Chung khảo đã từng tham gia chấm thi cho nhiều cuộc thi thơ, kể cả thi thơ Lục Bát, nên có kinh nghiệm làm việc, dễ thống nhất với nhau trong cách thức bỏ phiếu và cho điểm. Trước hết, Ban chung khảo thống nhất loại ra những bài thơ “phạm quy”, nghĩa là những bài thơ đã được tác giả sử dụng in báo giấy, hoặc công bố trên mạng internet, trước khi xuất hiện trên Lucbat.vn. Đó là bài thơ “Sau lá bồ đề” của tác giả Nguyễn Minh Khiêm và bài “Một mình đong gió chiều đông” của Phạm Minh Trâm. Phần này, có công phát hiện của cư dân mạng Lucbat.vn. Lục Bát là thể thơ hết sức coi trọng vần và điệu. Bởi vậy, Ban Chung khảo đã thống nhất với nhau: Những bài thơ có những câu thơ thất vận (không vần) hoặc lặp vần thì sẽ bị “hạ” điểm. Và thực tế, có những bài đã bị “phạt” vì lý do này, như: “Với lên chạm tới thiên đình” của Phạm Minh Giắng, “Quê tôi miền Trung” của Phùng Thị Như Hà, “Chiều hồ Tây” của Phạm Đình Nhân và “Bồ đề tâm” của Phạm Khắc Uyên. (Tuy nhiên, do tôn trọng kết quả Sơ khảo, nên chúng tôi vẫn công bố cả chùm thơ được giải). Còn lại 30 bài, được từng thành viên Ban Chung khảo chấm bằng cách cho điểm. Cách thức cho điểm được thống nhất như sau: Số bài này được chia thành bốn loại, tương ứng với các điểm: 6, 7, 8, 9. Nghĩa là bài hay nhất được cho 9 điểm, kém nhất là 6 điểm. Ban Chung khảo không làm theo lối cho điểm các bài thơ từ 1 đến 10, vì không ai có thể phận loại thơ chi ly được như thế. Hơn nữa, việc phân loaị quá xa nhau như thế dễ tạo kẽ hở cho người chấm thi, nếu như không công tâm, có tính thiên vị thì dễ thực hiện được ý đồ của mình. Như vậy là, các thành viên Chung khảo cho điểm từng tác giả, mỗi tác giả có thể là một bài hoặc một chùm, sau đó cộng số điểm của từng thành viên đã cho lại, chia ra lấy điểm trung bình, lấy từ trên cao xuống thấp: 6 người có số điểm cao nhất sẽ được Giải Vàng và 8 người tiếp theo (có số điểm từ thứ 7 đến 14) sẽ được Giải Bạc. Do yêu cầu của Ban Tổ chức, muốn bí mật kết quả cụ thể đến phút chót, nên trong bài viết này, chúng tôi chỉ công bố 14 tác giả trúng giải sau đây (xếp thứ tự tên theo vần a, b, c): 1- Tác giả: DU AN Địa chỉ: Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Điện Biên Với chùm thơ 2 bài: Làng trời; Cát bụi xanh rì 2- Tác giả: ĐỖ BÁ CUNG Địa chỉ: CLB Lục Bát Việt Nam Thành phố Hải Phòng Với bài thơ: Quán quê 3- Tác giả: PHẠM MINH GIẮNG Địa chỉ: Trung tâm Bảo trợ xã hội Vũ Thư, tỉnh Thái Bình Với chùm thơ 3 bài: Với lên chạm tới thiên đình; Rúc ra rúc rích; Cây đa cảnh 4- Tác giả: NGƯNG THU (tức PHÙNG THỊ NHƯ HÀ) Địa chỉ: Trường THCS Tân Hà, Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận Với chùm thơ 3 bài: Quê tôi miền Trung; Đi giữa muôn trùng; Hành trình tôi đi 5- Tác giả: NINH ĐỨC HẬU Địa chỉ: Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Ninh Bình Với chùm thơ 2 bài: Người đàn bà ngồi trên bậu cửa; Cánh đồng trả ơn 6- Tác giả: NGUYỄN BÁ HÒA Địa chỉ: Trường Đại học Quảng Nam – Tam Kỳ, Quảng Nam Với chùm thơ 3 bài: Những điều bình dị; Ngỡ; Giọt nắng cuối ngày 7- Tác giả: NGUYỄN NGỌC HƯNG Địa chỉ: Thị trấn Chợ Chùa, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi Với chùm thơ 2 bài: Niệm; Gió từ mộ gió 8- Tác giả: PHAN THÀNH MINH Địa chỉ: Thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng Với chùm thơ 3 bài: Tình quê; Chị dâu tôi; Đã tằm thì phải nhả tơ 9- Tác giả: NGUYỄN TẤN ON Địa chỉ: Thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng Với bài thơ: Tắm trăng 10- Tác giả: LƯƠNG THẾ PHIỆT Địa chỉ: CLB Lục Bát Việt Nam Thành phố Hải Phòng Với chùm thơ 3 bài: Mo cau; Ổ rơm hơi ấm vẫn còn; Tiếng gậy khua 11- Tác giả: LẠI QUANG PHỤC Địa chỉ: 31 Chùa Cả, P. Vị Xuyên, TP. Nam Định Với bài thơ: Không gian thiền 12- Tác giả: ĐOÀN VĂN THANH Địa chỉ: Tập thể Học viện Chính trị Quân sự Hà Nội Với chùm thơ 2 bài: Chớm đông; Mẹ đi như hạt sương sa 13- Tác giả: PHẠM TRỌNG THANH Địa chỉ: Số 6/22, phố Ngô Quyền, TP. Nam Định Với bài thơ: Thi khúc Bình Định 14- Tác giả: PHẠM KHẮC UYÊN Địa chỉ: 224 Nguyễn Trãi 2, Sao Đỏ, Chí Linh, Hải Dương Với chùm thơ 2 bài: Bồ đề tâm; Nhân sinh Nhà thơ Vương Trọng (Trưởng Ban Chung khảo)
  13. Kết quả thi sáng tác thơ Haiku tiếng việt tại sự kiện Giao lưu văn hoá Hội An-Nhật Bản lần thứ XI Tại đêm bế mạc “Giao lưu văn hóa Hội An- Nhật Bản lần thứ 11”, 25/8, TP Hội An đã trao giải thưởng cho 18 bài thơ haiku bằng tiếng Việt xuất sắc nhất. Các tác phẩm đoạt giải trong cuộc thi lần này được trưng bày ngay trên phố cổ Cuộc thi sáng tác thơ haiku bằng tiếng Việt được thành phố Hội An phát động vào cuối tháng 7/2013 và kết thúc nhận bài ngày 15/8/2013. Chủ đề chung của cuộc thi là chào mừng kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản và sự kiện “Giao lưu văn hóa Hội An- Nhật Bản lần thứ 11”. Trong đó tập trung thể hiện sự cảm nhận về đất nước và con người Nhật Bản, Hội An; truyền thống giao lưu văn hóa Hội An - Nhật Bản. Thơ haiku có lịch sử hơn 400 năm, là lối thơ không đặt đề; là thể thơ ngắn của Nhật Bản gồm 17 âm tiết 5-7-5, ngắt nhịp thành 3 câu. Thơ haiku ghi lại sự vật, sự việc một cách hiện thực, đơn giản nhưng truyền tải một cách sâu sắc cho người đọc. Thơ haiku nói về một khoảnh khắc cảm nghiệm của người viết trước thế giới cuộc sống. Cảm nghiệm từ khoảnh khắc ấy hình thành từ sự hòa quyện của 3 thứ mà K.Yasuda gọi là 3 yếu tố tương đương với 3 câu hỏi: nơi nào? chuyện gì? khi nào?. 56 tác giả với 433 bài thơ Haiku tiếng Việt tham gia hội thi sáng tác Thơ Haiku tiếng Việt tại sự kiện “Giao lưu Văn hóa Hội An – Nhật Bản” lần thứ XI-2013. Sau khi chấm chọn qua 02 vòng sơ khảo và chung khảo , BTC thống nhất với kết quả như sau: * Giải Nhất: 01/ Bài thơ: Phố xưa Lanh canh guốc mộc Tan vào cơn mưa Tác giả: Đỗ Thượng Thế - Trường Phạm Như Xương, Điện Ngọc, Điện Bàn,Quảng Nam. * Giải Nhì: 01/ Bài thơ: Sông Hoài Dùng dằng Thơ ai sóng vỗ Tác giả: Phan Văn Tám- 196 Tôn Đức Thắng - Tân Lập – Tân An – Hội An. 02/ Bài thơ: Con thuyền trên sông Chòng chềnh ngọn sóng Mái chèo bỏ quên Tác giả: Đỗ Văn Nhàn (Minh Nhàn) - 101 Nguyễn thị Minh Khai– Hội An. * Giải Ba: 01/ Bài thơ: Thấp thoáng Kimono Trên con đường phố cổ Gợi nhớ hoa anh đào Tác giả: Lê thị Kim Hoa (Kim Hoa) - 101 Nguyễn thị Minh Khai – Hội An. 02/ Bài thơ: Phố cổ Đèn lồng soi bóng Chờ ai. Tác giả: Lê thị Tân (Lê Trầm Thanh)- Xã Tam Anh Nam – Núi Thành, Quảng Nam 03/ Bài thơ: Hoa tay Kim Bồng Phố cổ bay lên Tác giả: Phan Văn Tám- 196 Tôn Đức Thắng - Tân Lập – Tân An – Hội An. 04/ Bài thơ: Đứa bé Phóng sanh bầy sẻ Sáng chân trời Tác giả: Đỗ Thượng Thế - Trường Phạm Như Xương-Điện Ngọc-Điện Bàn-Quảng Nam. 05/ Bài thơ: Cánh đồng vàng Bông lúa cong mình Tôi nhìn thấy mẹ Tác giả: Nguyễn Thị Khánh Hòa - Hội An * Giải Khuyến khích: 01/ Bài thơ: Mái chùa Cầu mến thương Ngàn năm soi bóng dòng Hoài phố Tưởng nhớ người viễn phương... Tác giả: Nguyễn Văn Lớn (Kiều Lam) - 55 Sinh Trung-Nha Trang. 02/ Bài thơ: . Mái Chùa Cầu Rêu xanh Hồn phố cổ Tác giả: Nguyễn Nguyên Khương - Cẩm Phô-Hội An 03/ Bài thơ: Trăng Thu Rơi Mái chùa Cầu Tác giả: Nguyễn Nguyên Khương - Cẩm Phô-Hội An 04/ Bài thơ: Hồ sen Yếm thắm Ngực hương. Tác giả: Phan Vũ Khánh - Số nhà 30 ngõ 123A phố Thụy Khuê Hà Nội. 05/ Bài thơ: Thời gian nghiêng bóng Xanh giấc mơ đời Chiều rơi Tác giả: Lương Thị Đậm - 2A/7 Hùng Vương – Tp Nha Trang 06/ Bài thơ: Đàn cò trắng Bay về phương nam Chiều nắng Tác giả: Lê Thị Kim Chi (Phong Chi)- 99/5 ấp Cát Lái, xã Phú Hữu, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai 07/ Bài thơ: Lai Viễn Kiều Thức giấc Đôi mắt cửa nhìn nhau Tác giả: Tăng Xuyên - 51/9 Phan Châu Trinh – Thành phố Hội An 08/ Bài thơ: Cái bắt tay thật chặt Gửi tình phố cổ Nụ cười hoa anh đào. Tác giả: Tạ Lê Phương - 38 Đường 46, Phường Tân Tạo, Quận Bình Tân, TP.HCM 09/ Bài thơ: Tà áo dài tha thướt Ki-mo-no đằm thắm Trao niềm tin! Tác giả: Tạ Lê Phương - 38 Đường 46, Phường Tân Tạo, Quận Bình Tân, TP.HCM 10/ Bài thơ: Biển biến hình Lặng im không nước mắt Thế giới nghiêng mình Tác giả: Nguyễn Tiến Long-64/81C ; KP: 3 ; F. Tam Hòa ; Biên Hòa ; Đồng Nai
  14. YẾU KÉM DỄ THẤY KHÓ CÃI CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM Nguyễn Hoàng Đức Trong kinh tế chúng ta không minh bạch thì có vô số những kẻ hãm tài nhưng tham nhũng giầu sụ, giầu đến mức có thể đánh một ván cờ vài tỉ đồng, mà đấy mới chỉ là cán bộ cấp tỉnh, cấp cao hơn thì không biết cỡ nào?! Trong học tập nếu không minh bạch có vô số kẻ dốt nát nhưng quay cóp xin điểm vẫn đỗ xuất sắc. Trong văn học có vô số những kẻ không muốn minh bạch để à uôm ra vẻ văn học là miền đất thánh không phải ai cũng xía vô được, rồi họ còn tự bảo kê mình với luận điệu phải có thiên bẩm mới viết được văn thơ, nhưng mà với cái “thiên bẩm” giả vờ tưởng tượng đó họ lại co cụm cấu kết bè cánh nấp sau các ban biên tập và giám khảo thoải mái tung tác duyệt bài, trao giải thưởng cho nhau, toàn quyền văn học bụng: cho người này là biết viết văn, người kia không có văn. Để tránh tình trạng này kéo dài mãi mãi, kéo cho đến khi tất cả “văn học bụng” kia kiếm xong danh vọng và hạ cánh an toàn, tôi xin nêu rõ vài điểm chính yếu kém của văn học Việt Nam. Theo đánh giá chung, thì người Việt mới chỉ có thể tạng văn học vui đùa giải trí, thơ mẩu, thơ vụn là chính, chứ chưa yêu văn thơ theo kiểu đó là những văn bản dẫn dắt, định hướng hay thiết lập lối sống cho cuộc đời. Ở phương Tây, có rất nhiều tác phẩm, nhân vật đã trở thành hình mẫu “phát sốt” cho một lối sống mở rộng như phong trào hay xu thế thời đại. Ở ta thì chỉ có mấy câu đối, vài vần thơ bẻm mép ở trên môi. Cuộc đời cũng như thế giới không thể có nếu không có CON NGƯỜI. Văn chương không thể có nếu không có NHÂN VẬT. Cái yếu kém đầu tiên của văn học Việt Nam, chưa nói cái gì sâu xa hay cao siêu, mà cái dễ thấy nhất, đó là: Tình tiết yếu. Tôi xin lý giải từ thấp đến cao. Mới đây khi ngồi bàn luận với một anh bạn khá trẻ thế hệ 8x, có tên là Quách Đình Đạt, anh bạn này trông sáng sủa thông minh, đã từng du học ở Pháp nhiều năm, thành thạo tiếng Pháp, tiếng Anh. Kiến thức như thế cũng chưa có gì ghê lắm, nhưng cái chính anh bạn trẻ này rất hồn nhiên và thẳng tưng, không có kiểu nói ấp úng nước đôi. Anh ta bảo: “Văn học trước hết muốn hấp dẫn thì tình tiết phải hay hoặc đặc biệt, nghĩa là nó như một bản lề hay cuộc bùng nổ nào đó, dẫn bạn đọc vào một thế giới khác. Một anh chàng gặp một cô nàng, họ hẹn nhau đi uống cà phê, điều ấy chẳng có gì đặc biệt. Nhưng một anh chàng sau khi nghe tin người yêu mắc bệnh ung thư, vẫn quyết định cầu hôn nàng. Đó là một tình tiết khác hẳn”. Tại sao văn học Việt Nam vắng bóng những cuộc đấu súng, đấu gươm? Vì đó là những cuộc đấu vì danh dự. Người Việt cũng như người Trung Quốc chưa có lối sống trọng danh dự, thậm chí người ta còn thích thú bài học của Hàn Tín lòn chôn thằng hàng thịt để bảo toàn thân thể. Trong một bộ phim của Hồng Kông có cảnh một nữ tu nắm chặt lấy thánh giá rồi quyết định làm chứng dối để cứu vớt một cô gái điếm nghèo nàn trước những kẻ giầu có uy quyền gian ác. Một cảnh như vậy trong văn học Việt Nam cũng khó mà có nổi. Tại sao? Vì người Việt đâu có giầu đức tin sám hối trước Đấng toàn năng để có thể giằng xé lương tâm thực hiện một quyết định “sáng tạo” như vậy. Điện ảnh, theo từ của Bách khoa thư là “kịch màn ảnh” hiện nay đang là môn nghệ thuật hùng hậu hấp dẫn và uy quyền bậc nhất. Căn cứ vào chữ “kịch” của nó, điện ảnh là thứ bản mềm của văn học. Kịch đó đòi hỏi phải có nhân vật. Nhân vật muốn hấp dẫn thì phải có những tình tiết đáng giá. Đó là cái văn học Việt Nam cực kỳ yếu ớt. Yếu ớt từ già đến trẻ. Cụ thể, những ông vua bà chúa của truyện ngắn từ đó leo lên tiểu thuyết mi ni ba xu đã thất bại cháy vốn nặng nề vì không có được tình tiết. Truyện của lớp trẻ ngày nay như trò lắp ráp vội vàng trên điện thoại di động hay laptop, nhân vật nhạt nhẽo, tình tiết hiếm khi đi ra khỏi bản thân để trở thành “văn học được khách thể hóa”. Về mặt học thuật. Có hai đẳng cấp viết văn: 1- Kể chuyện: Theo Bách khoa, được dùng tên có gốc Latin là “Recite”, có nghĩa, kể lại, tường trình. Chuyện kể, cổ nhất là ngụ ngôn của các dân tộc, luôn có ông thánh bà tiên, các con vật biểu tượng cao với những tình tiết đắt giá. Con sói xin thò một chân vào chuồng của con thỏ là một tình tiết hay. Văn học Việt Nam có bao nhiêu tình tiết hay đây? Hay nó hiếm đến mức hàng nghìn các nhà thơ viết trường ca không có nổi nhân vật? Dăm mười năm hiếm hoi mới sinh ra nhân vật thì người này dại đến già, chẳng biết làm gì vẫn còn ngồi gãi háng? Đó có phải thất bại gần như tuyệt đối của nền thơ Việt? Thất bại đến mức, gần đây, theo các nhà thơ phản ánh, hầu hết các nhà thơ đều muốn tự gọi mình thành nhà văn. Nhà văn là ai? Mới đây CLB sáng tác thơ chui xuyên Việt đã trao giấy chứng nhận nhà thơ cho bất kỳ ai nộp 150 nghìn đồng cộng với 2 bài thơ đi chép cũng được. Sau khi có giấy chứng nhận là nhà thơ rồi, số này tất nhiên lại tự xưng mình là nhà văn. Trời ơi, thật là một cú bắc cầu ngoạn mục, lấp liếm ăn gian. Ở đời, cái bếp khác cái nhà. Cái bếp to mấy cũng không được gọi là nhà vì chức năng nấu ăn của bếp. Cái nhà bé mấy dù bị ám khói do đun nấu cũng không phải là cái bếp vì chức năng sinh hoạt của nó. Nhà văn khác nhà thơ nhiều lắm. Nhà văn là lao động nghệ thuật, hì hục viết. Nhà thơ ở Việt Nam chủ yếu mới chỉ có sinh hoạt vui thú trà dư tửu hậu vần vèo. Tư duy hai bên khác hẳn nhau. Một đằng tiệp cận trà sát thẳng thừng với cuộc đời. Một đằng chỉ thích ẵm nựng với mấy câu khen bùi tai giành cho vài câu lèo tèo cảm xúc ngọt như đường. 2- Sáng tạo, hay Kiến tạo: Theo Bách khoa nó có tên gốc Latin là “Compose”. Trong từ sáng tạo này nó mang ý nghĩa của từ Kiến trúc hay Thiết kế. Nó bao gồm chữ Pose: tức là đặt để, từ này biết thành danh từ vị trí như Position. Nó được ghép với chữ “Com” – có nghĩa là Cùng nhau. Vậy hiểu theo nghĩa đen: Sáng tạo là lắp đặt mọi vật thành một tổ hợp lớn. Mọi vật lớn ở đời như lâu đài, máy bay, hay tác phẩm đều là sự lắp đặt từ nhiều bộ phận riêng lẻ. Có một câu nói của triết gia Hegel: Tất cả mọi vì kèo phải ăn khớp với cột. Đấy muốn lắp đặt một tòa nhà, người ta phải lắp đặt mọi vì kèo theo hướng vuông góc với cột. Một tác phẩm sáng tác văn học đúng nghĩa luôn phải bao gồm các nhân vật rồi các tình tiết, chúng phải được lắp đặt hoàn hảo với nhau. Chính vậy tác giả mới mang vai trò của một kiến trúc sư. Giới văn học Anh mới đây phát hiện văn hào vĩ đại bậc nhất thế giới Shakespeare chủ yếu viết lại những vở kịch của người khác. Vậy thì cái vĩ đại của ông nằm ở tổ hợp kiến trúc nhiều hơn là sáng kiến. Tại sao với hầu hết các nhà văn Việt Nam, cốt truyện rồi nhân vật, rồi tình tiết lại trở thành một thách thức không thể vượt qua? Chúng ta hãy nhớ, hầu hết các truyện thơ dài có nhân vật như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, hay Tống Trân – Cúc Hoa, Lưu Bình – Dương Lễ của thơ hay sân khấu kịch hát Việt Nam là phải lấy của Tầu. Có phải đơn giản chỉ vì: các tác giả Việt yếu ớt về lý trí từ đó không thể lắp đặt và kiến trúc thành tác phẩm lớn được. Than ôi, có bao giờ rèn luyện về lý trí đâu mà đòi có lý trí, chưa học đã lo biện hộ “không có thiên bẩm thì học mấy cũng không thành tài”. Chúng ta nên chắc chắn, nhạc sĩ dù có thiên bẩm bao nhiêu, nếu không học không bao giờ sáng tác được giao hưởng. Ít học thì chỉ có viết mấy đoản ca bé tẹo. Nhân vật muốn có tư tưởng thì phải đối thoại và hành động. Nhưng lý trí đã yếu nhà văn ta lấy đâu ra tư tưởng? Một cô Thị khát uống nước rồi đi tiểu, đấy không phải là hành động mà là Sinh hoạt. Rồi cô thập thò chờ đợi, rồi tình ái, rồi rửa ráy, thậm chí kể cả nhớ nhung sụt sùi, đó vẫn chỉ là sinh hoạt. Văn học Việt chủ yếu mới dừng ở sinh hoạt, có rất ít tư tưởng và hành động. Bài đã tạm dài, tôi xin rút lại: Cái yếu hiển nhiên của văn học Việt Là mì không người lái, tức thơ không có nhân vật. Kể cả một số truyện ngắn của các tác giả trẻ, nhân vật rất nhợt nhạt. Viết văn mà không có nhân vật khách thể hóa tư duy của bản thân thì có khác gì tự sướng?! Ngay đó là cái yếu về tình tiết, nó chủ yếu là sinh hoạt chứ không phải thời khắc mang tính quyết định của tư tưởng. Tư tưởng là gì? Tất nhiên nó nằm trên não và không có mùi của thức ăn theo kiểu giá áo túi cơm được. Một khi chúng ta không bao giờ ưu tư về những thứ lý tưởng như tự do, bình đẳng, bác ái, thì tư tưởng chỉ là thứ bị dạ dầy che lấp mà thôi. Cái yếu về tình tiết là rất cụ thể, mong rằng những nhà văn yếu kém nên nhận ra điều đó để vượt qua chứ không nên à uôm tưởng bở xây lâu đài kính cho mình rằng đó là tài năng theo cách của riêng ta. Văn học cũng như nghệ thuật nếu không đạt đến giá trị phổ quát nó mãi mãi chỉ là thứ ẻo lả màn the nhếch nhác nghèo nàn chỉ đáng nấp sau chiếc ri-đô. Như vậy thì bàn gì đến tầm quốc gia và thế giới? NHĐ 20/08/2013 Nguồn:Bà Đầm Xòe
  15. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều: thơ độn và những chuyện khác THU HUYỀN thực hiện ( Bài đăng trên VNT số 49 - 2006 ) Trong báo Văn nghệ số 44 có một bạn đọc viết Tản mạn về thơ độn Tiếng Anh. Nhân ý kiến này chúng tôi có cuộc trò chuyện với nhà thơ Phóng viên Văn nghệ Trẻ (PV): - Thưa nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, đã từ lâu, phảng phất đây đó cũng đã có những ý kiến rằng: Lớp trẻ bây giờ giỏi thật, biết làm thơ, viết văn độn cả tiếng Anh vào. Không hiểu có phải vì tiếng Việt của các cụ ta xưa nay nghèo quá chăng? Quan điểm của anh về hiện tượng này là thế nào? Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều: - Báo chí thường có in ý kiến bạn đọc, chuyện ấy là hết sức bình thường. Nhưng cũng cần lưu ý rằng ý kiến nào nên in, ý kiến nào không nên in. Ví dụ, các cơ quan chức năng mỗi ngày nhận rất nhiều đơn từ khiếu nại, tố cáo. Nếu tất cả các đơn thư ấy đều mang ra giải quyết ở... Quốc hội chẳng hạn, thì có đến nghìn năm cũng không hết. Vấn đề là người tiếp nhận phải biết lựa chọn, xử lý. Tôi cho rằng thơ Việt Nam hiện nay, nếu có thêm một vài tiếng nước ngoài vào thì cũng là bình thường. ý kiến phàn nàn loại này không cần thiết phải in lên báo. Hiện tượng trong một bài thơ ta có mấy câu tiếng nước ngoài không phải là một xu thế, không phải là mối đe doạ đến ngôn ngữ Việt, nó cũng không phải là sự suy đồi của thơ ca nghệ thuật và điều đó đang diễn ra hết sức bình thường. Như tôi biết có nhà thơ Mỹ đã viết những bài thơ về Việt Nam và họ cũng có nhiều câu thơ tiếng Việt chêm vào, điều đó đôi khi tạo một hiệu ứng rất hay. Tôi nghĩ việc "độn" một số từ nước ngoài vào không có nguy hại gì, nó không mang lại thông tin cho người ta nỗi lo sợ dù là rất mơ hồ xa xôi về sự phá sản hay ảnh hưởng đến ngôn ngữ Việt hay thi ca Việt gì cả.Tôi cho rằng với những góp ý như vậy, chúng ta cần cám ơn bạn đọc. Nhưng cũng không nhất thiết phải in lên báo, và điều đó tức là chúng ta đã có thái độ rồi. Tiếng Việt, trên rất nhiều loại văn bản, kể cả văn bản pháp luật của Nhà nước, đã phát triển. Nếu đánh giá sự trong sáng của ngôn ngữ theo cái cách thiển cận rằng có pha hay không pha tiếng nước ngoài thì rất nhiều loại văn bản đang tồn tại trong xã hội ta phải loại bỏ vì có sử dụng tiếng Anh và các tiếng quốc tế khác. Đó là tôi nói về mặt ngôn ngữ hành chính, chứ chưa kể đến ngôn ngữ văn chương. Và tôi nghĩ về chuyện này không có gì để phải lên tiếng cả. PV: - Vâng, việc này là nhỏ, rất nhỏ. Nhưng từ những việc nhỏ như thế này, chúng ta có thể nghĩ rộng hơn đến những chuyện lớn hơn: phải chăng cách đọc văn chương của một số lượng nhất định bạn đọc chúng ta còn chưa... đổi mới? Phải chăng, ở ta, vẫn đang tồn tại một lối đọc văn chương có phần cũ kỹ và "độc đoán", không chịu chấp nhận những cách đọc khác. Anh có thể nói một chút về điều này? Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều: - Tôi nghĩ rằng những xu hướng của văn chương nghệ thuật thế giới vào nước ta cũng như sự sáng tạo của bản thân các nhà văn ta đã mở ra rất nhiều hình thức biểu hiện. Và ngôn ngữ văn chương có những biến động . Thế nhưng... phải nói thẳng một điều rằng bạn đọc chúng ta còn rất nhiều người đọc văn với một cách thức cũ. Một câu chuyện với kết thúc có hậu, một câu văn phải đúng ngữ pháp, vân vân và vân vân. Người đọc nhiều khi đặt ra những câu hỏi tại sao lại thế này, thế kia? Không phải ai cũng biết đặt mình vào vị trí của một "người khác" để thưởng thức văn chương theo những "cách không giống mình". Nhiều người trong chúng ta không dân chủ, và không đa chiều trong việc đọc. Việc đọc của chúng ta còn hạn hẹp. Cho nên, ngay trong số những người đứng tuổi (chứ không phải chỉ những người trẻ) cũng có người cố tình không chấp nhận thể thơ truyền thống. Có những người không làm thơ lục bát cho rằng thơ lục bát không phải là thơ. Lại có những người làm thơ lục bát thì cương quyết tất cả những gì phi lục bát, không thể là thơ. Đây là sự ấu trĩ, sự hạn hẹp của chúng ta. Tôi không tưởng tượng được tại sao có những người nước ngoài đọc tác phẩm Việt Nam, họ biết ngay được toàn bộ tư tưởng còn người Việt chúng ta lại không đọc được điều đó. Hoặc ngược lại có nhiều tác phẩm nước ngoài, tác phẩm văn xuôi chẳng hạn ở đó là phong tục khác, ẩm thực, thiên nhiên, sự kiện, lịch sử, chính trị, thời đại khác nhưng chúng ta vẫn có thể đọc và nhận được ở đó sự chia sẻ, sự đồng cảm lớn, và chúng ta có thể đón nhận ở đó một cái gì cho bản thân mình. Trong khi đọc rất nhiều cuốn sách của Việt Nam bằng ngôn ngữ Việt, thói quen Việt, ẩm thực Việt, rồi cây cối Việt, nhà cửa Việt, sự kiện chính trị Việt... mà chúng ta vẫn không thể chia sẻ nổi. ở đây hoàn toàn là do cách đọc. PV : - Hiện tượng này, có lẽ liên quan đến câu chuyện người ta gọi là "định kiến" trong khi đọc. Nếu chịu khó lắng nghe, có thể thấy việc phê phán tác phẩm văn chương, ví như phê phán "Cánh đồng bất tận", không phải chỉ xuất phát từ "thói quen đọc" của các "cơ quan chức năng" ở nơi này nơi kia. Một bộ phận độc giả cũng cùng cách đọc với "cơ quan chức năng". Trong nhiều trường hợp, "dư luận" đã làm nên sức ép với chính các "cơ quan chức năng". Tất nhiên trách độc giả là chuyện không nên, mà nên trách mình chưa làm cho độc giả hiểu. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều: - Đúng thế. Ngay cuốn sách gần đây là cuốn tự truyện của Lê Vân, có những người trẻ họ phản đối, và phản đối một cách hoàn toàn bản năng, rằng họ nghĩ cái đạo đức, cái phận làm con nó phải thế này thế kia. Tôi không ủng hộ hay bảo vệ nhưng tôi cho rằng việc viết tự truyện như Lê Vân là một cái ví dụ trong cách chúng ta tập nói thật. Chỉ khi chúng ta nói thật thì chúng ta mới dũng cảm được. Trong nói thật có thể đẩy chúng ta đến sai lầm này hay sai lầm kia nhưng nếu không có sự hiện diện của việc nói thật thì chúng ta sẽ không biết được như thế nào. PV: - Vâng. Thuốc đắng dã tật… Sự thật, cần quá đi thôi. Nhưng mà sự thật là thế này chăng: có sự thật trong mắt anh, sự thật trong mắt tôi và sự thật trong mắt ai. Có lời nói thật chín chắn và có lời nói thật bồng bột… Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều: - Phải đọc trong một tinh thần khác. Nếu không chúng ta không mở rộng được và tất cả mọi thứ chúng ta đọc sẽ rơi vào những điều rất khó xử, chúng ta sẽ phản ứng rất ghê gớm, thậm chí không ủng hộ cái đúng. Vấn đề vẫn là cách đọc, thái độ văn hoá, dân chủ công bằng. Nên trong chuyện những bài thơ có độn chữ tiếng Anh và nhiều chuyện khác và chúng ta phải chấp nhận. Vì đó là sự thật và phải tiến đến điều đó. Bây giờ đã khác, và sau WTO, APEC chúng ta nhìn lại thì thấy rằng ở đó là một tinh thần mới, cách thức nhìn nhận mới. Theo quan điểm của tôi, không cần xem lại những bài thơ có vài chữ nước ngoài mà chính là cần phải xem lại quan điểm của những người có ý kiến đó. Dù không thích, bản thân tôi cũng không bao giờ phản đối những cách làm thơ như nhóm Mở miệng, Năm con ngựa trời, thơ Dương Tường hay Lê Đạt... có thể tôi không thích họ nhưng tôi không phủ nhận đó không phải là thi ca. Cũng như Lê Đạt, Dương Tường... có thể không thích tôi hoặc những người khác nhưng không có quyền phủ nhận tôi. Khi anh phủ nhận một nhà thơ khác có nghĩa anh ta không phải là thi sĩ, anh ta không hiểu gì về nghệ thuật thì mới phủ nhận người khác, mà anh ta chỉ công nhận chính bản thân. Thi ca không chọn lựa hình thức nào để được sinh ra cả. Khi nó cần phải lục bát thì nó sinh ra trong hình thức lục bát, khi nó cần tự do thì sinh ra tự do, khi nó cần phải văn xuôi thì nó sinh ra văn xuôi, khi nó cần đệm thì nó sẽ có ngay những từ đó. Bởi vì ngay trong Kinh Phật có những chữ, những câu ta đọcầm không hiểu nghĩa, nhưng tại sao tất cả đều coi là linh thiêng, đều cảm nhận một cách khác... Tôi đã từng làm một lễ giải hạn cho con gái tôi và nghe ông thầy cúng nói u a u ơ. Tôi không biết ông ấy nói cái gì cả, nhưng tôi biết rằng lòng tôi đang hướng đến một điều gì đó và tự nhiên tất cả những cái không có nghĩa trong ngôn ngữ lại có nghĩa trong tinh thần. Việc đọc văn chương cũng thế, có thể anh không quen cách nói đấy, hình ảnh đấy nhưng nếu người đọc không hướng tới tác giả thì anh ta sẽ không bao giờ chia sẻ được, cảm nhận được tinh thần của tác giả. Có những bài thơ ngân lên véo von thuận tai, bùi ngọt nhưng bài thơ đấy không tác động được tới chúng ta một cái gì. Gọi đúng thì đấy mới là một bài thơ vô nghĩa. Còn bài thơ chúng ta đọc có thể là một loại văn bản khác, phức tạp hơn, đa dạng hơn, biến ảo hơn với những cách thức mới hơn và... có nghĩa. Có thể chúng ta không hoà nhập được và chúng ta muốn chối từ nó. Tôi nghĩ cách đọc là quan trọng. Cách đọc của chúng ta hiện nay là khiếm khuyết. Cần phải nói rằng công chúng có quyền phán xét. Nhưng chúng ta cũng cần những trí thức tiên phong, cần những nhà hiền triết, bác học, giáo sư để khai mở dân trí. Sự bình đẳng và chủ nghĩa nhân quyền không có nghĩa là chân lý luôn thuộc về số đông. PV: - Không chỉ có thơ đâu, khi cuốn "Cơ hội của Chúa" ra mắt bạn đọc, nhiều người cũng nói: Nguyễn Việt Hà sử dụng nhiều từ nước ngoài quá. Rồi dần dần, cũng quen… Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều: - Có lẽ do sự tác động của lịch sử bị đô hộ quá lâu, chúng ta bằng mọi cách để chống lại sự đồng hoá của một nền văn hoá khác, một thể chế khác. Ngày xưa, chúng ta không chịu nổi những biển hiệu trên đường phố, chúng ta không chịu nổi quần loe, chúng ta bảo mặc thế là sexy nhưng xin thưa rằng cái sexy nhất lại chính là cái áo dài. Nhưng vì nó quen rồi, nó thành truyền thống rồi và người ta cho rằng truyền thống là sự đúng còn sự không truyền thống là sự sai. PV: - Và có một lượng độc giả không nhỏ vẫn quen coi văn chương, cụ thể là bài thơ, cái truyện ngắn, cuốn tiểu thuyết là sản phẩm cho mọi người và nó phải mang tính chất phục vụ... Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều: Mỗi một người đọc đều mang thói ích kỷ của họ, rằng cuốn sách đó phải viết cái gì cho tôi, tôi phải hiểu được nó, và nó phải có cái gì giống như tôi, giống tôi nghĩ. Hồng Lâu Mộng không phải đáp ứng cho mọi người nông dân Trung Quốc đọc, nhưng nó có thể chia sẻ, quyến rũ tất cả mọi người. Nguyễn Du viết Truyện Kiều với tất cả những ngôn ngữ đấy, tư tưởng đấy, hình thức đấy, văn phong sang trọng, kỳ ảo, và tinh tế đó thì không phải cho nông dân đọc.Nhưng ở Truyện Kiều có những điều vĩ đại đến mức được giản đơn hoá, nhiều tầng và ai cũng đọc được. Cho nên người ta có thể bói Kiều được là vì điều đó. Chắc chắn Nguyễn Du không định soạn cuốn sách bói Kiều để người ta giở ra là thấy thân phận mình, nhưng ở đó ông đã tổng kết tất cả các số phận con người và ai cũng có thể đặt mình trong đó. Tôi muốn nói lại rằng khi một nhà văn viết họ không viết cho một đám đông và chỉ có vậy thì tính sáng tạo mới cao và yếu tố cá nhân mới được thể hiện. Tôi cam đoan nếu chọn những tác phẩm xuất sắc của chúng ta từ cổ đại cho đến hiện đại - những tác phẩm sống cùng chúng ta cho đến ngày hôm nay, sẽ thấy đó là những tác phẩm được nhà văn viết ra cho chính mình. Nói điều này chắc nhiều người không đồng ý, và còn mơ hồ. Nhưng tôi cam đoan khi nhà văn ngồi vào bàn viết, họ không bao giờ mang sổ hộ khẩu toàn bộ dân tộc Việt Nam ra để xem có bao nhiêu người để mà viết cho bấy nhiêu người. Không bao giờ có chuyện đó. Bài thơ ra đời nó mang một đời sống độc lập hoàn toàn, nó trôi qua, nó phải bị phán xử và số phận của nó hiện ra theo cách đọc của từng người. Có lần tôi đã viết về tính đa văn bản của một văn bản gốc. Khi tôi sáng tác bài thơ và in ra thì... một kẻ đau khổ đọc khác, qua một kẻ thù hận đọc khác, một người uyên bác đọc khác, qua một kẻ đang hạnh phúc bất tận đọc khác, qua một kẻ sắp chết đọc khác... nghĩa là nó mang tâm thế của người đọc, văn hoá của người đọc, ngôn ngữ của người đọc, thói quen ứng xử của người đọc, tư duy của người đọc, quan niệm nhân sinh, quan niệm nghệ thuật của người đọc. Có thể là văn bản chữ nghĩa đó nhưng nó mang lại một thế giới cực kỳ lạ lùng mà chính kẻ sinh ra nó không nhận ra, hoặc có thể nó trở nên bỉ ổi vô cùng mà chính tác giả đó không bỉ ổi đến như thế. Chúng ta không trách móc những bạn đọc thông thường. Bởi vì có những nhà văn nhà thơ hẳn hoi, nhưng khi viết anh ta cũng áp đặt khủng khiếp quan điểm cá nhân của anh ta. Vì vậy việc trao đổi là rất cần thiết và để chúng ta nhận thức đúng hơn và bớt đi những ấu trĩ. PV: - Vâng, thưa nhà thơ. Cũng chính vì vậy, từ một ý kiến dù nhỏ, một bài báo tưởng rất bình thường mà chúng ta có cuộc trò chuyện hôm nay. Xin cảm ơn anh!
  16. NHÂN CUỘC TRANH LUẬN VỀ THƠ CON CÓC Góp ý về một số vấn đề trong phê bình văn học Thụy Khuê Mời vào link này tham khảo! (“Thơ con cóc”: Một bài thơ hay – Bài viết Nguyễn Hưng Quốc) Những bài tranh luận về thơ con cóc trên báo Văn Học giữa Đỗ Minh Tuấn và Nguyễn Hưng Quốc cho thấy hiện nay đang manh nha khuynh hướng đối thoại giữa người viết trong và ngoài nước. Chưa bàn đến nội dung các cuộc trao đổi, chúng ta cũng thấy là vấn đề đối thoại văn học nên tiếp tục mở rộng. Trong tinh thần ấy, tôi có bài góp ý này về một số vấn đề liên quan đến khế ước văn hóa (chữ của Đỗ Minh Tuấn), giao lưu văn hóa, phê bình văn học, quan điểm cũ, mới, với mục đích giúp độc giả thấy rõ hơn bản chất của công việc phê bình và những đóng góp của nó trong đời sống văn học. I. Vấn đề khế ước văn hóa, giao lưu văn hóa Cuộc tranh luận về thơ con cóc nếu xẩy ra trong điều kiện lập luận bình thường thì có thể rất hào hứng cho hai tác giả và bổ ích cho người đọc. Nguyễn Hưng Quốc cho rằng thơ con cóc hay, đó là quyền thẩm định tự do của anh. Độc giả chờ đợi một lập luận tân kỳ cũng như họ có quyền đánh giá lập luận của Nguyễn Hưng Quốc. Nhà phê bình Đỗ Minh Tuấn có quyền phê bình nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc, và Nguyễn Hưng Quốc trả lời v.v... Đó là tiến trình bình thường của các cuộc tranh luận văn học. Nhưng ở đây có một cái gì đó không bình thường khiến mọi người chú ý, không phải trên khía cạnh lý thú của lý luận văn học, mà ở những điều, những chữ quá tải đã được đôi bên viết ra. Đỗ Minh Tuấn dùng những chữ rất nặng cho một cuộc tranh luận văn học và chính ở chỗ đó mà người đọc bị chệch hướng, không thấy rõ mục đích "phê bình một nhà phê bình" của Đỗ Minh Tuấn. Anh viết: "Vậy cãi lại tổ tiên, đem lý trí và học vấn cãi lại vô thức cộng đồng chỉ là sự xâm lăng về văn hóa, đem chuẩn mực văn hóa của cộng đồng này áp đặt cộng đồng khác vì mỗi nền văn hóa là một thực thể tinh thần có diện mạo riêng, có khóa mã riêng, có độ bảo thủ riêng. Sự áp đặt đó, dù có thành công về phương diện lý luận thì vẫn luôn thất bại trong thực tế. Từ góc độ nhân chủng học, quốc tế học, từ góc nhìn của mẫu quốc, ta có thể chứng minh rằng những kẻ bán nước trước đây là tiến bộ cao cả, có công. [...]" (Đỗ Minh Tuấn, Khế Ước Văn Hóa Trong Bài Thơ Con Cóc, Văn Học số 134, tháng 6/1997, trang 22) Có cần mang cả những thứ nặng ký như: nhân chủng học, quốc tế học, chuẩn mực văn hóa, vô thức cộng đồng, xâm lăng văn hóa, mẫu quốc, kẻ bán nước, v.v... ra để bàn về ... thơ con cóc hay không? Chính những chữ quá tải này, không những khiến cho người đọc hồ nghi thiện chí (muốn phê bình) của Đỗ Minh Tuấn mà còn triệt tiêu tính chất thuyết phục trong lập luận của anh vì bản chất của chúng (một vài chữ) chống lại hai đối tượng văn hóa và phê bình mà Đỗ Minh Tuấn muốn đề cập. Thật vậy, phải nói ngay rằng nếu chúng ta không được quyền "cãi lại tổ tiên" thì làm gì có văn hóa để mà bàn cãi hôm nay: Tổ tiên ta ăn lông ở lỗ, nếu chúng ta cứ ngoan ngoãn vâng lời, rập theo khóa mã của tổ tiên thì ngày nay chúng ta vẫn còn là người vượn, người khỉ, lấy đâu chữ viết, lấy đâu văn chương mà đọc, mà bàn? Văn hóa là hậu quả của tính chất biến thiên và sinh động nơi con người: Vượt hoàn cảnh lịch sử để tồn tại. Và trong tiến trình cải tiến và biến đổi không ngừng ấy, họ để lại những thành quả gọi là văn hóa. Ăn sống nuốt tươi là vô văn hóa. Ăn cơm là có văn hóa. Vậy muốn có văn hóa phải "cãi lại tổ tiên". Bản chất phê bình cũng là cãi lại, xét lại. Không những chỉ ở mức độ cãi lại tổ tiên mà còn cãi lại, đặt vấn đề với tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống. Phê bình văn học là cãi lại, đặt lại vấn đề với văn học, về chuyện viết thế nào? Về bản thân chữ nghĩa. Chữ nghĩa hôm qua và chữ nghĩa hôm nay. Và nếu muốn đặt vấn đề mà không đem "lý trí và học vấn" ra thì dùng cái gì để làm hành trang suy tưởng? Nếu anh không dám "cãi lại tổ tiên", nếu anh chỉ biết gật đầu chấp nhận những gì người đi trước để lại trong tất cả mọi địa hạt văn hóa, chính trị, khoa học, xã hội, tư tưởng mà không đặt lại vấn đề thì vô tình hay cố ý anh đã phủ nhận nguyên tắcphê bình và lý do tồn tại của văn hóa. Điều mâu thuẫn nữa là khi anh nói đến sự "xâm lăng văn hóa, đem chuẩn mực văn hóa cộng đồng này áp đặt cho cộng đồng khác" là chính Đỗ Minh Tuấn muốn khép cửa, tức là đặt lại vấn đề đã có từ xưa: vấn đề giao lưu văn hóa. Sự phát biểu của Đỗ Minh Tuấn khiến người ta nhớ đến các quan điểm dân tộc cực đoan, cho rằng: mỗi nền văn hóa, hoặc văn chương của mỗi dân tộc đều riêng rẽ, không thể pha trộn. Nếu đem pha trộn thì sẽ lai căng, mất gốc, sẽ mất bản sắc dân tộc ... Quan điểm này được một số người dùng làm điểm tựa để đưa đến chính sách bài ngoại, ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn. Thực tế đã không xẩy ra như vậy, tính chất giao lưu văn hóa nằm trong bản chất con người. Thời kỳ du mục, những bộ lạc đã di chuyển, giao lưu, đã sống lẫn lộn với nhau. Tất cả các nền văn hóa đều có tính laitrong cơ thể, nhưng chúng vẫn khác nhau vì những nét đặc thù. Những nét đặc thù này do hoàn cảnh tạo nên (hoàn cảnh hiểu theo nghĩa situation của Sartre: Con người tác động vào môi trường mà sinh ra hoàn cảnh), hoàn cảnh địa lý, hoàn cảnh ngôn ngữ, hoàn cảnh lịch sử, hoàn cảnh chiến tranh, hoàn cảnh nghèo đói, ... Mỗi hoàn cảnh tạo ra những vị thế khác nhau và chính những vị thế ấy cấu tạo nên sự khác biệt giữa các nền văn hóa. Hai nền văn hóa cạnh nhau có thể ngấm vào nhau: Hoa-Việt, Hoa-Nhật, ... và đem lại những nguồn sinh lực mới cho những hoàn cảnh sống đã cũ: Nếu không có hiện tượng người Việt di dân ra nước ngoài thì làm gì có văn chương Việt Nam hải ngoại? Thì chắc gì người Pháp, người Mỹ ngày nay đã bán nem (chả giò), gừng, nước mắm,bún, miến, bánh tráng, bánh phở ... ở các siêu thị của họ? Hiện tượng thẩm thấu văn hóa là một hiện tượng tự nhiên. Khi có sự tiếp xúc giữa hai dân tộc hoặc hai trào lưu tư tưởng, thường nẩy sinh những trào lưu văn hóa mới: Có thể nói hội họa ấn tượng nẩy sinh từ sự tiếp xúc của Tây phương với thi ca Trung Quốc và hội họa Nhật Bản; hoặc nếu Picasso không gặp điêu khắc Phi Châu thì chắc gì ông đã mở đường cho hội họa lập thể? Nếu không có "một ngàn năm đô hộ giặc Tàu" thì chưa chắc văn chương cổ điển Việt Nam đã có hình thái như vậy. Và nếu không có "một trăm năm đô hộ giặc Tây" thì nền văn chương quốc ngữ của chúng ta có như ngày nay hay không? Mỗi dân tộc (Tàu, Tây, Việt Nam, ...) đều có hai khía cạnh: giặc và người. Chúng ta tiếp nhận khía cạnh "người" của họ, tức là khía cạnh văn hóa để bổ xung cho đời sống văn hóa của chúng ta, và chống lại khía cạnh "giặc", tức là khía cạnh thực dân, xâm lăng, gây chiến tranh, chiếm hữu lãnh thổ người khác: Khía cạnh vô văn hóa của họ. Một nền văn hóa mạnh, như văn hóa Hán, có khả năng Hán hóa quân "xâm lăng" Mông Cổ, biến "giặc" thành "người". Vậy khi nói đến văn hóa thì khó có thể dùng những chữ "xâm lăng văn hóa", "cái bẫy văn hóa"... Bới văn hóa biểu dương khía cạnh đẹp của con người. Văn hóa nâng cao trình độ con người. Bản chất văn hóa là giao lưu, chia sẻ, là nguồn cảm thông chung của nhân loại. Giao lưu văn hóa không thể đưa đến sự "diệt chủng văn hóa", mà ngược lại, đóng cửa văn hóa, chỉ đọc mình, chỉ tôn vinh dân tộc mình mới đáng ngại, có thể dẫn đến nguy cơ diệt chủng văn hóa. Tất nhiên người đọc cũng không nghĩ là Đỗ Minh Tuấn chủ trương "đóng cửa văn hóa", nhưng anh chỉ sa đà trong việc sử dụng từ ngữ, cũng như anh đưa ra những xác quyết sai lầm về J.P. Sartre, Camus, Barthes ... mà những ai biết rõ các tác giả này đều phải ngạc nhiên. Nếu sáng tác đòi hỏi sự thực thì phê bình đòi hỏi sự chính xác. Và đó là lý do tồn tại của một ngòi bút phê bình. II. Thơ con cóc Khi Nguyễn Hưng Quốc thách Đỗ Minh Tuấn phải chứng minh được rằng Thơ con cóc không phải là thơ, Đỗ Minh Tuấn đã vội lo "đây là một thách thức triết học nghiêm túc, nhưng lại là một vấn đề ngụy tạo". Những lo lắng của Đỗ Minh Tuấn thật sự không cần thiết vì ở đây cũng chẳng có vấn đề triết lý triết học gì cả. Chỉ có một lẽ dễ hiểu là xưa nay chưa ai định nghĩa được một cách chính xác Thơ là gì? Con cóc có nhẩy lên hỏi ông trời thì trời cũng chịu. Cũng như chưa ai định nghĩa được tình yêu, Thượng Đế, v.v... và người ta cũng không hi vọng Nguyễn Hưng Quốc hay Đỗ Minh Tuấn sẽ là những người đầu tiên định nghĩa được thi ca trên trái đất này. Vậy Thơ con cóc, bảo nó là thơ cũng được. Mà bảo không phải là thơ cũng xong. Nhưng người ta có thể giải thích được Thơ con cóc hay hoặc dở dựa trên những tiêu chuẩn nghệ thuật, hoặc những phương pháp phân tích ngữ học. Điều cốt yếu là sự giải thích ấy có tính thuyết phục hay không, mà thôi. Thơ con cóc vốn mang tiếng là dở. Tại sao? Tại vì những câu: Con cóc trong hang, con cóc nhảy ra, con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đi không mang một kiến trúc nghệ thuật nào cả: Vắng hình ảnh, không vang âm, không có khả năng biểu cảm, không có tính chất phức âm, đa nghĩa. Điểm thứ nhì, nó cũng không "miêu tả" cho biết con cóc như thế nào: sần sùi hay nhẵn nhụi, mắt lồi hay mắt lõm, cẳng nghêu, chân trạc, chân kiềng? v.v... cho nên nó chưa thành văn. Vậy chỉ còn mục đích thông tin: Nó cho biết có con cóc từ trong hang nhảy ra. Nhưng đây cũng lại là một thông tin dài dòng và không cần thiết về một con cóc đang nhảy, rồi nghỉ, rồi lại nhảy ... Một thông tin như vậy chỉ cần viết ngắn gọn: "Con cóc nhẩy từ hang ra ngoài" là đủ, vì phần còn lại "con cóc ngồi đó, con cóc nhẩy đi" là một thông tin thừa, vì ai cũng biết rõ là cóc không biết đi, không biết chạy, chỉ nhẩy cẫng, vì thế mà người ta gọi là nhẩy cóc. Thông tin này giống kiểu "nàng là phận gái ta là phận trai" của Nguyễn Đình Chiểu hoặc "15 phút trước khi chết, ông ấy còn sống" mà người Pháp gọi là vérité de La Palice: một thông tin ngây ngô vì ai cũng biết cả rồi. Bây giờ Nguyễn Hưng Quốc muốn chứng minh điều ngược lại: Thơ con cóc hay. Chúng ta thử khảo sát quan điểm của anh: 1) Luận điểm 1, theo Nguyễn Hưng Quốc, Thơ con cóc hay vì được người ta nhớ. Anh viết: "Một tác phẩm văn học đã trở thành điển hình và được mọi người, từ thế hệ này qua thế hệ khác, từ thời đại này qua thời đại khác ghi nhớ thì không thể nào dở được" (Thơ, V.V... và V.V..., trang 41). Câu này chứng tỏ Nguyễn Hưng Quốc có cùng một quan điểm với Đỗ Minh Tuấn về quyền năng của ký ức cộng đồng, hay vô thức cộng đồng (chữ của Đỗ Minh Tuấn). Nếu đã chấp nhận: tác phẩm nào được người ta nhớ thì tất phải hay, như vậy còn cần bàn cãi làm gì? Chứng minh bằng cả một quyển sách cũng là thừa. Cho nên, cái "trí nhớ cộng đồng" mà hai tác giả đưa ra, chính nó, cũng không phải là điều làm họ tin tưởng. Vì sao? Vì được nhớ chỉ là điều kiện cần, chứ chưa đủ để bảo đảm tính chất hay của một tác phẩm: Hay thì người ta nhớ, nhưng những gì mà người ta nhớ chưa chắc đã hay. a- Người ta có thể nhớ một câu thơ tầm thường hoặc dở vì phải học thuộc lòng. Thầy giáo bắt học một trích đoạn Kiều hay Lục Vân Tiên, bạn phải học cả câu hay lẫn câu dở. Đó là trường hợp bị nhớ. Trường hợp này trí nhớ bị huấn luyện, bị chỉ đạo mà không có "choix". b- Nếu để tự nhiên lựa chọn, trí nhớ có vẻ rất sang, nó thích nhớ những gì ngoại hạng, ví dụ ác như Kiệt, Trụ, Ngọa Triều Lê Long Đĩnh. Đẹp như Tây Thi. Xấu như Quỷ Dạ Xoa, Hay như Truyện Kiều. Dở như Thơ con cóc v.v... c- Sau cùng, người ta cũng nhớ những gì có tính cách điển hình cho một thái độ, một phong cách. Người ta nhớ những câu thơ của Nguyễn Đình Chiểu: Khoan khoan ngồi đó chớ ra Nàng là phận gái ta là phận trai không phải vì hay mà vì nó ngây ngô, buồn cười, lập lại những điều dĩ nhiên: Khoan khoan thì tất phảingồi (đứng) đó, mà ngồi đó thì chớ ra. Nàng thì chắc chắn là gái rồi mà ta (chàng) thì không thể không là trai. Tiếng Pháp có thành ngữ "La vérité de La Palice" phát xuất từ việc đại úy La Palice hy sinh anh dũng ở mặt trận Parvie năm 1525. Vì thương tiếc, lính của ông làm một bài hát truy niệm trong có những câu thơ: Un quart d'heure avant sa mort Il était encore en vie ... (15 phút trước khi chết ông vẫn còn sống ...) Hai câu thơ này chỉ có ý niệm vinh thăng hành động can đảm của người anh hùng, đã chiến đấu đến chết, nhưng vì làm dở, cho nên hình ảnh cao siêu bị mất đi, và người ta chỉ nhớ sự ngớ ngẩn của nó và sau đó tạo nên thành ngữ mang tên người anh hùng La Vérité de La Palice (sự thật kiểu La Palice) để chỉ những câu nói ngây ngô, biểu dương những điều hiển nhiên, ai cũng biết. Tóm lại, nhớ mới chỉ là điều kiện cần, chứ chưa đủ để bảo đảm tính chất "hay" hoặc "dở" của một tác phẩm. 2) Luận điểm 2: So sánh Thơ con cóc với Thị Nở của Nam Cao. Nguyễn Hưng Quốc viết: "Trước hết và có lẽ cũng hiển nhiên hơn hết đó là bài thơ hay nhất trong tất cả những bài thơ miêu tả cái dở, cái kém nghệ thuật và kém thẩm mỹ. Ở mức độ nào đó có thể coi Thơ con cóc cũng tương tự bức chân dung Thị Nở của Nam Cao. Nếu Thị Nở là điển hình của cái xấu, Thơ con cóc sẽ là điển hình của cái dở. Chỉ riêng khía cạnh này, Thơ con cóc đã là cái gì khác mới mẻ và đầy táo bạo, khác hẳn với mỹ học truyền thống vốn đồng nhất cái đẹp của tác phẩm nghệ thuật với cái đẹp của đối tượng được tác phẩm nghệ thuật miêu tả, từ đó, hình thành một lối đi độc đạo trong sáng tác: mọi người đều chăm chăm chọn những nhân vật đẹp, những khung cảnh đẹp. văn học dân gian và tiểu thuyết thoát ly ra khỏi quan điểm hẹp hòi này khá sớm, có lẽ do bản chất dân chủ của chúng. Thơ cứ đắm đuối mãi trong cõi mộng mơ, cái xấu, cái tầm thường bị gạt qua một bên trở thành lãnh địa dành riêng cho thơ trào phúng" (Thơ, V.V... và V.V..., trang 44) Trích đoan trên đây có một câu chính xác: Nếu Thị Nở là điển hình của cái xấu, Thơ con cóc sẽ là điển hình của cái dở. Nhưng tiếc rằng nó lại trộn trong rất nhiều khái niệm khác nhau bị hiểu sai hoặc bị chập làm một: a- Trước hết, thơ dở khác với thơ miêu tả cái dở. Xấu khác với dở. Con cóc nó xấu, chứ nó không dở. Nếu (Nguyễn Hưng Quốc) cho rằng bài thơ con cóc "miêu tả" được con cóc, thì đó là bài thơ miêu tả cái xấu, chứ không phải là bài thơ miêu tả cái dở. Và để miêu tả cái xấu, thì nó không đạt mục đích vì nó không cho biết gì về sự xấu xí của con cóc. Ngược lại, đoạn văn tả chân dung Thị Nở của Nam Cao, miêu tả một người đàn bà xấu với nghệ thuật cao: Không những nó miêu tả được dung nhan Thị Nở mà nó còn đi ra ngoài địa hạt mô tả để đạt tới trò chơi quái ác của con tạo đã đang tâm hình hài hóa định mệnh xui xẻo trên diện mạo con người. Do đó không thể so sánh bài Thơ con cóc và đoạn văn mô tả Thị Nở vì một đoạn văn hay và một bài thơ dở, dù cùng có mục đích để tả cái xấu, chúng không có gì giống nhau. b- Từ bao giờ "mỹ học truyền thống vốn đồng nhất cái đẹp của tác phẩm nghệ thuật với cái đẹp của đối tượng được tác phẩm nghệ thuật mô tả"? Người đọc không biết Nguyễn Hưng Quốc muốn dùng chữ "mỹ học truyền thống" để chỉ người thưởng ngoạn hay người sáng tác theo quan điểm mỹ học truyền thống? Hiểu cách nào chăng nữa thì câu này cũng sai vì không ai lẫn lộn đối tượng miêu tả với nghệ thuật miêu tả cả. Nói như vậy không khác gì bảo người ta nhầm nghệ thuật tả nhan sắc của Nguyễn Du với Thúy Kiều, nghệ thuật tả những phường buôn thịt bán người của Nguyễn Du với Tú Bà, Mã Giám Sinh, Khuyển Ưng, Khuyển Phệ. Và thơ cổ điển cũng không hề "đắm đuối mãi trong cõi mộng mơ". Vì từ Homère đến Nguyễn Du, Đặng Trần Côn, Victor Hugo ... thi ca cổ điển đã viết nên biết bao nhiêu trang bi tráng về những cảnh chiến tranh, lầm than, tang tóc, khốn nạn của con người? Trên đây chúng ta mới chỉ thử phân tích hai trích đoạn ngắn trong các bài viết của Nguyễn Hưng Quốc và Đỗ Minh Tuấn để thấy cách lập luận và cách dùng từ của hai tác giả. Ngoài ra cả hai đều có khuynh hướng đưa ra những nhận xét rất chủ quan về những địa hạt có vẻ họ chưa thực sự tham khảo. Ví dụ, Nguyễn Hưng Quốc viết: "Theo tôi, một trong những nguyên nhân khiến ngành phê bình Việt Nam cứ ở mãi trong tình trạng ấu trĩ và què quặt là do rất thiếu tự giác. Chúng ta cứ nhắm hoài đến một mục tiêu không thể và không nên theo đuổi. Việc chọn nhầm mục tiêu ấy khiến cho phê bình tự động biến thành việc nghiên cứu lịch sử nếu tác giả thuộc một thời xa xưa; biến thành việc nghiên cứu xã hội nếu ... " (Thơ, V.V... và V.V..., trang 73) Phê bình Việt Nam có những tác giả viết yếu, thậm chí viết nhảm nhưng những tác giả đứng đắn không ít. Nếu ai có dịp đọc những Đỗ Đức Hiểu, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Đăng Mạnh, Văn Tâm, Lê Ngọc Trà, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn, Lê Hồng Sâm, Đặng Thị Hạnh, Đặng Anh Đào, Phạm Xuân Nguyên, Huỳnh Như Phương, ... thì thấy dù họ đứng ở trên quan điểm phê bình nào đi chăng nữa (cũ hoặc mới), những bài viết của họ cũng không ở trong tình trạng ấu trĩ, què quặt, thiếu tự giác ... và họ cũng không chọn nhầm mục tiêu phê bình. Về những khuynh hướng phê bình cũ, mới, trước đây Nguyễn Văn Trung đã tổng lược tương đối khá đầy đủ trong Lược Khảo Văn Học (quyển 3), in năm 1968 tại Sàigòn, Xuân Thu tái bản tại California năm 1990. Năm 1994, Đỗ Đức Hiểu trong cuốn Đổi Mới Phê Bình Văn Học (NXB Khoa Học Xã Hội, Thành Phố Hồ Chí Minh) cũng viết bài tóm lược tổng quát những khuynh hướng phê bình mới của Tây phương (đặc biệt Pháp và Nga), và đã áp dụng nguyên tắc phê bình mới để phê bình các tác phẩm văn thơ cổ điển lẫn hiện đại như Kiều, Xuân Hương, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng, Phạm Thị Hoài v.v... Nếu Nguyễn Hưng Quốc có dịp đọc sách của Đỗ Đức Hiểu thì chắc anh không dám chê phê bình Việt Nam ấu trĩ và què quặt. Đỗ Minh Tuấn, ở trong nước, chẳng hay anh có dịp tìm đọc sách của Đỗ Đức Hiểu không? Và nếu đọc rồi, anh có thấy mảy may ý đồ "xâm lăng văn hóa", đem chuẩn mực văn hóa của cộng đồng này áp đặt lên cộng đồng khác trong tác phẩm của Đỗ Đức Hiểu? Người đọc không trách nhà văn viết sai. Cũng không trách nhà phê bình cảm nhận sai về một câu thơ, nhưng người đọc khó chấp nhận những lý luận sơ hở, những xác quyết không chính xác ở những ngòi bút lý luận phê bình. III. Lý thuyết văn học của Nguyễn Hưng Quốc Bây giờ đến phần trọng yếu là phần lý thuyết văn học của Nguyễn Hưng Quốc. Nguyễn Hưng Quốc giải thích mục đích của anh: "Bài thơ con cóc hay thật hay không hay thật, với tôi, không phải là điều quan trọng. Đem bài con cóc ra để phân tích, tôi nhắm tới hai mục tiêu khác quan trọng hơn là việc bình luận bài thơ ấy nhiều: Thứ nhất, mượn nó để phê phán những quan niệm thẩm mỹ cũ kỹ cho đến giờ vẫn thống trị trong sinh hoạt thi ca Việt Nam. Thứ hai, mượn nó để chứng minh ý nghĩa của việc đọc, của người đọc, qua đó, đưa ra luận điểm cho rằng thơ là cái gì đong đưa giữa văn bản và người đọc chứ không phải là cái gì có sẵn, tự tại, nhất thành bất biến bên trong tác phẩm; bản chất của thơ là một cái gì "trống" để người đọc có thể nhập cuộc, nhập vui, làm đồng tác giả với tác giả; từ đó, hình dung con đường phát triển thơ như một quá trình hòa giải giữa nhà thơ và người đọc; chủ nghĩa hiện đại như một chủ nghĩa đặc tuyển; Thơ mới rất gần với văn xuôi ở tính chất tự sự của nó, v.v... Với tôi, mục tiêu thứ hai này quan trọng hơn hẳn: nó chiếm gần hết số trang của cuốn sách. Đó là lý do tại sao tôi xem Thơ, V.V... và V.V... trước hết là một cuốn sách về lý thuyết văn học chứ không phải là phê bình văn học" (Trả lời Đỗ Minh Tuấn,Văn Học số 134, tháng 6/1997) Độc giả giật mình: Đọc xong cuốn sách mới được biết tác giả không cho điều mình muốn chứng minh là quan trọng. Vậy chúng ta thử tìm hiểu chỗ mà Nguyễn Hưng Quốc cho là quan trọng là gì đây? Đó là: Lý thuyết văn học mới mà anh đưa ra, gồm hai phần: - Phê phán những quan điểm thẩm mỹ cũ; - Nói lên sự quan trọng của việc đọc. 1. Để phê phán những quan điểm thẩm mỹ cũ kỹ, anh phát biểu: "Không thể dựa trên những quan điểm thẩm mỹ cũ, những cái tôi gọi là trường-phái-thơ-Đồ-Chiểu hay trường-phái-thơ-Thúy-Kiều để đánh giá cái hay, cái dở cuả bài thơ con cóc." (Trả lời Đỗ Minh Tuấn, Văn Học số 134) Nếu trường phái thơ Đồ Chiểu và trường phái thơ Thúy Kiều là quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Đình Chiểu và quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Du, hoặc những người đi theo hai quan niệm thẩm mỹ này để làm thơ thì có gì đáng trách mà phải phê phán? Hiển nhiên là chúng cũ kỹ, chúng thuộc vào quan điểm thẩm mỹ thế kỷ XVIII, thế kỷ XIX. Công việc của người phê bình không phải là đả phá quan niệm thẩm mỹ của người đi trước vì nó cổ. Và cũng không ai dùng quan niệm thẩm mỹ của người này để đánh giá người kia. Ví dụ không ai dùng quan niệm thẩm mỹ của Phạm Thị Hoài để đọc và đánh giá Nguyễn Mộng Giác; hoặc dùng quan niệm thẩm mỹ của Thanh Tâm Tuyền để đánh giá Chinh Phụ Ngâm. Mỗi tác giả sáng tạo ra quan niệm thẩm mỹ của riêng họ. Và người phê bình cũng không thể sáng chế ra một quan niệm thẩm mỹ riêng một cách độc đoán để đánh giá người sáng tạo. Người phê bình có nhiệm vụkhám phá ra quan niệm thẩm mỹ của người sáng tạo để thẩm định giá trị tác phẩm. Muốn làm công việc đó, người phê bình phải dựa trên một số tiêu chuẩn: - Hoặc trên tiêu chuẩn nghệ thuật do chính tác giả đề ra như văn phong, cấu trúc, cách tạo hình, v.v... Trong trường hợp này, nhà phê bình dựa trên tiêu chuẩn nghệ thuật của chính tác giả để đánh giá tác phẩm (trường hợp thường xuyên với các tác phẩm hiện đại). - Hoặc dựa trên tiêu chuẩn nghệ thuật chung của một thời (thời mà tác phẩm xuất hiện): trường hợp phê bình các tác phẩm cổ điển. - Hoặc dựa trên các tiêu chuẩn khác (ngoài nghệ thuật) như luân lý, sử học, tâm lý, xã hội, triết lý, ... Thường thường một nhà phê bình có thể đứng trên nhiều tiêu chuẩn để đánh giá một tác phẩm nghệ thuật. 2. Sự quan trọng của việc đọc. Để nhấn mạnh đến tính cách quan trọng của việc đọc, Nguyễn Hưng Quốc đưa ra một số luận điểm: a- "Ý nghĩa của bài thơ luôn luôn thay đổi [...]. Có biết bao tác phẩm ở thời này bị rẻ rúng, ở thời kia được tán tụng; ở chỗ này bị đả kích, ở chỗ kia được hoan hô. Với người này là tiếng đàn trên bến Tầm Dương dẫu "chưa thành khúc tình đà thoảng bay", với người kia chỉ là một chuỗi tạp âm vô nghĩa và vô vị. Tất cả không còn hoài nghi gì nữa, chỉ là hệ quả của những cách diễn dịch khác nhau." Từ đó anh rút ra hệ luận: "Nếu ý nghĩa do sự diễn dịch mang lại có thể làm thay đổi giá trị bài thơ, thì giá trị, như vậy, không phải là một cái gì tự tại, có sẵn, nhất thành bất biến" (Thơ, V.V... và V.V..., trang 56) b- "Chúng ta không thể căn cứ vào ý đồ của tác giả khi sáng tác và cũng không thể căn cứ vào bản thân câu chữ của bài viết ấy. Cơ sở quan trọng nhất chính là việc đọc" (Trả lởi Đỗ Minh Tuấn, Văn Học số 134, trang 25) c- "Giả dụ một ngày nào đó, không có ai đọc hay nói tiếng Việt được nữa, số phận của truyện Kiều sẽ ra sao? Thì cũng giống như một tờ giấy bạc cũ sau một đợt đổi tiền. vậy thôi. Giá trị của một tác phẩm chỉ được thừa nhận khi ý nghĩa của tác phẩm được thừa nhận" (Thơ, V.V... và V.V..., trang 56) Trong những phương pháp phê bình mới, người ta nhấn mạnh đến tính cách và vai trò của người đọc đối với một tác phẩm (xin đọc bài Đọc Văn Chương của Đỗ Đức Hiểu, trích trong sách Đổi Mới Phê Bình Văn Học, in lại trong Văn Học số này), nhưng không chỉ có việc đọc là quan trọng, đến nỗi giá trị của bài thơ không còn tùy thuộc vào bản thân câu chữ của nó nữa, và một ngày nào đó, nếu không ai đọc được tiếng Việt thì truyện Kiều sẽ vứt đi. Việc đọc, chắc chắn là quan trọng rồi, nhưng nếu không căn cứ vào văn bản thì chúng ta đọc cái gì? Cách lấy một câu trong toàn bộ hệ thống phê bình mới, rất đa dạng, của nhiều tác giả, rồi suy diễn ra và độc nhất hóa nó thành nguyên lý như thế này, rất nguy hiểm và tối kỵ trong phương pháp luận, bởi nó sẽ dẫn đến nhiều hệ quả sai lầm. Ví dụ: ý nghĩa của câu thơ không phải là cái mà tác giả định nói mà chỉ là hệ quả của những cách diễn dịch khác nhau; thì như vậy giá trị của bài thơ không phải là cái gì tự tại, có sẵn, v.v... Thật ra: Bài thơ có những giá trị tự tại, và người đọc đã hoặc sẽ khám phá ra. Một bài thơ, có thể có một ý nghĩa do tác giả định, nhưng ý nghĩa đó chỉ đúng với tác giả mà thôi (Paul Valéry). Ngoài ý nghĩa ấy, bài thơ còn có rất nhiều nghĩa khác, ẩn dưới ngôn ngữ của văn bản, những ý nghĩa này có sẵn, tự tại, bên trong tác phẩm. Nhưng không phải ai cũng cảm nhận được. Khi người đọc khám phá ra được những ý nghĩa ấy, thì người đọc trở thành "đồng sáng tác" với tác giả. Chữ "đồng sáng tác" chỉ có trong nghĩa đó và chỉ trong nghĩa đó mà thôi. Ngoài ra, người đọc, hay người phê bình, không có quyền "sáng chế ra" những ý nghĩa không chứa chất trong ngôn ngữ văn bản, tức là không có quyền đọc thế nào cũng được, xuôi cũng được mà ngược cũng xong. Mỗi tác phẩm có giá trị tự tại. Kiều không cần nhà phê bình nào đánh giá cũng là một tuyệt tác. Một tuyệt tác vẫn có thể bị đả kích, nhưng không vì thế mà nó trở thành một chuỗi tạp âm, vô nghĩa. Tất nhiên, một tuyệt tác khi bị xếp trong xó tủ, không ai đọc thì nó chưa hiện hữu. Nhưng khi đã được đọc rồi, thì giá trị của nó vĩnh viễn. Tính chất quan trọng của việc đọc và mối tương quan giữa người đọc và tác phẩm là ở chỗ đó: một tuyệt tác nếu không được đọc, không được biết đến thì cũng như không, chứ không phải người đọc có quyền sinh sát trên tác phẩm và muốn bảo sao thì nó nghe vậy. Những tuyệt tác nghệ thuật, kể cả ngay khi nó đã bị tiêu tán mất đi (như hầu hết những tuyệt tác kiến trúc, bẩy kỳ quan thế giới) chúng vẫn tồn tại trong ký ức văn hóa loài người. Bao nhiêu ngôn ngữ đã chết như tiếng hébreu, tiếng la tinh, nhưng những tuyệt tác văn học của những ngôn ngữ này vẫn còn. Sau này, nếu không còn ai nói tiếng Việt, thì tiếng Việt sẽ trở thành địa hạt khảo cổ, dành riêng cho những nhà nghiên cứu và truyện Kiều vẫn là một giá trị bất tử của ngôn ngữ Việt Nam. IV Phê bình cũ hay phê bình truyền thống Kể từ khoảng ba chục năm nay, hai quan niệm phê bình cũ-mới hầu như đã được định ranh khá rõ ràng. Được gọi là phê bình cũ hay phê bình truyền thống, những khuynh hướng phê bình gắn bó với quan niệm văn học được gọi là cổ điển, chủ yếu dựa trên những yếu tố: 1. Cái tôi chủ quan: Người viết (tác giả) có toàn năng chế tạo ra nhân vật. Người phê bình (có quyền) chủ quan phê phán một tác phẩm theo nhân sinh quan của mình. 2. Biểu hiện quan niệm liên tục của đời sống: Đời sống là một mạch liên tục: câu chuyện mạch lạc, có đầu, có đuôi. 3. Quan niệm tổng hợp và hoàn chỉnh về cái đẹp: Bức tranh hoàn tất. Bài thơ hoàn chỉnh, có phá, có đề, có kết. 4. Tác phẩm đóng: tác phẩm hoàn tất là một công trình xong xuôi. Người đọc, người xem chỉ cần thưởng lãm, mà không cần "tham dự"; tác phẩm không có "chỗ trống" cho người đọc "điền" vào. Câu truyện có kết cấu, rút tỉa bài học luân lý dùm người đọc. Ví dụ đọc Lục Vân Tiên bạn hấp thụ được bài học luân lý mà không cần suy đoán mệt nhọc gì cả. Nhưng đọc truyện Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài ... bạn hoang mang và suy nghĩ lung tung về các vấn đề "linh tinh" mà tác giả nêu ra nhưng không giải quyết. Đọc thơ Nguyễn Du bạn không thể "chêm" vào chữ này chữ kia để tạo thêm hình tượng mới như đọc thơ Lê Đạt. Đó là một trong những yếu tố khác biệt sâu đậm giữa cấu trúc tác phẩm cổ điển và hiện đại. 5. Dựa trên quan niệm : tác phẩm là một kiến trúc ngôn ngữ rõ ràng mạch lạc, có kết cấu hợp lý, người phê bình (truyền thống) diễn dịch tác phẩm theo cái nhìn chủ quan của mình. Sự diễn dịch có thể dựa trên cảm quan (phê bình ấn tượng) hoặc dựa trên các yếu tố ngoài văn bản như tiểu sử, thời đại, các giai thoại về đời sống tác giả (phê bình văn học sử) hoặc dựa trên các quan điểm luân lý hoặc triết lý như phê bình phân tâm học Freud hay triết học Mác Xít v.v... Một vài thí dụ các tác giả Việt Nam theo phê bình truyền thống: Hải Triều là một trong những người chịu ảnh hưởng của phê bình Mác Xít. Khi phê bình Lan Khai, ông viết: "Đọc xong cuốn Lầm Than, tôi thấy tác giả của nó mạnh dạn tiến lên trên con đường sáng sủa mà đầy cả chông gai, con đường bênh vực cho giai cấp cần lao, con đường của chủ nghĩa xã hội. Điều ấy là một điều đáng ghi nhớ trong lịch sử văn học của xứ này." (Hải Triều toàn tập, tập II , NXB Văn Học, Hà Nội, 1996, trang 168) Từ ý hướng muốn tìm hiểu và giải thích xã hội, một số nhà phê bình Mác Xít, trong đó có Hải Triều, thường có khuynh hướng gán cho tác phẩm tính cách đấu tranh giai cấp, hoặc dùng tác phẩm như một công cụ để giải thích đấu tranh giai cấp. Tính cách chủ quan đó đôi khi đưa họ ra ngoài nội dung thực thụ của tác phẩm. Ở Vũ Ngọc Phan và Hoài Thanh, người ta tìm thấy ảnh hưởng của khuynh hướng phê bình ấn tượng. Ngoài ra Vũ Ngọc Phan còn nghiêng về tâm lý, giáo khoa. Trước hết, phê bình ấn tượng là gì? Nói tóm gọn là ghi lại những gì tác phẩm gieo ấn tượng vào lòng mình. Ví dụ Vũ Ngọc Phan viết về Khái Hưng: "Hồn Bướm Mơ Tiên là một tiểu thuyết lý tưởng, một tiểu thuyết mà tác giả dựng nên những cao quý, người ở thế gian này không thể nào có được." (Nhà Văn Hiện Đại, quyển 4, trang 829, Đại Nam tái bản tại California) Có thể nhận định này không sai, nhưng nó chỉ nói lên được một khía cạnh của tác phẩm; nội dung Hồn Bướm Mơ Tiên còn chứa dựng nhiều khía cạnh khác. Nếu lấy một khía cạnh mà tổng quát hóa thành ấn tượng chung cho tác phẩm như vậy thì không tránh khỏi chủ quan. Ngoài ra làm sao biết được người ở thế gian này có thể cao quý hay không cao quý đến mức nào? Khi Vũ Ngọc Phan viết về Vũ Trọng Phụng: "Nếu Vũ Trọng Phụng căn cứ vào gia đình Huyền mà dựng nên cốt truyện thì đúng sự thật biết chừng nào. Nhưng ông đã tin ở sự giảng dạy cho nam nữ thanh niên hiểu biết sự giao hợp quá, nên ông có những ý kiến rất sai lầm. Ông đinh ninh rằng "giao hợp là mục đích cuối cùng của ái tình". Nhưng chỉ trừ ông cho hai chữ ái tình cái nghĩa là dâm thì không kể, còn như nếu ái tình là tình yêu, thì câu này là một câu rất sai." (Nhà Văn Hiện Đại, quyển 3, trang 591, Đại Nam tái bản tại California) Vũ Ngọc Phan dựa vào ấn tượng mà tác phẩm Làm Đĩ của Vũ Trọng Phụng gieo cho ông, ông cho là xấu. Và ông dùng quan điểm tâm lý (của ông) giảng giải chỗ "sai lầm" của Vũ Trọng Phụng, có ý bảo cho tác giả biết phải viết như thế này, thế kia. Hoài Thanh là một nhà phê bình tài hoa, chịu ảnh hưởng ấn tượng. Ông có nhiều cảm xúc tinh tế và khám phá ra những nét độc đáo trong thơ của mỗi tác giả. Tuy vậy Hoài Thanh cũng không thoát khỏi tính chất chủ quan. Về Thế Lữ, ông viết: "Thế Lữ đã làm rạn vỡ những khuôn khổ ngàn năm không di dịch. Chữ dùng lại rất táo bạo. Đọc đôi bài, nhất là bài Nhớ Rừng ta tưởng chừng những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường. Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt Ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được." (Thi Nhân Việt Nam, trang 59, Đông Nam Á tái bản, 1985) Những điều trên đây là những ấn tượng Hoài Thanh cảm nhận được khi đọc thơ Thế Lữ, ấn tượng ấy rất mới lạ có tính sáng tạo và Hoài Thanh đã "nói hộ" một số người đọc thơ Thế Lữ thấy những cảm giác ấy nhưng không viết nên được. Nhưng nếu Hoài Thanh đi thêm bước nữa, giải thích chữ của Thế Lữ táo bạo ở chỗ nào? cảm tưởng dằn vặt do đâu mà có? v.v... bằng chính cấu trúc ngữ học trong thơ Thế Lữ thì tính thuyết phục sẽ cao hơn. Có thể nói phê bình ấn tượng mới đi được nửa đường, tức là mới chỉ đưa ra được phần cảm xúc đầu tiên. Dù người phê bình có trực giác mẫn cảm nhạy bén đến đâu, nhưng cái cảm xúc ấy chỉ thật sự có giá trị khi người phê bình liên lạc được những điều vừa ghi nhận với hệ thống ký hiệu và hệ thống ý nghĩa của văn bản. Khi Nguyễn Hưng Quốc viết: "Bài thơ con cóc, ngược lại, trần trụi tuyệt đối. Như một cành gai. Không có đến lá, đừng nói gì là hoa. Nó thô tháp. Nó mạnh bạo. Nó sần sùi. và cũng có thể nói, nó tàn nhẫn nữa. Nó xóa bỏ hết mọi son phấn và loại trừ hết cả cảm xúc thừa thãi để bắt người đọc một mình sững sờ đối diện với sự vô nghĩa của cuộc đời. Không thể có thứ ngôn ngữ nào giản dị hơn thế nữa. Nó có phần giống như thứ ngôn ngữ Albert Camus dùng khi viết Người Xa Lạ" (Thơ, V.V... và V.V..., trang 50) Nguyễn Hưng Quốc đã ghi lại cảm giác mà Thơ con cóc đã gieo vào lòng anh.Và ấn tượng ấy chỉ đúng với anh thôi. Đối với người khác, ít ai đọc những câu "Con cóc trong hang, con cóc nhảy ra, con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đì" mà thấy những cảm tưởng trần trụi tuyệt đối, thô tháp, mạnh bạo, sần sùi, giống ngôn ngữ Camus hoặc giống thơ Nguyên Sa (trang 80, Thơ, V.V... và V.V...). Vậy muốn họ "tin được" cảm xúc của mình thì tác giả phải làm sao cho họ vừa "sờ" thấy sự sần sùi thô tháp, vừa sờ thấy sự trần trụi tuyệt đối, vừa sờ thấy gai nữa, trong những chữ của bài thơ con cóc, chứ không phải do những ấn tượng mà nhà phê bình sáng chế ra. Cho nên nếu chỉ dùng những cảm xúc mà câu thơ gieo vào lòng mình để khái quát hóa thành ấn tượng chung cho mọi người thì sẽ gặp khó khăn: không thuyết phục được người đọc. Phê bình mới muốn giải quyết những khó khăn đó bằng phương pháp phân tích ngữ học cơ cấu. V. Phê bình mới - phê bình hiện đại Phê bình mới gắn bó với quan niệm hiện đại của văn chương, dựa trên tính cách đa nguyên của đời sống, dựa trên cái tôi khách quan, nhiều chiều. Khái niệm liên tục của đời sống đã được thay thế bằng khái niệm đứt đoạn: Trong văn nghệ, cấu trúc hoàn chỉnh đã bị phá vỡ: Hội họa trừu tượng đưa ra cấu trúc tứ tán. Tiểu thuyết mới không có cốt truyện. Thơ hiện đại xóa bỏ niêm luật, vần điệu. Mô hình phân tích đã thay thế cho mô hình tổng hợp trong các cấu trúc nghệ thuật. Phê bình văn học sang trang, sử dụng những phương tiện mới xuất hiện: ngữ học cơ cấu. Sự khám phá của de Saussure về ký hiệu ngôn ngữ cho thấy tính chất đa nghĩa của mỗi ký hiệu ngôn từ. Và cấu trúc luận cho biết thêm về mối tương quan bên trong, giữa các ký hiệu. Từ đó tìm ra những ý nghĩa chìm lặng, ẩn dấu trong văn bản. Phần lớn những khuynh hướng phê bình mới dựa trên quan điểm triết lý: tác giả không ý thức được rõ ràng chủ đích sáng tạo của mình. Và người phê bình, có nhiệm vụ, qua văn bản và chỉ có văn bản (chứ không dựa vào các yếu tố ngoài văn bản như tiểu sử, thời đại, ...) để khám phá ra những gì "nằm sau" tác phẩm, phần không nói rõ trong tác phẩm, và đó mới là mục đích chính của phê bình. Câu "tác giả đã chết" của Barthes là một lối ngoa ngữ muốn đề cao văn bản, chỉ có văn bản là đáng chú ý mà thôi. Phê bình mới, ở Pháp, có ba khuynh hướng gây được ảnh hưởng quan trọng: - Phê bình phân tâm hiện sinh của Sartre Sartre chống lại quan niệm vô thức của Freud (Freud cho vô thức là chủ thể của sáng tạo, quan niệm của Freud được Breton sử dụng để đưa mơ vào sáng tạo và hình thành chủ nghĩa siêu thực). Sartre tìm kiếm sự hình thành tác phẩm từ bên trong văn bản. Sartre cho rằng con người là một sinh vật có ý thức, nhưng là một sinh vật bị quy định bởi hoàn cảnh lịch sử, nhưng thoát ra được hoàn cảnh lịch sử bằng sự tự do của chính mình. Do đó tự do và trách nhiệm là hai yếu tố cơ bản định hướng cho mọi bút pháp và văn bản. Chúng quy định điều kiện sáng tạo của nhà văn, chúng là chủ thể của mọi lựa chọn, mọi nhận thức riêng tư của nhà văn về cuộc đời. Phê bình phân tâm hiện sinh của Sartre thường sâu sắc và có tính thuyết phục cao, vì nó tìm đến cơ nguyên của hành động viết, giải thích tác phong ngôn ngữ của con người bằng vấn đề bản thể học. - Gaston Bachelard, phê bình phân tâm vật chất, Chú ý đến sự cấu tạo vật chất xung quanh con người. Con người khi tiếp xúc với những yếu tố thiên nhiên như: đất, nước, lửa, không khí ... từ thời thơ ấu đã để lại trong ký ức những hình ảnh nên thơ, không tan loãng và đọng lại trong tiềm thức. Những hình ảnh ấy, khi sáng tác, sẽ trở lại và tạo thành những hình ảnh đẹp trong thơ như ẩn dụ, hay những loại hình nghệ thuật khác nhau. Tóm lại, sức tưởng tượng của sáng tạo phát sinh từ những tích lũy nghệ thuật thời xa ấy. Cho nên những "buồn trông cửa bể chiều hôm, thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa" chỉ là sự ghi lại những gì đã có sẵn trong ngăn kéo hình tượng nghệ thuật được lưu trữ trong tâm hồn Nguyễn Du. - Phê bình ngữ học cơ cấu của Roland Barthes Roland Barthes là người đưa ra những quy ước cụ thể để xây dựng một nền phê bình mới, dựa trên ngữ học cơ cấu. Ông chủ trương: Nhà phê bình không cần lập lại những gì tác giả đã viết, kể lại câu truyện, giải thích ý nghĩa, v.v... mà phải tìm ra những cơ cấu, những chủ đề của tác phẩm. Một tác phẩm có hai nấc giá trị: Cái "lisible" tức là phần dễ đọc, phần ý nghĩa hiển nhiên rõ rệt, ai đọc cũng thấy. Phần này không có gì lý thú đối với nhà phê bình. Cái "scriptible" phần ghi lại được, phần không thấy rõ tức là phần ẩn sau tác phẩm. Có thể tác giả cũng không thấy hoặc không chủ ý viết. Nhưng chính chữ nghĩa trong văn bản nói lên điều đó. Cái phần thứ hai này mới đáng chú ý đối với nhà phê bình. Một tác phẩm chỉ chứa phần đễ đọc không thôi thì đó là một tác phẩm đơn âm. Thạch Sanh Lý Thông là một truyện đơn âm. Một tác phẩm ẩn nhiều ý nghĩa ngầm là tác phẩm phức âm, đa nghĩa. Kiều là tác phẩm phức âm, đa nghĩa. Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp phức âm, đa nghĩa. Những tác phẩm xuất hiện trên thị trường chữ nghĩa mới chỉ là sản phẩm (produit), chúng tạo nên khu rừng văn chương um tùm và rậm rạp, thượng vàng hạ cám. Người phê bình, người đọc muốn lựa lọc sản phẩm thì phải làm hai thao tác: Đọc và đoán nhận. Chính thao tác thứ nhì, đoán nhận (interprétation), Interprétation hiểu theo nghĩa của Nietzsche là đoán nhận văn bản, không phải là cho nó một cái nghĩa (với ít nhiều cơ sở hoặc với ít nhiều tự do), mà ngược lại, phải thẩm định được tính cách đa âm, đa nghĩa của nó. Phần đa âm (pluralité) ấy là gì? Là tính chất tiểu thuyết trong truyện tiểu thuyết, chất thơ trong một bài thơ, phương pháp luận trong luận văn, phong cách trong văn cách, ... Tác động "đoán nhận" này có mục đích: không để cho người đọc mãi mãi chỉ là kẻ tiêu thụ (consommateur) sách, đọc ngấu nghiến cho biết cốt truyện rồi nhảy sang sách khác,... mà đưa người đọc tới cấp độ sản xuất tác phẩm (producteur du texte). Văn chương cổ điển phân chia rõ ràng ranh giới giữa người sáng tạo (tác giả) với kẻ tiêu dùng (độc giả): chủ nhân và khách hàng. Người đọc ở vào vị trí lười biếng, bị động, tóm lại là nghiêm chỉnh. Thay vì chơi để hưởng cái lạc thú trong kiến trúc chữ nghĩa, trong các biểu tượng, ... người đọc ngày trước chỉ có cái tự do còm cõi là đọc hay vứt sách đi; lối đọc như vậy không khác gì một kiểu trưng cầu dân ý, chán ngấy. Barthes đề nghị một thú đọc sách thú vị hơn: Người đọc cộng tác với người viết để khám phá ra những cái mới trong ngôn ngữ văn bản, sự khám phá này chính là tác phẩm đang viết của người đọc, đó là siêu văn bản. Cách đọc này đẩy người đọc ra ngoài cái thế bị động chỉ biết nhận tác phẩm trong cái nghĩa tiêu dùng mà không góp phần "cộng tác" để đưa đến cái thế chủ động, vừa đọc, vừa tìm tòi, "sản xuất". Do đó có đối thoại giữa người đọc và người viết qua trung gian của văn bản.. Với thái độ mới này, ông "đọc lại" những tác phẩm cổ điển của Racine, Balzac và cuốn S/Z là tác phẩm chứng minh lập thuyết phê bình của Barthes trong chiều hướng đối thoại, phân tích ngôn ngữ theo cấu trúc luận. * * * Có thể nói phê bình mới đã tìm được con đường đa nguyên để tiến tới đối thoại giữa người xưa và người nay, nhưng chính ở căn bản đa nguyên đó mà nó không loại trừ các khuynh hướng khác, kể cả khuynh hướng cổ điển trong phê bình. Người phê bình cần có nhiều nguồn thông tin, nguồn kiến thức và nhất là một tâm hồn cảm thông sâu sắc với nghệ thuật và sự mở cửa của tâm hồn. Trong một cuộc chơi, người nào có nhiều cửa ngõ là có nhiều khả năng mở rộng vùng trời hơn những bạn đồng hành. Paris tháng 8/1997 Thụy Khuê
  17. “Chương đầu tiên giúp bán cuốn sách đầu tiên, chương cuối cùng giúp bán các cuốn sách tiếp theo”, đó là quan điểm về vai trò của đoạn kết tác phẩm mà ông vua tiểu thuyết trinh thám Mickey Spillane đúc kết sau nhiều năm viết lách.Cũng đề cập tới chủ đề này, Graham Greene, tác giả của The quiet American (Người Mỹ trầm lặng) nói rằng “Trong vô thức những từ cuối cùng của tác phẩm luôn được viết trước khi những từ đầu tiên xuất hiện trên giấy”. Margaret Mitchell có từng chi tiết rõ ràng của câu chuyện trong tâm trí trước khi ngồi xuống máy đánh chữ Nhân vật nổi tiếng của bang Georgia (Mỹ), Margaret Mitchell bắt đầu viết Gone with the Wind (Cuốn theo chiều gió) sau khi từ bỏ công việc của một phóng viên ở Tạp chí Atlanta. Trong khi chăm sóc cho đôi chân bị thấp khớp, bà giết thời gian bằng cách bắt đầu viết một cuốn tiểu thuyết về chiến tranh với mục đích duy nhất là giải sầu. Cho tới khi một biên tập viên tên là Harold Latham phát hiện ra cuốn tiểu thuyết và khẳng định rằng nó có tiềm năng của một bestseller. Bản chất câu chuyện của Margaret Mitchell là sự sống còn. Bà đã viết những dòng cuối cùng của Gone with the Wind với một sự đau buồn, mất mát thực sự. “Tôi để họ tự tiết lộ về số phận của mình... Mục đích của tôi khi viết cuốn tiểu thuyết này là để lại một kết thúc mở cho độc giả”, trong một lá thư gửi tới biên tập viên Harold Latham, Margaret Mitchell tâm sự. Về công việc sáng tác của mình, Margaret Mitchell nói “Tôi có từng chi tiết rõ ràng của câu chuyện trong tâm trí trước khi ngồi xuống máy đánh chữ. Tôi tin rằng đó là cách tốt nhất để viết một cuốn sách. Nhờ đó, nhân vật không thể đi chệch hướng những gì bạn hoạch định cho họ”. John Irving John Irving luôn nghĩ ra kết thúc tác phẩm khi mới đặt bút viết nó John Irving – Một trong những gương mặt sáng giá bậc nhất trên văn đàn thế giới hiện nay luôn biết chính xác câu chuyện mình sắp viết sẽ kết thúc như thế nào. John Irving từng làm một việc rất đáng yêu là đánh máy chính xác những dòng cuối cùng của cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình trong các tấm bưu thiếp gửi đến những người bạn thân. Và những người bạn này đã xác nhận rằng thậm chí những dòng này không thay đổi, dù chỉ một dấu chấm câu khi cuốn tiểu thuyết được công bố. “Tôi không biết rằng những gì mình nghĩ ngay từ đầu lại là dòng cuối cùng của tác phẩm, cho tới cuốn sách thứ 6 của tôi, The Cider House Rules (Tạm dịch: Trở lại chốn xưa). Lúc này tôi mới hay mình luôn nghĩ ra kết thúc tác phẩm khi mới đặt bút viết nó”, nhà văn người Mỹ cho biết. Người ta đã ví việc nghĩ ra kết thúc tác phẩm trước tiên của John Irving giống như một bản nhạc mà ông đã biết trước. Giải thích về điều này, người kể chuyện tài tình của nền văn học Mỹ cho hay: “Bạn phải biết những gì ở cuối câu chuyện, có như vậy mới biết cách làm thế nào để bắt đầu viết nó”. Richard Peck Richard Peck coi chương đầu tiên chính là ngụy trang của chương cuối cùng Tiểu thuyết gia của thanh thiếu niên, Richard Peck là một người có kỷ luật viết lách hết sức nghiêm khắc. Khi bắt đầu một cuốn sách, Richard Peck cũng đã dự liệu về kết thúc của nó. Khi viết tác phẩm The A Year Down Yonder (Tạm dịch: Vào một năm xa kia), ông soát lại mỗi trang viết ít nhất 6 lần với một cây bút luôn lăm lăm trong tay. “Sau một năm, cuối cùng tôi đã hoàn thành tác phẩm. Tôi xem lại chương đầu tiên và vứt bỏ nó ngay lập tức bởi vì trên thực tế, chương đầu tiên chính là ngụy trang của chương cuối cùng”. Edgar Allan Poe Kết cục của một câu chuyện luôn hiển hiện hàng đầu trong tâm trí Edgar Allan Poe suốt quãng thời gian ông tạo ra diễn biến của nó Bậc thầy của những câu chuyện bí ẩn kinh dị, Edgar Allan Poe tin rằng những nhà văn vĩ đại luôn biết trước kết thúc câu chuyện của họ, và tác động của kết thúc này với độc giả. Edgar Allan Poe không thích đọc tiểu thuyết, ông cảm thấy “e ngại, hụt hơi với những câu chữ dài dòng”. Đặc biệt hơn cả, những câu văn ám chỉ kết thúc của câu chuyện luôn được nhà văn thuộc thế hệ đầu tiên của nền văn học độc lập Mỹ in nghiêng như một cách báo hiệu về kết thúc của tác phẩm. Điều này cũng chứng minh rằng kết cục của một câu chuyện luôn hiển hiện hàng đầu trong tâm trí Edgar Allan Poe, suốt quãng thời gian ông tạo ra diễn biến của nó. J.K. Rowling J.K. Rowling đã giữ bí mật về kết cục Harry Potter suốt 17 năm Năm 1990, khi đang là hành khách trên một chuyến tàu, J.K. Rowling đã nảy ra ý tưởng viết câu chuyện về một cậu bé phù thủy “gầy gò, nhỏ bé, tóc đen và đeo kính cận”. Ngay tối hôm đó, nữ nhà văn tỉ phú bắt tay vào viết chương đầu tiên của bộ truyện Harry Potter and the Philosopher’s Stone (Harry Potter và hòn đá phù thủy). Cùng thời điểm, bà cũng viết phần kết thúc của chương thứ 7, cũng là chương kết thúcHarry Potter, Harry Potter and the Deathly Hallows (Harry Potter và bảo bối tử thần). “Tôi đã luôn luôn lên kế hoạch cho 7 chương của bộ sách”, J.K. Rowling phát biểu trên tờ BBC vào năm 2006. Trước đó, vào năm 2005, trong một cuộc phỏng vấn với Owen Jones, nữ nhà văn cũng cho biết: “Những cuốn sách đã được viết trong một thời gian dài và chúng đều đi theo một phương hướng đã định trước”. Điều ấn tượng hơn cả ở bộ truyện này có lẽ là việc tác giả J.K. Rowling đã có thể giữ bí mật về kết cục của nó suốt 17 năm, từ khi tác phẩm ra đời cho đến khi kết thúc. Agatha Christie Agatha Christie là một người có óc logic đáng ngưỡng mộ Cây bút viết truyện trinh thám được yêu thích nhất ở nước Anh, Agatha Christie có một cách làm việc rất kỳ lạ. Khi bắt đầu đặt bút viết, nữ nhà văn đồng thời xây dựng các câu chuyện nhỏ khác xung quanh các nhân vật của cuốn sách. Thông thường, Christie sẽ xây dựng một sơ đồ về câu chuyện chi tiết của kẻ giết người và mô tả nó là “Một cuốn sách phát triển từ bên trong độc giả và được hoàn thiện từ đầu đến cuối”.
  18. Mới đây, độc giả hết sức ngỡ ngàng trước sự kiện nhà văn J.K. Rowling tiết lộ bà chính là Robert Galbraith, tác giả cuốn sách The Cuckoo’s Calling. Từ đó gợi mở về câu chuyện đằng sau bút danh bí mật của các cây bút ăn khách.Lý do rất đơn giản, một bút danh mới là cách để giải phóng các cây bút thoát khỏi áp lực danh tiếng của chính họ. J.K. Rowling (Robert Galbraith) Nhà văn JK Rowling đề một cái tên vô danh dưới tác phẩm mới của mình "để không bị thổi phồng hoặc đặt quá nhiều kỳ vọng" Từ một tiểu thuyết trinh thám có lượng phát hành “thường thường bậc trung”, vài giờ sau, The Cuckoo’s Calling (Tạm dịch: Tiếng gọi của cúc cu) của Robert Galbraith đã có mặt trong danh sách những tác phẩm bán chạy nhất thế giới sau khi nhà văn JK Rowling tiết lộ trên tờ Sunday Times rằng bà chính là tác giả và Robert Galbraith là một bút danh mới. Trước đó, Mulholland Books, đơn vị chịu trách nhiệm xuất bản cuốn sách chỉ nói chung chung rằng tác giả Robert Galbraith là một cựu thành viên của đội điều tra đặc biệt thuộc cảnh sát quân sự Hoàng gia. Về lý do của bút danh mới, tác giả của Harry Potter nói rằng bà muốn cuốn sách có một số phận bình thường, “không bị thổi phồng hoặc đặt quá nhiều kỳ vọng, một niềm vui thuần túy từ sự phản hồi của nhà xuất bản và độc giả khi lấy một cái tên vô danh”. Sau khi danh tính thực sự của tác giả Robert Galbraith được tiết lộ, cuốn sách xoay quanh cuộc điều tra của thám tử tư về cái chết bí ẩn của một người mẫu đã leo từ vị trí thứ 5.076 lên vị trí số một trong danh sách các tác phẩm bán chạy nhất trên mạng Amazon.com. Joe Klein (Anonymous) Joe Klein giữ bí mật danh tính của mình là hành động đúng đắn của một nhà báo chuyên nghiệp Joe Klein không chỉ là một cây bút bình luận chính trị kỳ cựu của tờ Time, mà còn là một tác giả của tiểu thuyết Primary Colors (Tạm dịch: Những sắc màu chủ yếu) dưới bút danh Anonymous. Ra đời năm 1996,Primary Colors đã mở khóa những sự kiện trong chiến dịch tái tranh cử của Bill Clinton vào năm 1992. Dù Joe Klein đã nhiều lần phủ nhận rằng ông không phải tác giả của Primary Colors, nhưng cuối cùng ông đã tổ chức một cuộc họp báo và thừa nhận sự thật. Theo tờ The New York Times, việc Joe Klein giữ bí mật danh tính của mình là hành động đúng đắn của một nhà báo chuyên nghiệp với nguồn tin có được. “Thật không dễ dàng nhưng có lúc tôi đã phải nói dối để bảo vệ nguồn tin, và điều này nằm trong danh mục đó”, ông chia sẻ. Những chữ viết tay ghi chú trên bản thảo đầu tiên chính là căn cứ khiến Joe Klein không thể chối từ tác phẩm của mình. Năm 2011, khi cuốn tiểu thuyết O: A Presidential Novel (Tạm dịch: O: Truyện tổng thống) của một tác giả ẩn danh viết về hậu trường Nhà trắng, đồng thời biết ông Obama sẽ làm gì để được tái cử nhiệm kỳ mới vào năm 2012 được xuất bản, cái tên Joe Klein tiếp tục được liệt vào danh sách tác giả nghi ngờ. Bất chấp tất cả, ký giả hàng đầu ở Washington lại một lần nữa kiên quyết bác bỏ O: A Presidential Novel không phải là "đứa con tinh thần" của ông. Nora Roberts (JD Robb) Nora Roberts không tiết lộ danh tính thật trên các đầu sách trinh thám kinh dị, khoa học viễn tưởng, và coi đó là "một thử thách, một cơ hội để đi sâu với thể loại sáng tác mới" Nora Roberts được ngợi ca bằng những mỹ từ như “Nữ hoàng tiểu thuyết lãng mạn”, “Cỗ máy sáng tác ăn khách” trước khi tung ra các tiểu thuyết trinh thám kinh dị, sách khoa học viễn tưởng dưới bút danh J.D. Robb. In Death (Tạm dịch: Cái chết) là tác phẩm đánh dấu sự chuyển hướng của Nora Roberts được xuất bản vào năm 1995. Tuy nhiên, phải đến cuốn sách thứ 12 xuất bản năm 2001, Nora Roberts mới tiết lộ rằng JD Robb là một bút danh bí mật của bà. Trên trang web của mình, Nora Roberts cũng công khai giải thích về động thái này là “một thử thách, một cơ hội để đi sâu với thể loại sáng tác mới". Những tác phẩm mới của Nora Roberts sau đó tiếp tục được xuất bản dưới bút danh J.D. Robb và bán rất chạy. Đây được xem là một kế sách tận dụng cơ hội rất khôn ngoan của Nora Roberts, nhằm mở ra một thị trường mới, những đối tượng độc giả mới, làm tăng cơ hội tiêu thụ sách, một chuyên gia trong lĩnh vực xuất bản đánh giá. Ruth Rendell (Barbara Vine) Từ năm 1986, sau khi nếm trải những vinh quang của thể loại trinh thám, Ruth Rendell đã lặng lẽ đề bút danh Barbara Vine dưới 14 tiểu thuyết Là một phụ nữ thoạt nhìn có vẻ nữ tính, tuy nhiên những tác phẩm viết về thế giới tội ác của tác giả Ruth Rendell và lao động viết lách sung mãn của bà khiến độc giả phải ngả mũ kính phục. Từ năm 1986, Ruth Rendell đã lặng lẽ đề bút danh Barbara Vine dưới 14 tiểu thuyết. “Đó là một cách để trau dồi hai văn phong khác biệt”, bà giải thích. Các tác phẩm lấy tên thật của Ruth Rendell được biết tới nhiều hơn, nổi tiếng hơn nhờ yếu tố li kỳ, trái lại các tác phẩm dưới bút danh Barbara Vine trầm lắng hơn, gần với đời hơn. Tuy nhiên, không vì thế mà cây bút 83 buồn lòng, đơn giản vì bút danh đơn giản này cho phép bà khám phá những chủ đề cụ thể, thí dụ như sự tiến hóa của đạo đức. Anne Rice (Anne Rampling, A.N. Roquelaure) Lợi nhuận mà các bút danh đề dưới thể loại sáng tác này mang lại cho Anne Rice là khoảng 500.000 USD tiền bản quyền mỗi năm Nhà văn 70 tuổi, Anne Rice, vốn nổi tiếng với tiểu thuyết Interview With a Vampire (Tạm dịch: Cuộc phỏng vấn với ma cà rồng) đã quyết định rời bỏ hào quang với hành động xuất bản cuốn tiểu thuyết Exit to Eden (Tạm dịch: Rời khỏi thiên đường) vào năm 1985 và tiểu thuyết Belinda vào năm 1986 với bút danh Anne Rampling. Đáng chú ý, cả hai đều là những tiểu thuyết khiêu dâm. Những năm 1980, bà cũng đã viết một tác phẩm tên là Sleeping Beauty Trilogy (Tạm dịch: Người đẹp ngủ trong rừng) với bút danh A.N. Roquelaure. Trong một cuộc phỏng vấn với tờ Telegraph, Anne Rice phủ nhận nhận định những cuốn tiểu thuyết dưới các bút danh khác của bà là “liều thuốc độc với giới trẻ”. Và thực tế cũng cho thấy, lợi nhuận mà các bút danh đề dưới thể loại sáng tác này đã mang lại cho Anne Rice là khoảng 500.000 USD tiền bản quyền mỗi năm. Jayne Anne Krentz (Amanda Quick, Jayne Castle) Jayne Ann Krentz không khuyên người viết trẻ sử dụng nhiều bút danh khác nhau như một chiến lược của sự nghiệp Tiểu thuyết gia lãng mạn có lượng fan khổng lồ tại Mỹ đã ra sách dưới 3 bút danh khác nhau từ năm 1979. Theo tờ USA Today, 3 cái tên đã thiết lập 3 thế giới văn học riêng biệt: Jayne Ann Krentz cho tiểu thuyết hồi hộp lãng mạn, Amanda Quick cho tiểu thuyết lịch sử và Jayne Castle cho khoa học tương lai, viễn tưởng. Tuy nhiên, đây không phải là kế hoạch ban đầu của Jayne Anne Krentz. “Hãy tin tôi, tôi không có ý định tạo lãnh địa riêng cho ba bút danh mà chỉ có ý tưởng rằng mình sẽ chọn gắn bó với bút danh nào mang lại thành công nhất”, nữ nhà văn cho hay. Điều bất ngờ là Jayne Anne Krentz lại thành công ở cả ba thể loại. Dù vậy, bà vẫn khẳng định: “Tôi không khuyên bạn dùng cách này như một chiến lược của sự nghiệp”. Stephen King (Richard Bachman) Khi bị phát hiện chính ông là Richard Bachman, Stephen King tuyên bố Richard Bachman “đã qua đời vì bị ung thư bút danh” Bậc thầy về thể loại truyện kinh dị, Stephen King cũng là một nhân vật sử dụng một bút danh khác trong thời điểm mới bước vào làng văn. Đó là năm 1977, bảy tiểu thuyết liên tiếp của Stephen King đã được xuất bản dưới bút danh Richard Bachman. Giải thích về điều này, tác giả ăn khách nhất nhì nước Mỹ cho hay: “Trong những ngày mới bắt đầu sự nghiệp viết lách, tôi đã nghĩ rằng trung thành với một cái tên ít nhất một năm sẽ được công chúng chấp nhận”. Sở dĩ Stephen King chọn bút danh Richard Bachman bởi vì trong khi gọi điện tới nhà xuất bản, ông quan sát thấy trên bàn có một cuốn sách của Richard Stark và một bản nhạc của Bachman Turner Overdrive đang vang lên nên quyết định ghép nối thành bút danh này. Cho đến năm 1985, một nhân viên của hiệu sách tên là Steve Brown mới nhận thấy những điểm tương đồng giữa phong cách của hai tác giả Stephen King và Richard Bachman. Anh này đã cất công tìm hiểu và xác định rằng đó chỉ là một người. Stephen King cũng sớm khẳng định điều này và tuyên bố rất vui vẻ rằng Richard Bachman “đã qua đời vì bị ung thư bút danh”. Evan Hunter (Ed McBain) Sở dĩ Salvatore Albert Lombino đổi thành các bút danh tiếng Anh vì ông cho rằng một cái tên thuần Italia sẽ khó giúp ông phát triển sự nghiệp ở Mỹ Được mệnh danh là Ông hoàng truyện trào phúng trinh thám Mỹ, Evan Hunter còn là một cây bút kỳ cựu của thể loại khoa học viễn tưởng. Ngoài Evan Hunter, ông còn sử dụng rất nhiều bút danh như Hunt Collins, Curt Cannon, Richard Marsten, DA Addams và Ted Taine. Sinh năm 1926 với tên thật là Salvatore Albert Lombino, nhà văn chính thức đổi thành Evan Hunter vào năm 1952, tuy nhiên bút danh Ed McBain mới thực sự mang lại thành công rực rỡ nhất cho ông. Bắt đầu từ năm 1956, ông đã bắt đầu sử dụng bút danh Ed McBain cho hầu hết các tiểu thuyết trinh thám của mình Năm 2005, trong cáo phó sau cái chết của Evan Hunter ở tuổi 78 vì bệnh ung thư, tờ The New York Times giải thích rằng sở dĩ Salvatore Albert Lombino đổi thành các bút danh tiếng Anh vì ông cho rằng một cái tên thuần Italia sẽ khó giúp ông phát triển sự nghiệp ở Mỹ. “Nếu bạn là một người Mỹ gốc Italia, bạn bị cho là người ít có học thức”, Evan Hunter nói vào năm 1981. Hai bút danh Evan Hunter và Ed McBain cũng được giữ bí mật trong một thời gian dài, không lộ ra là của cùng một người. Louisa May Alcott (A.M. Barnard) Louisa May Alcott cũng được biết đến với bút danh lưỡng tính: A.M. Barnard Tác giả của tiểu thuyết Little Women (Tạm dịch: Những cô gái nhỏ), nhân vật ủng hộ mạnh mẽ quyền bỏ phiếu cho phụ nữ lấy tên thật đề dưới các tác phẩm của bà. Tuy nhiên, Louisa May Alcott cũng được biết đến với bút danh lưỡng tính: A.M. Barnard. Nhà sử học Leona Rostenberg là người đầu tiên phát hiện ra bút danh này của Louisa May Alcott khi nghiên cứu tại thư viện Houghton của đại học Harvard. Rostenberg tìm thấy một bộ sưu tập các lá thư mà một số nhà xuất bản ở Boston gửi đến Louisa May Alcott vào năm 1856 và 1866. Những lá thư này tiết lộ rằng Louisa May Alcott còn được gọi là A.M. Barnard. Từ manh mối này, năm 1970, những người nghiên cứu tác phẩm của Louisa May Alcott đã phát hiện ra một số tác phẩm ít được biết đến của bà và chính thức xuất bản chúng. Charlotte, Emily và Anne Brontë (Currer, Ellis và Acton Bell) Ba chị em gái nhà Brontë: Charlotte, Emily và Anne Trong khi các nhà văn đương thời đưa ra nhiều giải thích cho bút danh của mình, chị em nhà Brontë chỉ sử dụng bút danh như một điều bắt buộc, cần thiết. Nguyên do là ở thế kỷ 19, phụ nữ nước Anh không được phép xuất bản tác phẩm của mình. Vì vậy, cả ba chị em đã phải sử dụng những cái tên nam giới Currer, Ellis và Acton Bell, viết tắt chữ cái đầu tiên trong tên thật của họ để đề dưới mỗi tác phẩm. Tháng 5/1846, cả ba chị em nhà Brontë xuất bản hợp tuyển thơ đầu tiên dưới các bút danh này. Bút danh nam của ba cây bút trong gia đình Brontë cũng đã được đề dưới những tác phẩm nổi tiếng xuất bản vào năm 1847 như Jane Eyre của Charlotte và Đồi gió hú của Emily. Một năm sau đó, Charlotte và Anne tới London để gặp gỡ các nhà xuất bản và lúc này người ta mới vỡ lẽ rằng họ là những người phụ nữ. Nguồn tin: libero.vn
  19. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân đăng lần đầu tiên trên tạp chí Tao Đàn số 29 năm 1939, với tên gọi "Giòng chữ cuối cùng" Sách giáo khoa Ngữ văn 11 hiện nay sử dụng văn bản trích từ tập “Vang bóng một thời”, xuất bản năm 1940. Giữa hai bản in này, có sự khác biệt khá lớn.
  20. 100 năm ngày sinh của Vũ Trọng Phụng, đọc lại những "Giông tố", "Vỡ đê", "Số đỏ", "Làm đĩ" và những truyện ngắn khác của ông, ngẫm lại thấy người xưa vẫn không hề xưa cũ. Tư duy của ông vẫn rất mới, đáng để cho các nhà văn Việt Nam thời nay soi vào, và ngẫm lại mình chút ít nào chăng?
  21. duonghoanghuu

    To Hoai

    Con dế mèn phiêu lưu trong giấc mơ con trẻ
  22. Rồi mai mưa gió qua đây Anh còn ở với cỏ cây, em về. Non nước cách xa,bạn bè lận đận Ta nằm đây trò chuyện với riêng mình. Hãy tha thứ! Có đôi lần ta lỗi bạn Nhưng yêu thương năm tháng vẫn còn đầy Trích thơ Thu Bồn
  23. Số phận đã đặt Hoàng Trung Thông vào một thử thách khắc nghiệt. Đó là việc phải làm quan, làm lãnh đạo. Không ít người đã gục ngã trong cái bẫy này. Hoàng Trung Thông thì không. Ông là “thi sĩ trong cốt lõi, trong bản chất” (Nguyễn Bao). Ông “nghèo bạc, nghèo tiền/ Nhưng anh giàu nhân phẩm” (Phạm Hổ), Ông “Ôm một khối lá biếc/ Ngạo nghễ nhìn bão giông (Tế Hanh)… Giữ phẩm giá, giữ lòng nhân ái, được “thiên hạ người người yêu” (Chế Lan Viên) cũng chính là giữ được cốt cách thi sĩ.
  24. Người đồng mình thương lắm con ơi Cao đo nỗi buồn Xa nuôi chí lớn Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn Sống trên đá không chê đá ghập ghềnh Sống trong thung không chê thung nghèo đói Sống như sông như suối Lên thác xuống ghềnh Không lo cực nhọc Y Phương

Footer title

This content can be configured within your theme settings in your ACP. You can add any HTML including images, paragraphs and lists.

Footer title

This is an example of a list.

Footer title

This content can be configured within your theme settings in your ACP. You can add any HTML including images, paragraphs and lists.

Footer title

This content can be configured within your theme settings in your ACP. You can add any HTML including images, paragraphs and lists.

×
×
  • Create New...