Jump to content

tieuholo

Điều Hành Viên
  • Số bài viết

    732
  • Gia nhập

  • Đăng nhập

Bài viết được đăng bởi tieuholo


  1. Đoản khúc mùa thu

    Truyện ngắn của Nguyễn Đình Tú

     

    Ngày anh cưới vợ em mặc chiếc áo màu cánh sen, hở cổ và chiếc váy dài màu trắng sữa. Dáng hình mảnh mai, mái tóc ngắn rẽ ngôi một bên, gương mặt trang điểm nhẹ nhàng, đầu ngẩng cao và ánh nhìn lạnh băng kiêu hãnh, em đã xuất hiện trước anh trong hình hài anh chưa bao giờ được trông thấy.

    Anh yêu, anh là một người mù

    Nên em đâu dám trách

    Còn em, em có nguyên đôi mắt

    Song chẳng để làm chi...

    (Ha-lin Po-xvat-tôp-xka)

    Chúng ta gặp lại nhau vào một ban mai cuối thu.

     

    Trên bãi cỏ cạnh ghế đá công viên chúng ta cùng ngồi, hai đứa bé xinh xắn đang mải mê nghịch ngợm những chiếc lá bàng đỏ, những bông hoa cỏ vàng, những trái bằng lăng khô mà chúng mới tha thẩn lượm nhặt về. Giọng nói, tiếng cười hồn nhiên của chúng hòa cùng tiếng chim hót thánh thót văng vẳng đâu đó. Hai đứa bé ấy chính là hai đứa cháu út ít của chúng ta.

     

    Bên hồ. Mặt nước trong veo, vơi cạn, lăn tăn sóng gợn. Cây phượng cao lớn vững chãi vươn những nhánh cành thanh mảnh về phía bầu trời xanh thẫm lạ lùng. Một ngày cuối của mùa thu. Nắng vàng hoe da diết. Những chiếc lá phượng bé bỏng, li ti, già nua, vàng úa cuối cùng còn vương vấn trên cây bị cơn gió heo may bứt xuống. Bay, bay mãi. Lá phượng rơi lên tay, chạm vào mặt, bám lên mái tóc và áo quần chúng ta.

     

    Có thể, đó cũng là cây phượng con cháu của loài cây tuổi trẻ chúng ta đã từng ghi dấu. Ngày xưa, những ngày đã lâu lắm rồi, cây phượng gù ấy đổ nghiêng thân về phía lòng hồ. Những chiếc cành mảnh mai của nó lòa xòa trên mặt nước. Tưởng như sẽ chạm hẳn vào mặt hồ mà rồi lại dè dặt run rẩy cách xa...

     

    * * *

    - Đến tận ngày cưới, em tới, chỉ cần em nói: Anh hãy kết thúc ngay trò đùa này đi! Anh đừng làm em đau khổ nữa! Một lời thôi, anh cũng sẵn sàng từ bỏ tất cả, cam lòng bị nguyền rủa, cam chịu mắc nợ cả đời với người con gái kia để đi cùng em, chạy trốn cùng em đến bất cứ nơi nào cả hai chúng ta cảm thấy bình yên và hạnh phúc. Nhưng em đã không làm như thế...

    - Em vẫn còn nhớ. Ngày anh cưới vợ em mặc chiếc áo màu cánh sen, hở cổ và chiếc váy dài màu trắng sữa. Dáng hình mảnh mai, mái tóc ngắn rẽ ngôi một bên, gương mặt trang điểm nhẹ nhàng, đầu ngẩng cao và ánh nhìn lạnh băng kiêu hãnh, em đã xuất hiện trước anh trong hình hài anh chưa bao giờ được trông thấy. Xinh đẹp, dịu dàng, trẻ trung, trang trọng và xa cách vô cùng. Rất nhiều người trai trẻ nhìn theo và mỉm cười thân thiện với em. Như một đôi rất yêu nhau, em khoác tay đi bên anh ấy, hồn hậu, nhiệt thành chúc mừng anh như cầu chúc cho người bạn thân thiết.

     

    ...Suốt buổi, anh ấy luôn phải nắm rất chặt lấy tay em, đôi lúc còn khẽ lắc lắc, như muốn nhắc: Chị vững vàng lên nhé. Còn có tôi đang bên cạnh chị đây này!

     

    Dĩ nhiên là em làm sao quên được vai diễn của mình. Em đã cố tìm gặp và nhờ cậy một chàng trai trẻ đóng vai người yêu để đi dự đám cưới của người yêu cũ. Có vẻ như ảnh hưởng trích đoạn bộ phim tâm lý hoặc trang tiểu thuyết tình cảm buồn thảm nào đó. Nhưng anh ấy đã nhận lời. Có thể, vì sự chân thật của em. Có thể, vì anh ấy cũng có trong mình tố chất của người nghệ sỹ: Đồng cảm, dễ sẻ chia, giàu lòng trắc ẩn và nhiệt thành!

     

    Em lặng lẽ nhìn cô dâu đi bên cạnh anh. Nghe nói, cô ấy kém em vài tuổi nhưng vì ngày cưới phải mang trên người quá nhiều đồ trang sức cộng với khuôn mặt trang điểm hơi kỹ càng nên có vẻ nặng nề, khô cứng và già dặn. Cô ấy khoẻ mạnh, lộng lẫy, cân đối, hiểu biết và vui vẻ là được rồi. Em nghĩ và thành thật tin vào hạnh phúc của anh. Vậy mà không hiểu sao khi tan tiệc, ra cửa, chạm vào nụ cười và lắng nghe giọng nói cảm ơn bè bạn của cô ấy em lại thấy có điều gì đó bất ổn... Nhưng em vội vàng xoá đi ý nghĩ này. Chỉ là linh cảm thoáng qua, linh cảm của một người đa đoan, mẫn cảm mà rõ ràng không nên như thế đối với cô gái đã có được anh trong đời. Trở về nhà, em ngã ngay xuống gối. Mệt nhoài, buồn thảm, trái tim cũng như quỵ xuống vì phải trải qua tình huống quá sự chịu đựng của mình.

     

    * * *

    - Cuộc hôn nhân của anh chỉ yên ổn được trong một vài năm. Khi đứa con đầu lòng ra đời, vợ chồng anh không sống cùng cha mẹ nữa mà ra ở riêng. Anh được đề bạt chức vụ cao hơn, công việc như ý và tiền bạc kiếm được ngày một dễ dàng. Vậy mà chẳng hiểu sao anh lại nhớ đến em nhiều thế. Mọi việc đối với anh trôi chảy, bài bản, suôn sẻ, thuận chiều nhưng sao tâm hồn anh trống rỗng và đơn điệu quá thể. Anh biết, anh đã sống bằng thói quen mất rồi. Anh và vợ anh hoàn toàn không hiểu nhau. Sự đồng cảm, chia sẻ, dịu dàng mà cô ấy dành cho anh những ngày yêu nhau chẳng qua cũng chỉ là một sự cố tình tạo ra để có được anh. Cái gì không phải là tự nhiên thì sẽ không bền lâu. Trước năm tháng đời người, sự gượng ép, giả tạo mau chóng phôi phai, lộ chân tướng. Điều bất hạnh lớn trong đời người đàn ông là không được sống cùng tri âm, tri kỷ. Không có em, nhớ em nhiều, anh âm thầm hiểu ra lý lẽ tình yêu của em. Chẳng ai yêu anh như em yêu anh. Lúc nào cũng dè dặt, lúc nào cũng dịu dàng, lúc nào cũng chưa trọn vẹn. Một tình cảm thoang thoảng, thực hư, mờ ảo, trên bạn bè một chút, dưới tình yêu một chút... Anh đã từng nghĩ, tình yêu của em giành cho anh, giống như nước lã. Nhưng bây giờ anh lại hiểu, đó không phải là thứ "nước lã người dưng" mà là nước lã tinh khiết, âm thầm bên nước đường ngọt ngào, mê đắm. Nước đường thì quyến rũ và dễ say lòng. Nhưng không ai uống nước đường được mãi. Chỉ có nước lã mới bền lâu... Khi anh thực sự biết đau, cũng là lúc đã quá muộn màng...

    - Là kẻ mất mát tình yêu của anh, em hoàn toàn gục ngã, kiệt sức và cảm thấy hình như cuộc sống của mình không còn tồn tại nữa. Em không muốn thức dậy bất cứ một ký ức nào về anh. Những tặng vật kỷ niệm anh dành cho em đều được gói ghém và mang đi chôn cất. Em muốn yên lành. Muốn lãng quên. Sáng nào thức giấc em cũng phải nhìn vào ảnh cha em, nước mắt vòng quanh, thầm thì hàng trăm lần lời hứa âm thầm trước vong linh người đã khuất. Những sắc màu loang lổ trên toan vẽ. Những hình khối lớn bé, xiêu vẹo, xấp ngã. Những đóa hoa run rẩy dưới ánh trăng giá lạnh. Những em bé, những cánh chim nhỏ nhoi trước ban mai rộng lớn. Em vẽ, cứ vẽ, vẽ mải miết. Em quên hết thời gian, quên cả nỗi muộn phiền, quên nỗi khổ đau hiện hữu và những nhức nhối trong tâm tưởng... Tâm trí và sức lực em dồn hết cho sự lựa chọn của mình, sự lựa chọn nhọc nhằn, cay đắng, một hành trình không hứa hẹn gì đến thành công và vinh quang cả. Nhưng mong ước có người kế nghiệp hội hoạ của cha, những giọt nước mắt và nụ cười không bao giờ trọn vẹn của em lại chính là điểm tựa vững vàng nhất mà em có. Đi tới bến bờ này lại nhận ra nơi phía trước kia hình như mới chính là bờ bến mình cần đến. Nghệ thuật không có điểm dừng lại. Nỗi buồn đau riêng tư cũng không bao giờ hết cả. Em đã vẽ rất nhiều, rất nhiều. Vẽ như hoà cả tâm hồn mình vào những sắc mầu, hình khối của năm tháng ấy...

     

    - Tranh của em luôn đầy sức sống, niềm tin, lạc quan và hy vọng. "Hoa mặt trời", "Em bé và con thỏ", "Khung cửa mùa thu", "Bà mẹ", "Bàn tay người tạc tượng"... Anh được tận mắt chiêm ngưỡng sự thành công của em vào chính những ngày buồn thảm nhất của đời anh. Con trai anh phải đưa vào trại cai nghiện ma tuý lần thứ tư. Vợ anh gần như mắc bệnh tâm thần. Đứa con gái bị chồng bỏ cứ hễ gặp mặt bố là rầu rĩ, thở than, khóc lóc. Ban lãnh đạo mới không xếp anh vào ê kíp làm việc của mình. Anh như rơi xuống vực thẳm, đầy chông gai, không thể nào gượng đứng dậy được. Mới ngoài bốn mươi mà tóc anh bạc trắng. Như sợi dây cung bị chùng xuống, anh không có ý định nài ép nghị lực của mình thêm một lần nữa căng lên. Rượu, trà, thuốc lá, bóng đá và cờ bạc là bầu bạn thường xuyên của anh. Phòng cơ quan, nhà mấy người bạn độc thân rồi quán xá trở thành nhà trọ thân thiết hơn mái nhà anh từng ra vào sinh sống bao nhiêu năm tháng. Rồi em ạ, tình cờ (ôi, tuổi trung niên còn xúc động và thức tỉnh trước sự tình cờ của số phận mới thật kỳ lạ!), một buổi vào giờ cơm tối, anh đang ngồi lơ mơ trong quán rượu thì ti vi đưa chương trình về em. Vẫn gương mặt xinh xắn, trẻ trung, dịu dàng. Vẫn nụ cười tinh nghịch, hồn hậu. Vẫn đôi mắt rực sáng và ánh nhìn ngay thẳng. Dù em có đẫy đà hơn, quý phái và sang trọng hơn, anh vẫn nhận ra em. Em trả lời phỏng vấn. Kỹ thuật viên để gương mặt em nổi bật trên khuôn hình, để tất cả khán giả hâm mộ đều được thấy rõ, được như đang trực tiếp đối diện với em. Vậy mà, khi ấy, anh lại có cảm giác là em chỉ nhìn thấy, chỉ nói chuyện với mình anh. Em đã thành công rồi. Lời hứa âm thầm trước người cha đã khuất của em mà mãi sau này anh mới biết nay đã thành hiện thực. Không ngờ, trong hội hoạ, một người vào tuổi hai mươi ba mới bắt đầu đi những bước đầu tiên lại mau chóng đạt được vinh quang rực rỡ. "Tôi muốn dành những lời sau nhất để gửi tới một người bạn của tôi, một kiến trúc sư tài hoa của những năm tôi tuổi hai mươi. Tôi vừa được biết, hiện tại anh đang gặp nhiều trắc trở trong sự nghiệp và đời sống riêng tư. Nhưng tôi luôn luôn tin rằng bằng nghị lực và tài năng của mình nhất định anh sẽ vượt qua. Vào giây phút này tôi mong mỏi được chia xẻ cùng anh như với người thân thiết yêu dấu của tôi".

     

    "Anh ngồi quán đấy à!", "Anh đừng hút thuốc lá!", "Anh đừng uống rượu nhé!"... Ngày xưa, em vẫn hồn hậu, ngây thơ, nhẹ nhàng khuyên can, nhắc nhở, quan tâm đến anh một gã lãng tử bụi phủi bất cần đời như thế. Bây giờ, thành đạt và vinh quang, em không lãng quên bạn bè cũ, em chưa hề quên anh... Như kẻ bừng tỉnh sau cơn mê, anh liêu xiêu đứng dậy, móc ví trả hết số tiền nợ của quán rượu rồi loạng quạng bước nhanh ra cửa. Ngôi nhà của anh. Dưới ánh đèn nê ông nhợt nhạt, con gái anh đang ngồi chờ bố bên mâm cơm. Vợ anh nhác bóng chồng vội xoè quạt giấy che mặt và cười khanh khách. Ghế bên phải anh còn trống trải - vị trí của đứa con nghiện ngập đang cai nghiện chưa về. Xộc xệch, tan nát, bất hạnh. Nhưng đó là gia đình của anh. Nó cần anh làm điểm tựa, cần anh vững vàng nhóm lại ngọn lửa hồng ấm áp, cần anh xốc lên, vực dậy. Sống hơn nửa đời, anh phải làm lại từ đầu. Nhọc nhằn, cay đắng nhưng cũng gắng gỏi lắm. Điều anh làm lại cho anh, cho vợ con anh không hẳn hoàn mỹ nhưng chắc chắn có ý nghĩa hơn những tháng ngày bạc nhược trước đó. Anh làm tất cả những gì mình có thể làm đó là vì ai, em biết mà...

     

    - Chồng em mất đã hơn mười năm rồi. Hơn ba ngàn ngày, em đã sống những phút giây trống rỗng. Nhưng em cảm ơn số phận đã ưu ái trao vào tay em tình yêu của anh ấy. Anh ấy chính là chàng trai có mặt bên em trong đám cưới anh ngày nào. Anh ấy là một họa sĩ, là học trò của bố em, là người thầy đầu tiên hướng dẫn em những nét cọ đầu tiên. Nhưng nếu em không hạnh phúc thì em cũng không đổ lỗi cho anh. Đừng trách quá khứ vì nếu cho ta làm lại từ đầu chưa chắc ta đã làm khác đi. Đôi khi con người ta cứ hay tuyệt đối hoá tình yêu. Chưa hẳn một tình yêu đẹp sẽ đưa đến một hôn nhân đẹp. Đừng lấy quá vãng bao biện cho những thua thiệt hiện tại. Có phải thế không?

     

    * * *

    Bà cụ ho húng hắng. Vẫn bị viêm họng đấy à? Ông lão lo lắng. Có nhớ ngậm gừng với một tý muối không? Phải mặc áo len cao cổ đấy nhé. Kìa, quàng lại khăn đi, gió thế này... Bà cụ móm mém cười, ngượng ngùng nhìn ông lão. Hói mất rồi nhỉ. Tóc lơ thơ thế này mà chẳng chịu mũ mão gì cả. Lạnh đầu lắm. Đây, tôi có mang hộp dầu gió, xoa ngay một ít vào thái dương cho ấm đi nào... Ông lão định bảo, bà yên tâm, tôi đàn ông đàn ang đâu có mỏng manh, ốm yếu như bà nhưng vội ghìm lại được. Phải rồi, ngày xa xưa ấy, mỗi lần người yêu dấu của cả cuộc đời ông dặn dò điều gì ông đều ra vẻ ngoan ngoãn nghe lời, thậm chí thề ước tuân thủ để rồi làm ngược lại tất cả. Ông cảm thấy thích thú, cảm thấy hạnh phúc khi nàng tức giận, dỗi hờn. Ông đã mong nàng thú nhận, mong được chứng kiến rằng vì ông ngang bướng, ương ngạnh, tồi tệ, lười nhác, xấu xa mà nàng phải khóc lóc, khổ sở, đau buồn. Ông đã nghĩ, như thế mới có thể nhận ra tình cảm của nàng đối với ông là đặc biệt, là hơn hẳn so với đám con trai tài hoa, giàu có, đẹp mã, luôn vây quanh, tôn sùng, thương quý nàng hết mực kia. Ông muốn có được tín hiệu tình yêu riêng của mình theo cách lạ lùng như thế. Bởi vì ông không bao giờ có đủ sự tự tin mỗi khi đối diện nàng hoặc đối mặt các "đối thủ" của mình. Ông không hề biết rằng, đúng hơn ông đã không nhận ra rằng nàng là một cô gái lặng thầm và cương nghị. Tình yêu của nàng dành cho ông giống như ngôi sao bé nhỏ trên trời xa, tưởng chừng yếu ớt nhưng vô cùng mãnh liệt. Ông đã không đủ can đảm, không đủ tự tin để đến gần ngôi sao tình yêu đời mình... Sai cả đời rồi, không thể tiếp tục sai thêm nữa. Mùi dầu thơm cay thoang thoảng bay...

    - Ông vừa hẹn tôi ngày mai, vào giờ này chúng ta lại đưa cháu ra ngoài công viên chơi phải không? Tôi chẳng hứa hẹn gì đâu. Tuổi già giống như cây nến cạn kiệt vì đã đốt cháy bản thân suốt những tháng năm đời người. Biết đâu ngày mai ngọn nến ấy lại không còn cháy nữa. Như thế lại thành thất hứa, lỡ hẹn với nhau... Thôi, ông ạ, tôi chỉ mong, con đường chung trước lối rẽ trở về với mỗi ngôi nhà của chúng ta dài thêm ra một chút. Muốn thế, thì chúng ta đi cùng nhau chầm chậm. Ông hãy đi bên tôi và nhìn những đứa cháu đang tung tăng chạy phía trước kia. Chúng ta đang đi giữa mùa thu đấy. Liệu có phải là mùa thu cuối cùng của cuộc đời không? Ai mà biết trước được... ông nhỉ?

     

    Hình như ngàn chiếc lá đang dệt một ban mai vàng.


  2. Điệp vàng

    Truyện ngắn của Nguyễn Đình Tú

     

    Lần nào cũng thế, cứ mỗi khi buồn nàng lại buông ra cái câu cũ rích: "Tôi đã mất một tá bạn trai vì dư luận rồi đấy, hy vọng ông là người dũng cảm hơn số họ, không vì thế mà dứt bỏ tôi ra đi".

     

    Vớ vẩn! Thật là vớ vẩn hết sức với cái bọn sắp làm công chức đến nơi nhưng lại đi phản ứng trước dư luận theo kiểu học trò. Hắn chẳng bao giờ thế. Nàng cũng biết hắn chẳng bao giờ thế nhưng nàng vẫn giao hẹn, giao hẹn để tự tin hơn trước cái tâm hồn lang bạt pha chút hiệp sĩ của hắn. Hôm nay hắn đưa nàng ra quán cà phê ở ngay cổng trường. Khi hắn nâng cốc cà phê lên, nàng khẽ cúi xuống không muốn nhìn. Nàng thừa biết cái kiểu uống của hắn, cái kiểu uống đã làm nghiêng ngả một quan niệm mà nàng cố công có được bằng sách vở. "Điệp ngạc nhiên và cảm thấy bị xúc phạm vì tôi chỉ tợp ba ngụm đã hết ly cà phê phải không? Ai bảo là uống cà phê phải nhấm nháp mới ngon? Hãy uống trà trước khi đọc Nguyễn Tuân, nếu thấy trà trong chén sứ trắng ngon hơn trà trong chén da chu thì cứ thế mà làm, tội đếch gì phải nô lệ sách vở. Với cà phê tôi cần vị đắng, ngọt và mùi thơm khen khét, ai dám bảo tôi uống ngụm lớn thì sẽ hưởng những cảm giác đó hạn chế hơn?"

     

    Đấy là hồi nàng mới quen hắn. Nói đúng ra là mới chơi với hắn vì nàng và hắn học cùng lớp từ những năm đầu. Nàng yêu thơ, yêu mùa hè và thích hoa điệp vàng. Hắn yêu gì thì có trời mới biết nhưng rõ ràng là với thơ ca thì hắn cũng không tệ lắm. Sau khi nàng chôn cất mối tình đầu của mình bằng mấy bài thơ đăng báo, hắn búng cho nàng một mẩu giấy nhỏ, bên trong có bốn câu "Khấu đầu trăm lạy cô mình, thơ chị rặt những chuyện tình bướm hoa, nào là khóc tháng ngày qua, nào than cái chuyện người ta bỏ mình...". Nàng tức điên lên nhưng rồi nàng chơi với hắn từ ấy. Hắn am tường thơ ca hơn nàng tưởng. Hắn cũng thích hoa điệp vàng. Hắn còn biết nhiều thứ khác nữa, đủ để mọi cô gái ngồi với hắn không cảm thấy nhàm chán. Hôm nay thì hắn lại ưu ái dành cho nàng chuyện thơ ca và hoa điệp. Hắn rút điếu thuốc dài bằng gang tay châm lửa đánh xoè, rồi hỏi nàng:

     

    - Điệp có biết nhà thơ nào viết về bướm thành công nhất không?

     

    Nàng nói ra một loạt tên các thi sỹ. Hắn bảo:

     

    - Sai bét, nửa thế kỷ trước đã có người làm thơ về Điệp mà Điệp không biết. Điệp hãy về tìm lại Tâm hồn tôi [1].

     

    Nàng à lên và thấy hơi thẹn. Để lấy lại bình tĩnh, nàng đưa ra một câu hỏi:

     

    - Câu thơ về bướm hay nhất?

     

    Hắn tủm tỉm cười rồi đọc:

     

    - Kể chuyện ngày xưa vua nước bướm, kén nhân tài mở Điệp lang khoa...

     

    Nàng trề môi chê dở. Hắn bảo hắn thích. Nàng hỏi:

     

    - Thích đỗ đầu Điệp lang khoa à?

     

    Hắn nhún vai:

     

    - Dĩ nhiên.

     

    Nàng bật cười khúc khích:

     

    - Thích làm phò mã?

     

    - Thích làm quan! Còn phò mã thì phải xem công chúa bướm thế nào đã. Hoa điệp không có vào mùa đông, trong phòng ngủ của tôi không có người đàn bà xấu.

     

    Nàng giật mình. Hắn cao ngạo và kiêu hãnh quá.

     

    Khi những bông điệp chuyển sang màu xám, quắt queo trên cây thì nàng và hắn tạm thời chia tay nhau. Hắn đủ điểm làm luận văn nhưng không có tiền, đành phải về quê thực tập. Nàng viết thư cho hắn, bảo mùa này Hà Nội nhiều hoa sữa, đường lên Thư viện Quốc gia nhiều hôm hương sữa đặc quánh. Trong thư trả lời hắn viết, hồn thu không hợp với điệp vàng, dưới bầu trời cao vời vợi, giữa nắng hè chói chang, hoa điệp nở tung sắc vàng, lúc ấy quả là ngàn bướm đang vờn múa bên những vòm cây, điệp sống và đẹp vào lúc đó.

     

    Trong lá thư cuối cùng nàng gửi cho hắn trước khi kết thúc kỳ thực tập, nàng có hỏi hắn về cách giải quyết lối ngỏ của đề tài đang viết. Hắn đáp: Đủ tiền thì mua cả lối ngõ của thầy, đừng sĩ diện giải quyết theo kiểu: có thiên đường không - chúa bảo có - ta bảo không - các cha linh mục cất công đi tìm.

     

    Nàng làm theo lời khuyên của hắn và luận văn ấy nàng được chấm mười. Nàng và hắn lại gặp nhau trong những ngày ngắn ngủi sau đó. Hắn vùi đầu vào ôn thi tốt nghiệp, nàng mải mê tập nói trong phòng kín. Hôm nàng bảo vệ thành công, hắn tặng nàng một cành lay ơn đỏ. Nàng thấy bông nở to nhất bị hắn đính lại bằng một sợi kim tuyến. Về nhà mở ra, nàng giật mình thấy trong đài hoa, một chú bướm vàng nhỏ xíu đập cánh bay lên. Thế là nàng và hắn chia tay. Hà Nội nhiều "đầu to" quá nên hắn không có chỗ chen chân. Nàng biết hắn nói thế chứ thực ra hắn không có điều kiện ở lại. Chơi với hắn lâu nhưng nàng chỉ lờ mờ nhận ra rằng hình như nhà hắn hơi nghèo.

     

    *

     

    Lá thư nào của hắn viết lên cho nàng cũng chan chứa lạc quan. Hắn cho biết hắn rất được lòng giám đốc sở, hiện đang trong giai đoạn thể hiện năng lực và sự nhiệt tâm, cuối thư là câu tuyên bố xanh rờn: Rồi một ngày không xa công học tập sẽ được đền đáp. Trong một lá thư khác hắn lại viết: Đã góp đủ tiền mua nửa căn nhà, cứ đà này chẳng mấy chốc sẽ khá.

     

    Còn nàng thì đi làm ngay sau khi ra trường. Bằng đỏ nhưng cứ phọt phẹt mãi chẳng leo lên được. Học trường nàng ra, con gái thường bất lợi. Nàng chưa lấy chồng vì nàng đưa ra những tiêu chuẩn khá cao cho những người đàn ông muốn bước vào phòng ngủ của nàng.

     

    Hôm nay nàng đến cơ quan hơi muộn vì đêm qua trời bỗng trở nên rét đậm. Nàng đặt mình xuống ghế và cố gắng hoàn tất đống công việc tích tụ đã hàng tuần. 11 giờ trưa, nắng vẫn không lọt xuống tới thềm nhà. Nàng co ro ôm đống giấy tờ lên phòng sếp. Tay trưởng phòng béo múp míp cứ nhìn nàng hít hà rồi bỗng thọc tay vào cổ nàng. Nàng hốt hoảng gạt tay lão ra, đống giấy tờ xổ tung, chiếc xắc tay cũng văng ra nơi góc phòng. Nàng chạy lại nhặt cái xắc rồi lao ra cửa. Khóa xắc bật ra tự khi nào và một nửa cái phong bì thò ra ngoài. Nàng bỗng nhìn thấy địa chỉ của hắn. Không nghĩ ngợi gì thêm, nàng gọi xe ra ga, lên tàu về quê hắn. Trời vẫn rét đậm. Xuống đến phố huyện nàng vội vàng lần tìm đến nơi hắn ở.

     

    Căn nhà hai tầng cao ráo có những nan hoa sắt cứa vào nền trời đông ảm đạm. Nàng vào quán nước bên đường hỏi thăm về hắn. Hắn đã có vợ, một cô vợ rất xấu, con ông giám đốc sở mà hắn thường viết trong thư. Hình như hắn không hạnh phúc lắm, hắn phải lo cho một mẹ già và bốn đứa em. Nàng hiểu hắn cũng chỉ là một thể xác hám lợi, bị ràng buộc bởi bao mối dây rợ luôn kéo ghì hắn xuống. Nàng thất thểu ra ga mua vé quay trở về. Nơi nàng có thể ấm lòng nhất trong chiều đông giá rét này cũng đã trở nên hoang lạnh. Nàng vừa ngồi xuống chiếc ghế ở phòng đợi thì hắn đến. Hắn đẹp hơn thời đi học nhưng nét nào cũng ẩn chứa sự chua chát. Hắn không cho nàng đi và mời nàng về nhà mẹ đẻ hắn. Hắn bảo hắn có nhà riêng, có vợ nhưng chưa bao giờ có giường ngủ đôi. Hắn nói cứ như đùa nhưng rõ ràng là hắn nói thật. Không làm phò mã trước chẳng thể là trạng nguyên, thời nay người ta cần những trạng nguyên không đăng khoa. Phép tính thời đi học đã cho hắn một đáp số sai nhưng hắn vẫn khẳng định hoa điệp không có vào mùa đông và trong phòng ngủ của hắn không thể có người đàn bà xấu.

     

    Nàng cười. Cười ngờ nghệch.

     

    Dù sao băng giá trong lòng nàng cũng tan đi ít nhiều.

     

    [1] Tên tập thơ của Nguyễn Bính.


  3. Điệu mambo hư ảo

    Truyện ngắn của Nguyễn Đình Tú

     

    Có hai câu chuyện anh muốn kể cho em nghe. Câu chuyện thứ nhất lý giải nguồn gốc ra đời của phụ nữ. Câu chuyện thứ hai lý giải nỗi thống khổ mà con người phải gánh chịu. Em muốn nghe câu chuyện nào trước?

     

    Thôi được rồi, em là phụ nữ, trước hết anh kể cho em nghe câu chuyện từ đâu mà phụ nữ được sinh ra trên cõi đời này nhé!

     

    Ngày xưa Chúa tạo ra con người, nhưng cái Con Người đầu tiên ấy là một gã đàn ông. Các Thiên Thần xin với Chúa hãy tạo ra một người đàn bà để gã đàn ông kia khỏi buồn...

     

    Sao? Em bảo gì cơ? Chúa nặn người đàn bà từ chiếc xương sườn thứ bảy của người đàn ông ư? Em biết chuyện đó rồi á? Không, chuyện em biết chỉ là dị bản thôi, nói đúng hơn, đó mới là khúc đầu. Câu chuyện ấy nguyên vẹn phải là như thế này cơ.

     

    ... Chúa thấy các Thiên Thần nói có lý, liền sai một vị xuống trần gian tìm cái Thằng Người mà Chúa vừa tạo ra trước đó, lấy một chiếc xương sườn về để Ngài tiếp tục tạo ra một người đàn bà. Vị Thiên Thần kia xuống trần gian tìm mãi không thấy Thằng Người đâu. Trái đất bấy giờ hoang vu, toàn rừng rậm, đại dương, sông hồ, lại chỉ có duy nhất một Thằng Người bé tí nên rất khó tìm. Bỗng Thiên Thần nhìn thấy một tên Quỷ Sứ. Tên Quỷ này trước đây cũng ở trên Thiên Đàng, vì phạm tội đánh vỡ một chiếc chén ngọc nên bị Chúa Trời đày xuống trần gian. Nhác trông thấy Thiên Thần, tên Quỷ Sứ kia sợ hãi, tưởng Chúa sai người nhà trời xuống bắt mình về chịu tội liền chui tọt vào hang đá trốn biệt. Nhưng vì hang đá chật quá nên Quỷ Sứ vẫn thò cái đuôi ra ngoài. Thiên Thần muốn hỏi Quỷ Sứ xem chỗ ở của Thằng Người ở đâu, liền cầm đuôi của Quỷ Sứ kéo ra. Kéo mãi, kéo mãi... kéo đến đứt cả cái đuôi mà Quỷ vẫn sợ, cứ ôm chặt lấy hang đá nhất định không chịu ra. Thiên Thần cầm cái đuôi của Quỷ trên tay bỗng nghĩ ra một cách, liền phù phép cho cái đuôi Quỷ giống hệt như chiếc xương sườn của Thằng Người, rồi bay về trời mang chiếc xương sườn giả đó đến trình Chúa. Từ lúc sai Thiên Thần đi tìm Thằng Người ở dưới trần gian Chúa cứ thế ngồi chờ, lâu quá, cơn buồn ngủ kéo đến lúc nào không biết khiến Ngài thiếp đi. Đúng lúc ấy Thiên Thần về đến dâng lên cho Ngài chiếc xương sườn. Chúa mắt nhắm, mắt mở, chẳng kiểm tra lại, cứ thế nặn ra người đàn bà. Lúc đầu người đàn bà vô hồn. Chúa phải thổi hồn vào người đàn bà mới biết nói, cười, vui, buồn, giận hờn, làm duyên... Nói chung rất sinh động và quyến rũ! Ngay sau đó người đàn bà được đưa xuống trần gian. Từ ấy Thằng Người có đồng loại.

     

    Cũng từ ấy trái đất có đàn ông và đàn bà, có sự sống và tình yêu. Loài người cũng từ ấy mà sinh sôi nảy nở. Đàn ông không thể thiếu được đàn bà và ngược lại, bởi Chúa sinh ra họ là để dành cho nhau. Nguồn gốc ra đời của đàn bà là như thế nên họ phức tạp và khó hiểu hơn đàn ông. Họ là sản phẩm kết tinh từ cái đuôi của Quỷ Sứ, sự lừa dối của Thiên Thần và nỗi mệt mỏi, chán chường của Thiên Chúa...

     

    Em cười ngặt nghẽo. Bia sánh ra chiếc cổ áo đỏ của em. Thú vị? Chắc chắn là như thế rồi. Em đã không nhịn được cười. Cười phun cả bia vào mặt Hoàng. Lúc trước cái miệng xinh xắn của em còn ghé hờ hững ở cổ chai Hênêken, rồi em ngửa cổ tu ừng ực và bây giờ thì những hạt bia nhỏ li ti đang bắn ra tứ tung từ hai hàm răng trắng bóng, đều tăm tắp. Chị Dung và chị Phương cũng cười hưởng ứng. Dường như hai bà chị này chưa “tiêu hóa” kịp câu chuyện trên nên không thấy nó mấy ý vị và hay ho, nghe tiếng cười nhạt như vị trà lipton kia là đủ biết. Không sao, với Hoàng thế là thành công rồi. Đối tượng tiếp cận của Hoàng bây giờ là cô bé đang cười hết cỡ kia chứ không phải hai bà chị già này.

     

    - Mười một giờ hơn rồi, mọi người tính về hay định thế nào đây? - Hoàng hỏi, mắt đánh về phía cô gái mặc áo cổ đỏ.

     

    - Két, em định thế nào? - Đến lượt chị Phương hỏi cô gái mặc áo cổ đỏ.

     

    - Bọn mình chia tay ở đây thôi. Em đang chờ bạn đến đón. Nhưng anh Hoàng còn chưa kể hết câu chuyện thứ hai kia mà? - Két đáp.

     

    - Em còn đi nữa hay về? - Hoàng hỏi Két.

     

    - Anh hỏi làm gì?

     

    - Anh đi cùng em được không?

     

    - Tốt hơn hết là anh về cùng các chị.

     

    - Vậy thì câu chuyện thứ hai anh sẽ kể cho em nghe vào một dịp khác. Bye!

     

    - Bye!

     

    Đó là buổi trò chuyện đầu tiên giữa Hoàng và Két. Cái mặt Hoàng không hợp với sàn nhảy lắm. Càng không phải là người của những cuộc chơi overnight [1]. Chính vì thế Hoàng phải đi từ chị Dung tới chị Phương, rồi bây giờ thì là từ chị Phương tới Két.

     

    Gần sáu tháng trước, cầm tấm bằng cử nhân văn khoa với tờ giấy chứng nhận đoạt giải ba cuộc thi truyện ngắn viết về học sinh sinh viên tới báo Xã Hội xin việc, Hoàng nhận được câu trả lời rằng: “Ở đây cần người viết báo chứ không cần người viết văn”. “Thì tôi viết báo!” - Hoàng ưỡn ngực đáp lại một cách cứng cỏi. “Cậu có biết tờ Xã Hội này tiara tăng vọt là vì mục nào không? Mục Xã hội muôn màu. Hãy bắt đầu từ những bài viết cho mục ấy. Nếu cậu chứng tỏ được mình ở mục này trong vòng sáu tháng, tôi đảm bảo cậu sẽ được ký hợp đồng”.

     

    Sáu tháng sắp trôi qua đến nơi rồi. Lẹt đẹt được hai bài in ép, in chiếu cố. Niềm kiêu hãnh có được từ giải ba truyện ngắn chết tiệt kia Hoàng đã quẳng xuống cống ngay sau tháng đầu tiên thử việc. Bây giờ thì Hoàng chẳng còn gì để bám víu. Khả năng báo chí của Hoàng có lẽ cũng chỉ đến thế thôi. Tốt hơn hết là về tờ văn nghệ địa phương mà làm. Nơi đó bố Hoàng đã từng có thâm niên 20 năm biên tập. Hoàng sắp cùng đường rồi. Mục Xã hội muôn màu chó chết sắp lẳng Hoàng ra vỉa hè. Ở đây không có chỗ cho những người làm báo sa lông. Câu nói ấy buổi giao ban nào cũng được phun ra từ miệng sếp. Hôm nọ thư ký tòa soạn thương tình rủ Hoàng đi cà phê và bảo: “Chú em được mỗi cái hiền lành thôi. Chính vì cái đó mà anh mời chú tách cà phê này và bảo cho chú một cách: Hãy sục vào mấy động thuốc lắc khoắng vài kỳ xem thế nào. Sếp ngán chú như ngán một cục thịt mỡ rồi đấy”.

     

    Hoàng xin giấy giới thiệu mò sang bên công an. Với những gì mà bên công an họ thí cho chỉ đủ làm vài cái tin vặt. Sếp bảo: “Không vào hang cọp làm sao bắt được cọp con, chẳng lẽ tôi lại mang cái thân ngoại ngũ tuần này đi vào chỗ lắc lư để các phóng viên trẻ ngồi nhà làm công việc của lão biên tập già?”.

     

    Hoàng hiểu mình phải làm gì. Nhưng bắt đầu từ đâu bây giờ nhỉ? Sàn nhảy. Hoàng chỉ biết sơ sơ vài động tác cơ bản họp lỏm được từ hồi sinh viên, làm sao dám lên sàn? Ngu lắm, lên sàn cũng có dăm bảy loại, có loại chỉ ngồi uống nước không thôi. Nhưng như thế làm sao tiếp cận được đối tượng? Vậy thì xì vài chục ngàn ra mà đăng ký một lớp khiêu vũ cơ bản. Ừ, ngu thật. Sáu điệu thì tám chục, tám điệu thì trăm hai, mười điệu thì trăm rưỡi, thôi cứ xin tạm vào cái lớp dạy sáu điệu vậy. Thư ký tòa soạn đúng là ông anh tốt, chỉ đường đi nước bước cứ đâu ra đấy, chỉ mỗi cái phũ mồm, câu nào cũng như cú đấm móc, làm người ta nôn ra cả mật xanh mật vàng. Chính từ cái lớp sáu điệu ấy mà Hoàng mới quen được với chị Dung. Chính từ chị Dung mà bài phóng sự ba kỳ ra đời. Loạt phóng sự có cái tên điệu đà thế này: Tiền sàn nhảy hậu động lắc. Kỳ thứ nhất được ông anh thư ký tòa soạn quý hóa đặt tít: Chân dung chị Hai. Tại sao lại là chị Hai? Sabô của loạt phóng sự có viết rằng, vì lý do tế nhị nên các nhân vật trong bài viết sẽ được giấu tên, thay vào đó là những cái tên phiếm chỉ như chị Hai, chị Ba, cô Út... Có lần chị Dung hỏi: “Em là nhà báo à? Mỗi bài báo của em được bao nhiêu tiền?”. Hoàng bảo: “Phóng sự được trả cao nhất, năm trăm ngàn”. Chị Dung buông một câu: “Rẻ nhỉ!”. Vâng, rẻ thế thôi, với chị, nhưng là đắt với em, nửa triệu kia mà, và ở kỳ đầu tiên này bà chị yêu quý đã được cậu em Hoàng “bán rẻ” như sau:

     

    Chị chưa đến năm mươi hoặc cũng có thể đã hơn. Đoán tuổi những người đàn bà có mặt ở sàn nhảy là một việc rất khó. Buổi tối và ánh đèn màu thường đồng nghĩa với việc che giấu những nhan sắc đã tàn phai. Chúng tôi có dịp biết chị tại lớp khiêu vũ buổi chiều vì thế có thể đoán được tuổi chị chính xác hơn. Nhưng chính xác để làm gì?Bài phóng sự này không lấy tuổi chính xác của nhân vật làm điều cốt yếu.

     

    Chị Hai là người quản lý ngân quỹ của nhóm nhảy chúng tôi. Chúng tôi đóng tiền cho chị dưới nhiều hình thức, đóng ngày, đóng tuần, đóng tháng, chậm tiền thì coi như chị Hai bao. Nhóm nhảy gồm bảy người, tám người hay mười người? Không biết. Có một nguyên tắc là không ai hỏi nghề nghiệp, tuổi tác, nhà cửa, gia đình của ai. Tùy theo sự phát triển của từng mối quan hệ mà mỗi người trong nhóm có thể bộc lộ nhân thân, hoặc không. Mục đích của anh, của chị, của tôi là chơi. Vậy thì cứ chơi theo khả năng tài chính cho phép, hỏi han chi cho mệt. Đây là điều khiến cái tôi nhà báo bực mình nhất. Nhưng rồi cái tôi nhà báo cũng biết cách khai thác những gì mình cần ở nhóm nhảy này. Ngôn ngữ là thứ biến ảo khôn lường. Biết sử dụng nó thì sẽ được trả lãi gấp năm, gấp mười. Chị Hai dẫu sao cũng là đàn bà. Đàn bà xưa nay vốn thừa lời. Muốn kinh doanh thông tin từ mớ ngôn từ đổ đi hàng ngày của các quý bà chỉ cần có đôi tai biết tỏ ra đồng cảm và sẻ chia cùng vài ba đường lưỡi đưa đẩy là đủ. Cái tôi nhà báo biết cách làm điều ấy.

     

    Chị Hai là nhân viên tài chính ở một đơn vị sự nghiệp có thu. Sau bốn giờ chiều hàng ngày là khoảng thời gian rảnh rỗi của chị. Chị có con trai lớn giống tôi. “Nhưng nó chết rồi em ạ, chết đúng năm nó hai mươi tuổi, đang là sinh viên năm thứ ba, chuẩn bị được nhà trường cử đi học ở Pháp”. “Tại sao?”. “Tại lão chồng chị”.

     

    Chồng chị là một thạc sĩ chuyên ngành gây men. Hồi còn trẻ họ đã có một tình yêu đẹp theo kiểu truyền thống. Rồi họ lấy nhau, đó là một cuộc hôn nhân cũng đẹp theo kiểu truyền thống. Họ có với nhau hai đứa con. Lớn trai, bé gái. Cả hai đứa con họ đều đẹp, đều ngoan và học giỏi. Tóm lại đó cũng là một gia đình tuyệt vời theo quan niệm truyền thống. Chị hài lòng với số phận và tin rằng sẽ hưởng nốt phần đời còn lại một cách có hậu theo kiểu truyền thống. Thế rồi con trai chị bỗng phát hiện ra bố nó có vợ bé. Cô vợ bé của bố chỉ ngang tuổi với cậu con trai thôi. Thằng bé rất ngoan, học rất giỏi, thi năm đầu đỗ ngay Bách Khoa, tổng kết năm thứ hai cao phẩy nhất khóa nên được nhà trường gửi sang Pháp học chuyên ngành mười tám tháng. Thằng bé rất thần tượng bố. Thế mới khổ cái thân nó. Thần tượng sụp đổ thì nó sống làm sao được giữa cái tuổi đôi mươi xốc nổi và lãng mạn ấy? Khuyên can bố không được, nó uống thuốc ngủ tự tử. Nó chết, để lại một bức thư tuyệt mệnh gửi bố. Nhưng bố nó đâu còn thiết gì đến lá thư đó nữa. Bị con hồ ly tinh kia làm cho mê muội rồi, thử hỏi, tình phụ tử trong thằng bố nó bị cái chết kia ám ảnh được bao lâu?

     

    Đúng là không được bao lâu thì chồng chị mang vợ bé và đứa con trai tròn năm tuổi về đòi chia nhà. Tất nhiên là phải chia thôi. Chia chác xong thì chị lâm vào trạng thái rối loạn tâm thần. Nói nôm na là đau khổ quá mà phát điên. Một người bạn thương tình đưa chị đến một chuyên gia tâm lý để chữa bệnh. Hôm ấy đi nhưng không gặp được ông chuyên gia nọ, lại hỏng xe ngay trước một sàn nhảy, hai người liền mò vào xem thử nó ra sao. Không ngờ cái thứ âm thanh trong vũ trường kinh người kia lại làm chị khỏi bệnh. Trở lại trạng thái bình thường chị liền bán nửa căn nhà được chia, mang tiền đi mua đất. Mua đám nào hời đám nấy. Trời bù đắp cho chị bằng lộc đất. Đứa con gái ở với chị cho đến khi hết cấp ba thì đi du học ở Trung Quốc. Thế là sau một vòng hôn nhân và sinh nở chị lại thành người độc thân. Buồn thì phải tìm vui thôi. Chị bắt đầu la cà ở các lớp học nhảy và vũ trường. Chị không có khiếu nhảy nên qua hết lớp này đến lớp khác mà trình độ vẫn cứ loàng xoàng. Cái quan trọng là chị có thêm nhiều bạn. Bây giờ ở cái tuổi không còn hào hứng giới tính nữa thì chị còn cần gì hơn là có nhiều bạn? Chồng cũ của chị cũng chết rồi. Chết thê thảm. Ngôi nhà xây lại trên mảnh đất được chia bỗng đổ ụp. Cả đám thi công phải ra tòa nhưng cái chết của người chồng già, cô vợ trẻ và đứa con hơn một năm tuổi kia thì không thể cứu lại được. Chị bảo: “Lão ấy chết chị không thương nhưng thương đứa trẻ. Nếu nó còn sống chắc chắn chị sẽ nhận nuôi”.

     

    Tôi hỏi: “Cái chị tre trẻ hay đi với chị tên là gì? Làm ở đâu? Bao nhiêu tuổi?”. Chị nghiêm mặt: “Lại phạm luật rồi”. Ừ nhỉ, đã bảo không được “điều tra lý lịch” cơ mà!

     

    Cái tôi nhà báo đành phải tự tiếp cận lấy thôi.

     

    Cái chị tre trẻ tiếp tục được Hoàng “bán rẻ” ở kỳ báo thứ hai chính là chị Phương. Tất nhiên khi lên khuôn bài báo được mang cái tít là Chân dung chị Ba. Chị Phương còn trẻ lắm, chỉ trạc ba lăm, ba bảy gì đó thôi. Chị Phương bán hàng ở chợ Hôm. Biết Hoàng là nhà báo, chị Phương bảo: “Em có đọc báo An ninh Thủ đô không? Có ảnh chồng chị ở trên ấy đấy”. Hoàng hỏi: “Chồng chị là chính trị gia, doanh nhân trẻ hay “người tốt - việc tốt” mà được lên báo?”. Chị Phương cười buồn: “Tòa mới xử sơ thẩm tháng trước em ạ. Chị đang cùng nhà chồng cố chạy xem có thoát cái án tử hình không”. Hoàng kinh ngạc: “Tử hình?”.

     

    Đúng là đáng phải tử hình thật dù chị Phương cứ nhắc đi nhắc lại rằng chồng chị hiền lắm em ạ, không tin cứ vào khu chị ở hỏi ai cũng thừa nhận điều ấy. Chị bán hàng ở chợ còn chồng chị làm mộc ở nhà. Một hôm chị gái anh ấy tìm đến khóc khóc, mếu mếu, mặt mũi xưng húp lên vì bị hàng xóm đánh. Chuyện có gì đâu, chỉ vì cái đồng hồ đo điện lẫn lộn tên tuổi gì đấy. Thế là đôi co, xích mích. Thế là thằng hàng xóm lao vào đánh chị ấy. Chồng chị điên lắm. Anh ấy mới nhờ một thằng đầu gấu ở gần nhà chị “chủ trì công đạo”, lên dạy cho thằng khốn nạn kia một bài học. Đã dặn nó là chỉ ra tay cảnh cáo thôi, nó lại xiên luôn một nhát, thế là chết người. Ối giời ơi, chị buồn lắm em ạ. Mấy tháng đầu khi anh ấy mới bị bắt, chị khóc đến cạn cả nước mắt. Bây giờ thì chị phải gắng vui lên mà sống, mà còn chạy chợ kiếm tiền nuôi con chứ ủ ê mãi thì giải quyết được gì hả em? Thế là chị đi học nhảy... Cái gì? Có chứ, chị vẫn thăm nuôi anh ấy đều. Tháng nào chị cũng đi. Anh ấy khóc em ạ. Anh ấy nhớ con lắm. Hôm tòa xử nghe tuyên án xong anh ấy xỉu luôn. Chị cũng choáng váng. Chị đang tìm cách chạy ở tòa phúc thẩm xem thế nào nhưng tốn kém lắm. Chị bán một nửa sạp vải rồi mà vẫn không ăn thua. Có lẽ phải bán cả nhà đi nữa mới chạy được. Em bảo sao? Anh ấy có trực tiếp cầm dao đâm đâu mà bị xử nặng thế á? Người ta bảo anh ấy chủ mưu. Thế mới ngu chứ. Hôm anh ấy đi tìm thằng đầu gấu kia để nhờ nó thì nó vừa đánh bạc thua. Nó bảo: “Em cắm cái xe máy 5 triệu, anh đưa tiền để em chuộc ra rồi đi giải quyết vụ đó cho anh”. Thế là chồng chị đưa cho nó 5 triệu. Người ta bảo đó là tiền thuê giết người. Lại có bàn bạc trước. Thế là thành tội phạm có tổ chức, chồng chị là chủ mưu, còn thằng giết người kia là kẻ thực hiện. Thì hôm ở tòa chị nghe người ta nói thế, biết thế, chứ ai mà nghĩ là chủ mưu với tổ chức tổ chiếc gì. Cãi cũng chả được. Họ vặn câu nào chết câu ấy em ạ. Sau này chị cho con chị đi học luật mới được. Cứ ngu thế này thì chết... Hả? Thì cũng phải quên đi mà sống chứ. Chị học mấy lớp rồi mà nhảy còn kém lắm. Ôi, nhóm của bọn chị vui lắm. Toàn người chẳng ra làm sao em ạ. Rất hoàn cảnh. Nhưng mà chơi hết mình lắm. Cái con bé tre trẻ hay mặc áo cổ đỏ á? Con Két mambo. Nó mới nhập nhóm chị đấy. Không, nó sinh năm tám bảy, chưa đến hai mươi đâu. Nó chơi kinh hoàng lắm. Nhà ở đâu á? Chưa, chị chưa hỏi. Mà hỏi làm gì. Bọn chị thích thì tự kể chứ không ai hỏi chuyện đời tư của nhau đâu. Sao lại gọi là Két mambo á? Sao em cứ tò mò, tọc mạch thế nhỉ? Em đi mà hỏi nó ấy. Nó thích gì á? Thích Karaôkê, thích xem phim Hàn Quốc, thích cắn... Em tán nó được đấy. Bọn con trai ve nó toàn thằng chơi thôi, nhưng nó bảo: “Bọn ấy không biết tán gái kiểu như trên phim, chán lắm, chỉ biết làm nông dân cày cuốc thôi chứ không biết làm thầy giáo”. Sao, em bảo sao? Không, nó không thích cái loại ánh kim, ánh thép ấy đâu. Nó nhiều tiền lắm em ạ. Nó thích những thằng đẹp trai nhưng phải văn cao một tí cơ. Nó toàn chê đám bạn trai là ngu, là không biết nói chuyện, là văn hóa lùn. Ừ, nếu em thích chị sẽ giới thiệu. Nhưng con này nó cứ lẩn như trạch ấy. Tan vũ trường là nó lại vù đi với bọn khác rồi. Em muốn cắn thử á? Vô tư đi. Nhưng nhà báo như em vào chỗ ấy làm gì? Cấm đấy nhé! Không được viết linh tinh đâu đấy nhé. Hả? Em cũng có chuyện buồn, chuyện chán đời á? Ừ, thì chị cứ dặn trước thế...

     

    Vì được chị Phương dặn trước nhiều điều như thế nên Hoàng đã tiếp cận Két mambo bằng câu chuyện Chúa tạo ra người đàn bà. Hoàng muốn tạo ấn tượng cho Két bằng cách ấy. Như thế có vẻ văn cao hơn đám bạn trai của Két chăng? Phải đến câu chuyện thứ hai thì Hoàng mới chính thức chiếm được thiện cảm của Két. Lần này chỉ còn có hai người ngồi lại với nhau thôi. Tiếng nhạc đã tắt và những đôi nhảy cuối cùng cũng đã rời khỏi vũ trường. Câu chuyện thứ hai thế này Két ạ. Ngày xửa, ngày xưa...

     

    - Lại ngày xửa ngày xưa à?

     

    - Thì tiếp câu chuyện hôm nọ mà. Em còn nhớ câu chuyện hôm nọ được kể đến đâu rồi không?

     

    - Đến đoạn Chúa thổi hồn vào người đàn bà để có thể khóc, cười, giận hờn, làm duyên...

     

    ... Sau khi Chúa tạo ra loài người rồi thì lại tiếp tục tạo ra một số loài khác như trâu, bò, lợn, gà, voi, hổ, cá sấu, đại bàng, giun, dế... Rồi Chúa ấn định tuổi cho từng loài. Chúa cho Con Người tuổi thọ hai mươi năm, trâu, bò tuổi thọ bốn mươi năm, lợn một năm, gà sáu tháng, vân vân... Khi ấn định xong tuổi thọ của từng loài thì Trâu và Bò tìm đến trước Chúa thưa rằng: “Kiếp Trâu, Bò chúng con khốn nhục là vậy mà Chúa bắt sống những bốn mươi năm, cái Con Người kia sống sung sướng thế lại chỉ có hai mươi năm. Thế thì cho chúng con sống lâu làm gì? Xin Chúa hãy bớt phần tuổi của chúng con sang Người để chúng con bớt khổ mà Người cũng khỏi kêu là được sống quá ít”. Chúa suy nghĩ một hồi thấy Trâu, Bò nói có phần đúng, liền phán rằng: “Được rồi, ta sẽ bớt của Trâu và Bò mỗi loài hai mươi năm tuổi thọ để bù sang cho Con Người. Tuổi thọ trung bình của Con Người sẽ là sáu mươi năm”

     

    Từ bấy đến nay Trâu, Bò sống được khoảng hai mươi năm là chết, còn Con Người có sáu mươi năm một cuộc đời. Như thế cũng có nghĩa là con người chỉ sống sung sướng hai mươi năm đầu đời thôi. Đó là tuổi của mình. Còn bốn mươi năm sau là đắng cay khổ nhục vì đó là tuổi Trâu, tuổi Bò, tuổi làm lụng cực nhọc, tuổi giơ lưng, giơ cổ ra gánh những cú giáng của số phận. Vì thế, nếu đã là con người, qua tuổi hai mươi rồi, đừng hỏi vì sao mình khổ...?

     

    Két không cười mà ngồi trầm ngâm. Cái mặt mười tám kia trở nên u ám, trĩu nặng như có đám mây đen sà xuống đóa hồng ướp lạnh vậy. Hoàng chuyển hướng câu chuyện: “Tại sao em nhảy điệu Mambo phê vậy?”. Két buột miệng: “Vì em nhớ đến Vĩnh với vũ điệu bên bãi rác”.

     

    - Bãi rác nào?

     

    - Anh đã bao giờ đi nhặt rác với một cô bạn gái khi mới mười ba tuổi chưa? Vĩnh có nét giống anh đấy. Lăn lóc đầu đường xó chợ nhưng thư sinh, thanh cảnh lắm. Vĩnh hơn em một tuổi. Có hôm hai đứa bọn em đói quá, cả ngày không kiếm được thứ gì để đút vào bụng. Đúng lúc ấy Vĩnh bới lên được một cái bánh mỳ gối. Không thể nào tả hết nỗi sung sướng của hai đứa em lúc đó. Bọn em vừa ăn vừa nhảy múa điên loạn. Cái bánh mỳ nguyên chiếc được cắt sẵn từng lát mỏng, khô khốc, đôi chỗ đã mốc nhưng sao mà ngon thế! ăn đến lát bánh cuối cùng bọn em còn vừa nhảy vừa chun miệng vào cắn chung. Nhạc hắt ra từ túp lều của một gia đình nhặt rác gần đấy. Sau này em cứ thắc mắc không biết đó là cái điệu nhạc gì? Đến khi bắt đầu tập điệu Mambo em thấy nó giống điệu nhảy bên bãi rác vô cùng. Em kể với thầy dạy nhảy. Thầy bảo “Em đã nhảy điệu đó từ vô thức”. Em mê điệu nhảy ấy. Rồi học nâng cao. Và thích trình diễn...

     

    - Đêm nay em đi cắn chứ?

     

    - Thôi, em về. Vĩnh biết em hư thế này chắc buồn lắm.

     

    - Vĩnh ở đâu?

     

    - Ở rất xa.

     

    Két không muốn nói chuyện nữa, đứng dậy đòi về. Hoàng lấy xe ra thì Két đã chui vào taxi rồi. Hoàng lặng lẽ đuổi theo. Taxi đưa Ket tới trước một ngôi nhà sang trọng, có khoảng sân rộng ẩn mình giữa đám cây xanh trên một con phố mới mở về phía ngoại ô. Két biến mất sau cánh cổng sắt khổng lồ vẫn thường được dùng cho các tòa lâu đài. Hoàng quay về, đầy nghi vấn nhưng le lói hy vọng vì trong tay đã có số di động của Két.

     

    Bốn trăm ngàn một viên thuốc lắc. Một trăm tám mươi ngàn cho một giờ thuê phòng. Sàn nhảy tan vào khoảng 11 giờ đêm. Nếu chơi tiếp đến 8 giờ sáng hôm sau sẽ ecstasy [2] được khoảng 9 tiếng. Chưa kể chơi hêrôin hoặc cần sa. Chưa kể bia lon, bia chai, nước khoáng, hoa quả với giá tính đặc biệt. Khoảng một đến hai triệu mỗi người cho một lần bay. Hoàng nhẩm như thế để không quá bị động trước cái ví tiền lép kẹp của mình. Kỳ ba của loạt phóng sự với cái tít Chân dung cô Út đã được quảng cáo trước rồi. Thư ký tòa soạn tỏ ra tin tưởng ở Hoàng. Sau loạt bài này sẽ là chân dung một số các “thiếu gia thời a còng”. Từ Két, Hoàng sẽ tiếp tục mua vui cho bạn đọc bằng một loạt những thông tin rẻ tiền kiểu ấy.

     

    Nhưng không hiểu sao Két lại không đến sàn nhảy nữa. Điện thoại cũng không nghe. Em đang ở đâu, anh rất cần gặp em? Những dòng tin nhắn như vậy đổ vô hồi kỳ trận vào máy của Két mà em không trả lời. Hoàng tìm đến ngôi nhà có cảnh cổng sắt hoa văn hình sư tử nhưng không biết làm thế nào để có thể vào được bên trong. Im ắng. Lạnh lùng. Bí ẩn. Tại sao một cô bé nhặt rác lại ở trong tòa nhà lớn như thế này? Không ai biết tên thật của em. Két (Cat), tiếng Anh có nghĩa là con mèo. Người ta gọi em theo tên con vật ứng với tuổi. Vậy nhân thân của em là thế nào? Chịu. Hoàng cố tìm hiểu qua một vài cậu trai tre trẻ đôi lần thấy cặp kè bên Két nhưng chúng cũng chỉ biết về Két một cách mơ hồ. “Bố mẹ nó bỏ nhau. Nó có một ông bố rất giàu, mới ở Nga về”. “Sao bảo từng đi nhặt rác?”. “Nó bị lão bố dượng làm thịt từ năm mười ba tuổi. Nó chán đời, đi hoang, chơi với dân nhặt rác một thời gian”. “Rồi sao?”. “Rồi bố nó về nước, nó về ở với bố và dì ghẻ. Cả hai chỉ lo làm ăn, còn nó thì lo tiêu tiền”. “Có học hành gì không?”. “Chỉ học tiếng Anh thôi. Bố nó bắt đi học nhưng nó đến lớp thì ít, lang thang vũ trường thì nhiều”. “Biết Vĩnh không?”. “Vĩnh nào?” “Hình như người yêu của Két, đang lao động ở Hàn Quốc?”. “Không”.

     

    Thông tin từ vũ trường gạn lọc ra chỉ được có thế. Tìm hiểu thêm về chủ nhân ngôi nhà có cánh cổng sắt trên đường ra ngoại ô cũng chẳng khá hơn. Ông chủ có một người vợ trẻ người miền Nam lấy từ hồi còn ở bên Nga. Ông ta thường hay ra vô trong đó làm ăn. Ngôi nhà to đùng ngoài này Két ở với người giúp việc bị câm. Mấy ngày hôm nay không ai nhìn thấy Két đâu cả. Lần mối đến đây chưa phải là đứt nhưng thời gian dành cho kỳ ra báo đã cận. Hoàng cuống. Để hoàn chỉnh được bài viết, Hoàng cần phải có thêm một vài thông tin cần thiết nữa từ Két.

     

    Đúng lúc Két có vẻ như đã biến mất thì Hoàng nhận được điện thoại. Két đang ở một vũ trường nhỏ nhưng khét tiếng dậm dật. “Hôm nay sinh nhật em. Mai em bước sang tuổi mười chín rồi. Em đã sắp sống hết tuổi Người. Vĩnh đã đánh em. Em buồn lắm. Anh nhảy với em điệu Mambo đi!”.

     

    Hoàng chiều Két. May mắn là điệu này Hoàng nhảy không tồi mặc dù so với Két thì vẫn chỉ dừng lại ở mức cơ bản thôi. “Vĩnh về rồi à?”. “Rồi. Mấy ngày qua anh ấy đi chơi với em. Ở bên kia anh ấy vất vả lắm, làm công nhân cơ khí. Anh ấy không biết là em hư như thế này. Anh ấy cứ nghĩ là em được bố nuôi dạy chu đáo cơ. Sáng nay, khi phát hiện ra em dùng ma túy, anh ấy đã đánh em. Em đã bỏ Sapa về đây. Ngày mai em bước sang tuổi mười chín rồi. Em...”.

     

    - Vĩnh làm như thế là đúng hay sai?

     

    Két im lặng trước câu hỏi của Hoàng, mắt nhìn bâng quơ ra phía ban nhạc. Bỗng em ngẩng phắt lên: “Vũ trường tan rồi. Anh đi cắn với em không?”. Đây là điều Hoàng mong chờ từ lâu nhưng bây giờ thì không còn hào hứng nữa.

     

    - Về thôi em. Hãy về với Vĩnh đi!

     

    Két ỉu xìu, cố nở một nụ cười buồn. Hoàng muốn được đưa Két về nhưng em đã lại chui tọt vào xe taxi rồi. Hoàng nhìn theo, thấy lố nhố trong đó còn mấy cái đầu đỏ, vàng, xanh, tím nữa. Hoàng bật máy gọi với theo. Két không nghe. Hoàng bấm tí tách lên bàn phím điện thoại. Hãy về với Vĩnh đi, anh xin em đấy! Chiếc taxi đã khuất sau một khúc quanh cuối phố. Hoàng phải về viết nốt kỳ ba của loạt phóng sự. Chân dung cô út dẫu có mờ nhòa thì cũng đã cơ bản hiện lên đường nét. Ngày mai nếu không có bài, thư ký tòa soạn lại nguệch miệng ra chửi Hoàng ngu.

     

    Khi Hoàng đặt dấu chấm hết cho bài báo cũng là lúc tàn đêm. Một ngày mới đã lại bắt đầu. Hoàng định mang đến toà soạn nộp cho xong rồi về ngủ bù thì chuông điện thoại reo. Cơ quan công an yêu cầu Hoàng đến ngay hiện trường. Hiện trường là bãi cỏ cách ngôi nhà có cánh cổng sắt hoa văn hình sư tử không xa. Két nằm đó, gối đầu lên đôi giày của em. Khuôn mặt bợt bạt, mệt mỏi. Cánh tay trái buông thõng xuống bãi cỏ. Cổ tay máu tụ lại, thâm đen. Két đã kết liễu đời mình bằng cái cách quen thuộc mà các con nghiện vẫn làm: dùng dao lam cứa mạch máu ở cổ tay. “Trong máy điện thoại của cô ấy, tin nhắn của anh là tin cuối cùng. Anh giúp chúng tôi xác định lai lịch cô ấy chứ?”. Tất nhiên rồi, Hoàng gật đầu và lặng lẽ đi theo mấy người mặc đồng phục cảnh sát.

     

    Khi Hoàng về đến tòa soạn thì cả Ban thư ký đang nháo nhác lên vì anh. Thư ký tòa soạn bảo: “Đang sử dụng phương án đưa bài khác với một lời xin lỗi ma mị, lừa dối. Cậu chơi trò ú tim như thế này khối người đột tử đấy”. Hoàng quẳng đĩa mềm cho ông anh quý hóa rồi lao vào toalet rửa mặt. Có lẽ phải làm một tách càphê cho bớt căng thẳng. Đang định băng qua đường để sang quán cà phê đối diện trụ sở tòa báo thì lại có chuông điện thoại. “Anh Hoàng à, tôi là Vĩnh, một người bạn của Diệu. Tôi vừa ở nhà xác bệnh viện thành phố. Tôi muốn gặp anh được không?”

     

    Vĩnh? Người bạn trai có ý nghĩa nhất đối với Két đây ư? Hoàng đồng ý và hẹn anh ta đến quán cà phê. Qua Vĩnh, chắc chắn chân dung của Két sẽ hiện lên đầy đủ và trọn vẹn. Anh ta vừa gọi Két là gì nhỉ? Diệu! Cái tên đẹp quá. Vũ điệu latinh mà em ưa thích cũng rất đẹp, tràn trề nhựa sống, bay bổng và lãng mạn, mạnh mẽ và hư ảo... Vậy mà em đã không chịu sống hết tuổi Người. Câu chuyện vớ vẩn mà Hoàng bịa ra liệu có liên quan gì đến cái chết của Diệu không?

     

    Chúa ơi!

     

    Ở thế giới bên kia, những người không chịu sống hết tuổi Người liệu có bị trừng phạt?

     

    [1] Overninght: Qua đêm.

    [2] Ecstasy: Mê ly, ngây ngất.


  4. Đáy đĩa mùa đi

    Truyện ngắn của Nguyễn Đình Tú

     

    Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà (Nguyễn Xuân Sanh)

     

    “Này, cá luộc, thịt chó, tiết canh vịt, nộm dê, bò tùng xẻo, mày thích gì?” - Tiếng thằng bạn như vít nặng ở bên kia dây nói. Tôi ậm ừ: “Lại có nội dung gì đặc biệt à?”. “Mày quyết định đi để tao còn báo họ chuẩn bị, hạ máy là vù đến tao ngay nhé, không được quá năm rưỡi đâu đấy, nào, khoái khẩu món gì?”

     

    Tính thằng bạn tôi vẫn thế. Mọi việc cứ giải quyết ào ào, chóng vánh, từ mua đất, làm nhà đến ăn uống, yêu đương. “Thời gian còn để làm việc khác”, nó thường nói cửa miệng câu ấy. Tức là nó vẫn còn giữ được cái tính thẳng thắn, hào phóng và hơi thực tế từ hồi còn là sinh viên.

     

    Tôi với Tân cầm tấm bằng tốt nghiệp đại học kể cũng đã 8 năm rồi. Nó ở lại trường làm giáo viên còn tôi trầy trật mãi cuối cùng cũng kiếm được chân phóng viên quèn ở một tờ báo ngành “có in tới cả ngàn bài cũng chả ai biết đến tên”. Làm giảng viên đại học mấy năm trở lại đây rất có lộc. Cái khoản tại chức tại chiếc là “kiếm” khá lắm. Mà lộc là bất tận hưởng. Tân lý sự rằng người này hưởng lộc thì người khác sẽ thất lộc, vì vậy người hưởng nhiều lộc thì cũng ôm nhiều oán. Ở đời chớ nên để bị oán. Cách giải oán tốt nhất là vãi lộc ra lung tung. Lộc vãi càng nhiều càng tích được ân đức. Ân đức sẽ hoá giải được oán thù. Và bữa tiệc thịt chó tối nay Tân mời tôi cũng là một kiểu rải lộc cho bạn bè cùng hưởng.

     

    Năm người ngồi xếp bằng trên chiếu quanh chiếc bàn gỗ giống như chiếc hương án cổ. Tân ngồi ở góc nào trông cũng rạng rỡ, cũng ra dáng “minh chủ”. Cái thằng có dáng ngồi thật thích. Ngay từ hồi sinh viên, khi về quê tôi chơi, nó ngồi ăn với các cụ, mẹ tôi đã bảo: “Dáng ngồi của bạn con oai phong lắm, con ngồi cạnh nó trông cứ xúi rúi làm sao ấy, rồi khổ thôi con ạ, số mày xách dép cho bạn”. Ừ thì xách dép cho bạn đã sao? Trông nó thế kia thì rồi ra sẽ còn phát!

     

    - Xin giới thiệu nhá - Tân chờ cho người phục vụ đặt đĩa riềng - sả - ớt xuống bàn gỗ rồi bắt đầu hắng giọng - Đây là Bình, Hùng hai người cùng dạy ở tổ Kinh tế - xã hội với tôi, còn đây là anh Trần vừa từ La Sơn xuống, học viên của lớp tại chức mà tôi vừa có cua dạy tháng trước. Nào, chúng ta nâng cốc. À mà này, uống gì nhỉ? Giôn đen nhé? Ừ, uống cái đó được. Anh Trần nhỉ?

     

    Người đàn ông có tên là Trần, học viên của một lớp tại chức ở trên La Sơn như Tân vừa giới thiệu khoảng 40 tuổi, nét mặt thanh thoát, khẽ mỉm cười rồi quay sang bảo người phục vụ: “Em đổi cho chai Giôn đen”.

     

    Trong lúc cậu phục vụ bê bia và rượu nếp cẩm đi, tôi đánh mắt quan sát kỹ anh Trần. Anh có dáng vẻ của một công chức tỉnh lẻ nhưng “có ăn có mặc”, có kinh nghiệm giao tiếp, mọi cử chỉ thái độ đều toát lên vẻ điềm đạm, khôn khéo. Lúc nãy anh đã kịp rút tấm cácvidít ra đưa tôi, và tôi được biết anh là Trưởng phòng kinh doanh của Sở thương mại tỉnh. Kiểu người này sẽ còn tiến xa nữa đây. Tôi thầm nghĩ. Nhưng muốn tiến xa nữa thì bằng cấp là điều rất quan trọng. Mà bằng cấp thì những người như anh bạn tôi và hai người được giới thiệu là “thầy Bình”, “thầy Hùng” kia sẽ đem lại cho anh. Vì thế anh đã chẳng quản ngại mấy trăm cây số về thủ đô đãi đằng các thầy, và tôi được hưởng thơm lây, hưởng cái lộc của bè bạn là từ cái sự “trò muốn hay chữ phải yêu lấy thầy” này.

     

    - Anh là lỗi lắm đấy nhá - Người được giới thiệu là thầy Bình quay sang bảo với anh Trần - Về Hà Nội mà chẳng báo trước gì cả, nếu tôi không gặp anh ở Cầu Giấy chắc gì lôi được anh vào đây. Thế mà ở trên La Sơn cứ bảo khi nào về Hà Nội nhất định sẽ điện cho bọn tôi.

     

    - Các thầy thông cảm - Anh Trần phân bua - Cũng định giải quyết xong chút việc riêng rồi điện cho các thầy...

     

    - Bây giờ thế này nhé - Tân đưa tay ra chém chém xuống trước mặt bàn - Trong buổi rượu thống nhất không thầy trò gì hết, anh em cho nó tình cảm. Bọn tôi ngồi đây đều ít tuổi hơn - là em, anh Trần nhiều tuổi nhất - là anh.

     

    - Nhất trí - Bình và Hùng đồng thanh.

     

    - Nào, rượu rót rồi, tất cả nâng cốc - Tân lại tiếp tục

     

    - Em ơi mang mấy chai Lavi ra đây nhé, rượu tây mà không có nước khoáng có mà đốt họng.

     

    - Khăn thơm đâu? Ơ cái quán này làm ăn hay nhỉ. Ai gọi chả mà mang chả lên. Nguội bố nó hết, tí nữa ăn dai nhanh nhách. Đã bảo từng món một, ăn hết mới lấy cơ mà.

     

    - Ơ kìa anh Trần, mới có hai phần ba chai. Sao? Háo hả? Làm bát măng nhá. Ừ, làm bát măng húp xong rồi chiến đấu tiếp.

     

    - Cái gì? Anh yên tâm, môn Chủ nghĩa nhân văn là anh chỉ có chín điểm thôi. Hai bài học trình trước cho qua luôn. Anh cứ việc tháp tùng giám đốc qua biên giới ký hợp đồng cho tốt. Nhưng này, nếu không bận thì phải đến lớp cho có mặt đấy nhá.

     

    - Môn Thương mại quốc tế bữa trước anh được tám đúng không? Đấy, tôi là tôi còn nhớ chữ anh lắm. Ngoằn ngoằn, ngoèo ngoèo nhưng mà rất dễ đọc, chẳng giống thứ chữ cải cách của bọn học sinh phổ thông bây giờ, cứ tròn ung ủng, trông đến là buồn cười.

     

    - Còn môn triết anh cứ yên trí đi. Rồi đâu sẽ vào đấy tất. Cũng tại hôm đó anh nộp giấy trắng, viết nhăng viết cuội cho đầy một trang thì có phải tôi dễ xử hơn không?

     

    Chuyện ở bàn thịt chó cứ thế nổ như pháo rang. Đĩa vơi rồi lại đầy. Mặt bàn không ngừng được bổ sung. Trong lúc Tân và hai người bạn cùng tổ giáo viên đã say mèm, anh Trần chếnh choáng đứng dậy tìm đường đi vào nhà vệ sinh, bất ngờ chiếc điện thoại di động của anh rơi xuống đùi tôi. Tôi cầm lên, định lát nữa khi anh quay ra sẽ trả lại cho anh nhưng bỗng có chuông reo. Chờ mãi không thấy anh ra, mà chuông thì cứ réo đến sốt ruột, tôi đành bật máy nghe hộ anh. “Anh Trần hả?” - Giọng một người con gái. Tôi lúng túng: “Ờ...ờ...”. “Anh ở đâu vậy? Bác sĩ cần anh ký vào giấy để mổ não cho con bé mà anh cứ bỏ mặc hai mẹ con ở đây thế này, em biết lo thế nào?”. Tôi buột miệng: “Mổ não gì?”. Tiếng người con gái ngạc nhiên: “Ơ... Có phải anh Trần không? Có phải anh Trần không?”...

     

    Mổ não? Sao lại mổ não nhỉ? Thôi chết rồi. Cầu Giấy? Chả phải thầy Bình hay thầy Hùng đã gặp anh Trần ở Cầu Giấy đó sao? Mà Cầu Giấy thì rất gần bệnh viện Nhi. Như vậy là anh Trần từ La Sơn xuống đây có việc riêng chứ đâu phải xuống để gặp các thầy. Tôi vội tắt máy trước khi anh Trần quay lại chiếu rượu. Chai Giôn đen thứ tư vẫn còn một phần ba đổ nghiêng bên bát mắm tôm. Xương, thịt, măng, bún, riềng, sả văng tứ tung trên mặt bàn. Các món ở quán này không ngon lắm nhưng bát đĩa để đựng thức ăn lại rất bắt mắt. Dưới lớp mỡ sền sệt của nhựa mận, men bát ánh lên sắc lam nhạt điểm nét hoa cỏ cách điệu gợi cả một bầu trời xanh trong, khoáng đạt. Dưới lổn nhổn những khúc dồi đen ngắt, vài ba miếng gan thâm sì là hình chim công ở đáy đĩa vỗ cánh bay lên sống động đến mức tôi phải dụi mắt nhìn lại cho kỹ. Chẳng lẽ quán này dùng toàn bát đĩa cổ? Hay là tôi cũng đã say?

     

    Thấy anh Trần quay lại mâm, Tân bỗng vùng dậy:

     

    - Anh Trần, anh gọi hộ tôi tắc xi với. Chết hết cả thế này thì không về được đâu.

     

    - Vâng, để em gọi tắc xi cho các thầy - Anh Trần vẫn nhã nhặn -Nhưng còn xe máy thì sao?

     

    - Ký gửi, ký gửi lại, mai đến lấy. Oẹ...oẹ... - Tân vừa nói vừa khoát tay, đầu chúi xuống chiếu, mép tràn ra một thứ dịch không biết nên gọi tên là gì.

     

    Tôi bảo:

     

    - Để tôi giúp anh.

     

    Sau khi đưa Tân và “thầy Bình”, “thầy Hùng” lên tắc xi, tôi quay ra bảo anh Trần:

     

    - Anh nói thật đi, cháu nhà anh đang bị làm sao phải không?

     

    Anh Trần mặt phừng phừng, mắt đang lim dim, bỗng bừng tỉnh:

     

    - Vâng, vâng, tôi đưa cháu lên bệnh viện Nhi khám. Cháu bị não.

     

    - Hiện cháu và chị đang ở bệnh viện chờ kết luận của bác sĩ phải không?

     

    - Vâng, sao anh biết?

     

    - Chị vừa gọi điện cho anh, anh tới viện ngay đi, có lẽ cháu phải mổ đấy.

     

    - Thế à? - Anh Trần nhướng mắt lên - Vậy phiền anh đưa các thầy về hộ tôi với, tôi phải về viện ngay.

     

    Anh Trần có vẻ hốt hoảng. Xe chạy rồi tôi còn thấy anh lập cập móc ví đi vào trong quán để thanh toán tiền. Trên xe Tân dựa đầu vào người tôi, toàn thân nóng rực. Tôi bỗng nhìn thấy mấy chiếc phong bì ở túi áo của Tân. Tôi móc ra. Ba chiếc cả thảy, ghi rõ tên ba thầy đàng hoàng. Nét chữ ngoằn ngoằn, nghoèo nghoèo. Tiếng Tân làu nhàu: “Lại có lộc à? Đi hát. Đi hát tiếp. Bây giờ phải karaôkê mới phả hết hơi rượu. Có lộc là phải rải ra, bất tận hưởng. Đi!”. Tiếng “thầy Bình” đế theo: “Phải thế chứ! Xuống Hà Nội mà cứ trốn các thầy là không được. Tao là tao bắt sống!”.

     

    Tự nhiên tôi nôn thốc nôn tháo ra xe dù tôi không hề say.


  5. Một chuyện khó tin

    Truyện ngắn của Nguyễn Đình Tú

     

    Năm mười bảy tuổi tôi rời quê vào thành phố làm thuê cho một cửa hàng đồ gỗ cao cấp. Công việc của tôi là ngồi chờ sẵn ở cửa hàng, khi khách mua xong thì chở bàn ghế đến lắp đặt tận nhà cho họ.

     

    Với công việc này tôi chỉ cần học truyền khẩu ba ngày là xong. Khó nhất đối với tôi là phải biết đi xe máy và phải thuộc đường. Thành phố vốn nhiều đường ngang ngõ tắt, tôi lại là anh chàng nhà quê chưa ngồi lên xe máy bao giờ. Nhưng rồi tôi cũng quen dần mọi thứ. Sau một thời gian ngắn tôi được đánh giá là “thạo việc”. Tôi ở trọ trong một con ngõ nhỏ cách cửa hàng không xa. Buổi tối tôi thường rỗi. Rất rỗi.

     

    Con ngõ tôi ở toàn dân lao động nghèo. Cùng ở một gian nhà trọ với tôi là anh Hùng. Anh Hùng học trường Xã hội Nhân văn, khoa Hán nôm, ra trường không chịu về quê, ở lại làm việc cho một công ty bảo hiểm của nước ngoài. Anh có xe máy và điện thoại di động, đi suốt ngày, chẳng mấy khi có mặt ở nhà. Với tôi, anh là tấm gương để học tập, vậy mà không hiểu sao anh cứ kêu khổ, câu cửa miệng của anh bao giờ cũng là: Khốn nạn. Trên đời này bất cứ điều gì anh cũng nhìn ra khía cạnh khốn nạn. Anh thường bảo tôi rằng: “Cứ đần đần, quê quê như mày mà hoá lại hay, học lắm biết nhiều chỉ càng thấy lắm sự khốn nạn mà thôi”.

     

    Cuối ngõ có mấy anh sinh viên học trường Công đoàn. Các anh này cứ bước chân ra khỏi cửa là ăn mặc rất lịch sự nhưng tối đến, khi họ đi chơi về tôi thường nghe thấy họ bàn nhau ở trước cửa nhà tôi cách vay mượn tiền của ai đó để cứu đói trong những ngày gia đình chưa gửi tiền lên. Bên kia ngõ là một dãy nhà trọ được chia thành từng ngăn, trên có lợp mái phibro-ximăng dành để chứa đủ mọi thành phần, đủ các kiểu người. Hầu hết họ đều là dân tỉnh lẻ như tôi tụ về đây làm thuê kiếm sống. Tiếng là ở với nhau nhưng ban ngày mọi người đều đi làm hết, con ngõ vắng tanh, tối đến ai cũng đi ngủ sớm, con ngõ vắng lặng, đám dân trọ ít quen thân nhau. Ngay tôi với anh Hùng cũng thế. Hai người ở chung một nhà nhưng không ăn chung, không làm chung, không ngủ chung, không dùng chung đồ của nhau, chỉ chung có tiền nhà và tiền điện nước. Sau hai tháng ở trọ tôi quen thân, hay nói đúng hơn là chỉ quen thân được với anh Bền, một người ở dãy nhà phía bên kia. Anh Bền quê Phú Thọ, đã 38 tuổi mà chưa vợ, lên thành phố làm nghề đạp xích lô bảy, tám năm nay rồi. Anh Bền to, cao, dáng lừng lững như con gấu, tính rất hiền. Anh ở một mình một gian nhà trọ. Như thế là khá hoang phí vì đám lao động nghèo thường ở chung nhau để đỡ tốn tiền nhà. Tôi đã có dịp bước vào gian nhà anh ở. Ấy là lần anh Bền uống quá chén ở đâu đó về, đẩy mãi không đưa được chiếc xích lô vào nhà. Tôi đã giúp anh và sau đó được chứng kiến cuộc sống của anh nghèo nàn thế nào. Chiếc xích lô chiếm mất nửa gian nhà, nửa gian còn lại là chiếc giường đôi cũ kỹ, một chiếc tủ mét hai hai buồng cũng cũ kỹ, chiếc mắc áo bằng gỗ xập xệ trên tường treo ơ hờ bộ quần áo dày quỵch, ống tay, ống chân còn nguyên vết xắn. Chỉ thế thôi, xung quanh chẳng còn gì đáng giá. Trong khi anh lăn đùng ra giường gáy vang như sấm thì tôi khẽ khép cửa lại, thầm nghĩ giá có mở cửa cả đêm cũng chẳng có thằng trộm nào thèm mò vào căn nhà này.

     

    Sau lần ấy anh Bền thân với tôi. Chẳng biết gần chục năm làm ăn ở thành phố anh Bền đã tích cóp được những gì, chỉ thấy là anh rất rộng rãi trong chi tiêu. Một tối tôi vừa đi làm về, đang tắm thì anh Bền sang, mang theo cả quần áo lót. Vòi nước ở bên nhà anh cuối đường ống, vào giờ cao điểm nước chảy ri rỉ, không đủ dùng nên anh vẫn thường sang bên tôi tắm nhờ. Anh đứng nhìn tôi dội nước ào ào rồi bỗng đưa tay bóp vào bộ phận nhạy cảm nhất của cơ thể tôi, cười cười, và hỏi:

     

    - Cái của nợ này của chú mày đã có nhu cầu chưa?

     

    Tôi bị bất ngờ, đỏ nhừ mặt, ngượng chín cả người. Anh lại bảo:

     

    - Tối nay anh chiêu đãi chú nhé!

     

    Tôi hỏi:

     

    - Chiêu đãi gì cơ?

     

    Anh Bền bảo:

     

    - Chơi gái chứ còn gì nữa.

     

    Tối hôm ấy chúng tôi rời nhà khá sớm, riêng tôi ăn mặc có phần bảnh bao hơn mọi ngày. Anh Bền dắt tôi ra vườn hoa, qua chỗ Ngã 5, ngược lên công viên rồi lại vòng xuống đằng bờ hồ. Tôi đi theo anh vừa tò mò, háo hức lại vừa hồi hộp, lo âu. Quả thật tôi chưa hình dung nổi cái chuyện ấy nó như thế nào dù tôi đã là một cậu thanh niên trưởng thành. Bởi anh Bền bỗng chốc thổi bùng lên nhu cầu khám phá cảm xúc bản thân khiến tôi khao khát thoả mãn chứ thực sự tôi rất e ngại, vì thế tôi vừa bẻ tay, vừa nén những tiếng thở gấp để tạo cho mình vẻ tự tin khi đi bên anh. Nhưng đi mãi, đi đến mỏi chân mà vẫn chưa có chỗ cho chúng tôi chứng nghiệm “khả năng” của mình. Sau khi đi hết một vòng bờ hồ, anh Bền quay sang tôi bảo:

     

    - Đen cho chú em rồi, hôm nay làm sao ấy, không thấy có đứa nào cả, chắc có động nên chúng nó chuồn hết rồi. Dạo này công an lùa ghê lắm.

     

    Chúng tôi lại lủi thủi cuốc bộ ra về. Chỉ một lần ấy cũng đủ để tôi ấn tượng về cái sự chịu chơi, phóng khoáng của anh Bền. Sự phóng khoáng của anh còn thể hiện rõ ở quán rượu dâm dương hoắc. Anh thường đưa tôi ra cái quán ở đầu phố chuyên bán thứ rượu có tên gọi rất “kích động” ấy để giao lưu , gặp gỡ với đủ các hạng người, trong đó có nhóm bạn Mút chỉ đầu gà của anh. Quán rượu khá đông. Anh Bền bảo: “Người thành phố đang chuộng thứ rượu này, hồi quán mới mở đông khách lắm nhưng bây giờ nhiều quán khác cũng mở ra nên khách ở đây vơi dần, chỉ bằng một phần ba trước đây thôi”. Rượu dâm dương hoắc được đóng vào từng chai Lavi nhỏ, có màu nâu nhờ nhợ bán lẫn với thức nhắm là các loại thuỷ hải sản khô, các loại quả xanh như cóc, ổi, chuối, dưa chuột, mận, mơ, các loại nộm rau củ, có cả đậu phộng chiên bơ và bim bim nữa. Nhìn chung đây là một quán rượu vỉa hè rất hợp với khách bình dân, không ít văn nghệ sĩ và trí thức nghèo cũng đến quán này. Theo anh Bền ra quán được vài lần tôi cứ thắc mắc mãi hai điều, một là rượu dâm dương hoắc có cái gì đặc biệt và nó khác với các loại rượu thông thường ở điểm nào? Hai là tại sao nhóm bạn của anh Bền, toàn những người cũng nghèo khổ, vất vả, cũng dân tứ xứ về đây làm thuê kiếm sống như anh lại có biệt danh là Mút chỉ đầu gà?

     

    Điều thắc mắc thứ nhất anh Bền giải thích qua loa rằng rượu dâm dương hoắc trước hết là thứ rượu bình thường được nấu từ gạo, sau đó chủ quán ngâm rượu với một thứ cỏ có tên là dâm dương hoắc. Việc ngâm như thế nào, thời gian ngâm, liều lượng ngâm ra sao điều ấy thuộc về bí mật của nhà quán. “Nhưng rượu này uống vào có gì tốt?” - tôi hỏi. “Thì cứ tin là cái chuyện kia sẽ mãnh liệt hơn, dẻo dai hơn, cơn hứng tình sẽ kéo dài hơn, dâm dương kia mà”, anh Bền có vẻ như chỉ giải thích được đến thế.

     

    Còn điều thắc mắc thứ hai anh Bền bảo: “Chúng nó bố láo đấy”.

     

    - Bố láo thế nào? – Tôi hỏi.

     

    - Thì bọn anh hay ngồi uống với nhau, một thằng rỗi hơi nào đó thêu dệt nên câu chuyện Mút chỉ đầu gà, sau đó gán vào cho bọn anh. Thế thôi.

     

    - Câu chuyện Mút chỉ đầu gà là sao?

     

    - Là chuyện các bợm nhậu uống với nhau lâu quá, hết cả đồ nhắm, chỉ còn mỗi cái đầu gà. Các bợm liền lấy chỉ buộc cái đầu gà treo lên, xoay vòng uống tiếp, đến lượt người nào thì người ấy được mút đánh roạt vào cái đầu gà. Tàn cuộc rượu, các bợm nhìn lên chỉ thấy sợi chỉ treo lửng lơ còn chiếc đầu gà đã tan biến vào những cái mồm háo rượu. Một câu chuyện bố láo và hết sức xỏ xiên. Thằng buôn chuyện đó đã bị bọn anh túm cổ lẳng ra ngoài đường. Nhưng câu chuyện nó để lại cứ in vào óc người nghe, không sao tẩy rửa đi được. Từ đấy mỗi khi nhóm bọn anh xuất hiện lập tức có tiếng xì xào: Nhóm Mút chỉ đầu gà đến đấy, hãy xem chúng uống kìa!

     

    Nhóm bạn rượu của anh Bền không đông lắm, họ có khoảng sáu, bảy người, hầu hết đều muộn tuổi và chưa vợ. Họ làm đủ các nghề: Bốc vác, coi chợ, xe ôm, xích lô, gác cổng, phụ xây. Tuần nào họ cũng tụ tập ở quán rượu một, hai tối. Những lần gặp nhau như thế họ thường bắt đầu bằng vẻ mặt lầm lầm, lì lì. Khi đã hết bảy, tám chai Lavi đựng thứ nước nâu nâu nhờ nhợ họ mới quay ra chuyện trò với nhau. Những chuyện họ nói thường tẻ nhạt và vô nghĩa nhưng lại làm họ hào hứng, say sưa. Ví như một lần tôi được nghe họ bàn luận về chuyện con rận. Một người bảo: “Có rận chẳng qua là do ở bẩn”. Một người khác lại bảo: “Ở sạch cũng có rận”. Người khác nữa lại bảo: “Nghĩ có là có, nghĩ không là không”. Rồi họ xoay ra tranh luận với nhau. Người thứ nhất bảo: “Ngày nào cũng tắm, dùng xà phòng diệt khuẩn chà xát khắp người, rận sẽ không còn chỗ nào để sống”. Người thứ hai bảo: “Rận sẽ trôi xuống đám lông cuối cùng ở hậu môn rồi chui sâu ẩn nấp ở trong đó, thế là hoàn toàn yên tâm trước mọi thứ xà phòng”. Người thứ ba bảo: “Cứ nghĩ rằng rận chỉ ở quần áo thì thay quần áo ra là hết rận, còn cứ nghĩ rận bám vào người thì chẳng bao giờ thấy hết ngứa”.

     

    Tôi luôn cảm thấy mệt mỏi và chán ngán trước những cuộc tranh luận có vẻ như ngớ ngẩn của đám bạn anh Bền. Nhưng anh Bền bảo tôi: “Chú mày không hiểu gì về con rận nghĩa là còn chưa hiểu gì về cuộc đời”. Vâng, tôi chưa hiểu gì về cuộc đời nhưng tôi cũng không hề có ý định tìm hiểu cuộc sống của những chú rận thường quen sống ký sinh và bị người đời hạ sát bằng móng tay. Cuối các buổi rượu anh Bền thường tranh trả tiền trước ánh mắt ngại ngùng của đám bạn. Sau đó họ chia tay nhau, bóng họ liêu xiêu, đổ dài trên hè, chẳng mấy chốc họ mất hút vào những ngóc ngách của thành phố. Một lần từ quán rượu trở về, anh Bền dừng lại dưới gốc cây bàng cách con ngõ chúng tôi ở vài chục bước chân vạch quần ra giải quyết cái phần bí bách trong cơ thể. Bỗng có một “thằng người” từ trên cây bàng nhảy phốc xuống cổ anh. Anh Bền giật mình, theo phản xạ vội đưa tay lên túm lấy thằng người lạ. Anh bỗng bủn rủn cả người khi sờ vào một đám lông như lông chó đang phủ trên vai mình. Vừa lúc ấy một sợi xích lòng thòng vắt xuống cổ anh. “Khẹc...Khẹc”. Anh Bền túm lấy sợi xích giật mạnh và “thằng người” trên cổ anh bị quật xuống đất. Hoá ra đó là một con khỉ. Chắc nó bị tuột xích chạy ra phố chơi không chịu về? Anh Bền định đá cho con khỉ một cái để đuổi nó về nhà với chủ nhưng nghĩ thế nào anh lại dắt nó về nhà mình. Hôm ấy tôi không đi cùng với anh vì còn bận ở nhà viết thư cho bố. Lúc sáng tôi vừa nhận được thư. Thư bố tôi viết rằng: “Bố đã nhận được tiền của con gửi về rồi. Bố dành một nửa để thuốc thang cho mẹ, một nửa để cả nhà ăn từ nay đến vụ mùa. Lợn nhà ăn tốn lắm nhưng tốn cũng phải nuôi để cuối năm còn có cái mà thịt. Bố biết con rất vất vả, vì gia đình mà phải bỏ học đi làm lấy tiền gửi về cho bố mẹ. Con cố gắng giữ gìn sức khoẻ, cuối tuần có người làng lên trên ấy bố sẽ gửi cho con ít ngô nếp mới bẻ, con tranh thủ luộc ăn thêm cho lại sức”. Đến khi anh Bền gõ cửa khoe với tôi con khỉ anh vừa bắt về thì tôi cũng đã viết xong lá thư trả lời cho bố. Anh Bền nhìn ngắm con khỉ rất kỹ rồi bảo tôi: “Con này có bộ lông màu xám trắng, trông sạch, ưa nhìn, mặc thêm cho nó cái áo lụa màu đỏ hay màu xanh vào nữa sẽ rất ngộ. Anh quyết định nuôi nó, chú thấy thế nào?”. Tôi bảo: “Em nhìn cũng thấy thích, anh cứ nuôi đi, nếu không nuôi được thì bán cũng khối tiền”.

     

    Những ngày sau đó con khỉ ăn chung, ngủ chung với anh Bền. Nó là một con vật ít nhiều đã được thuần dưỡng nên luôn tỏ ra biết làm vừa lòng chủ. Anh Bền quý nó lắm, đi làm cũng mang nó theo, ra quán rượu cũng cho nó đi cùng. Anh ăn gì nó ăn nấy, anh uống rượu nó cũng được nếm rượu. Anh say, nó cũng lử đử lừ đừ. Lạ một điều là “tửu lượng” của nó hình như mỗi ngày một nâng cao. Mỗi lần anh Bền đưa nó ra quán rượu là nó lại lân la đi đến các bàn, hễ khách mời rượu là nó uống. Lúc đầu nó có vẻ như làm phiền cho chủ quán, nhưng chính việc một con khỉ biết uống rượu đã làm cho khách hiếu kỳ tìm đến quán ngày một đông hơn. Ông chủ quán rượu liền gạ anh Bền bán lại con khỉ cho mình. Ông đang muốn kéo khách quay trở lại trước sự cạnh tranh ngày càng khắc nghiệt giữa các quán rượu trong thành phố. Nhưng anh Bền không bán. Anh Bền chỉ đồng ý cho thuê thôi. Chủ quán chấp nhận thuê và con khỉ đã làm cho doanh thu của quán rượu tăng lên trông thấy. Điều này đã mang lại cho anh Bền một món tiền không nhỏ. Anh Bền cho quán rượu thuê con khỉ vào buổi tối, ban ngày anh để nó ở nhà nghỉ ngơi giữ sức. Nhiều quý khách đến quán rượu vào ban ngày không có cơ hội được xem khỉ uống rượu. Họ trách móc chủ quán và tỏ ý sẵn sàng trả tiền thêm nếu được uống rượu cùng hậu duệ của Tôn Ngộ Không. Chủ quán rất muốn đáp ứng yêu cầu của khách nhưng không làm sao thuyết phục được anh Bền cho mượn con khỉ cả ngày lẫn tối. Chủ quán rượu cũng đã lên miền rừng mua về vài con khỉ khác nhưng chúng không uống được rượu, tập thế nào cũng chịu, chỉ vài hôm là lăn đùng ra chết.

     

    Tôi thực sự thấy mừng cho anh Bền vì cuộc sống đối với anh có vẻ đã dễ thở hơn. Tôi thấy anh có quần áo mới, lại sắm thêm được một số đồ vật cho căn nhà trọ tồi tàn của mình. Tôi đùa anh: “Cưới vợ đi thôi còn chờ gì nữa?”. Anh Bền bảo: “Anh còn nặng nợ lắm, sáu, bảy miệng ăn ở quê trông chờ cả vào anh. Mà đứng trước con gái anh chẳng biết ăn nói ra sao cả. Họ chê anh ù lì, vô duyên”.

     

    Nhưng rồi anh Bền cũng có người yêu. Đó là một người đàn bà đã cứng tuổi, ngồi bán hàng nước ở cổng vườn hoa. Tôi bảo: “Trông như các Ma Ma ở lầu xanh ấy, không phải con nhà lành đâu anh Bền ạ”. Anh Bền thở dài thườn thượt rồi bảo: “Thì cả đời làm nghề ấy, bây giờ già rồi ra ngồi vỉa hè, giá có chết cũng chưa chắc đã có người chôn, anh thấy tội, ngỏ ý, chị đồng ý ngay. Anh gần bốn mươi rồi, đời cũng đến thế này là hết, anh chị về ở với nhau trước hết là vì cái tình người đã, nếu có được với nhau một mặt con thì thật là ông trời ông ấy thương, em bảo anh còn mong điều gì hơn nữa?”.

     

    Giữa lúc anh Bền đang bàn đến chuyện lấy vợ thì tôi nhận được thư bố gọi về quê. Thư bố tôi viết rằng: “Vì nhà nghèo, bố mẹ hèn kém nên con mười bảy tuổi đã phải lăn lóc ra đời kiếm sống, bố nghĩ ngợi nhiều lắm. Nay bố được xã cho thầu khu đầm Mõm Chó gần bãi tha ma chỗ giáp với làng Thượng, vậy là nhà ta có cái để làm kinh tế rồi, con về cùng bố vỡ hoang khu đầm này, chắc chắn cả nhà ta sẽ hết cực khổ, các em con cũng có cơ mở mày mở mặt. Nhận được thư con thu xếp công việc về ngay, bố và các em chờ”.

     

    Vậy là tôi chia tay cửa hàng đồ gỗ cao cấp, chia tay anh Bền đang chuẩn bị bắt tay vào xây dựng gia đình riêng, chia tay anh Hùng suốt ngày “đánh bóng mặt đường” để bán hợp đồng bảo hiểm, chia tay thành phố và con ngõ nhỏ, trở về quê làm công việc của nhà nông.

     

    Mãi ba năm sau tôi mới có dịp quay lại con ngõ mà tôi đã trọ suốt tuổi mười bảy. Tất nhiên công cuộc làm kinh tế của bố con tôi ở cánh đồng Mõm Chó đã thất bại thảm hại. Tôi lại mang sức trai hai mươi ra thành phố gánh vác trách nhiệm kiếm tiền gửi về cho bố mẹ trả nợ và nuôi các em. Tôi vội đi tìm những người mà tôi quen biết. Mới có ba năm thôi mà chẳng còn ai là người quen cũ cả ngoài anh Hùng vẫn ở một mình từ sau ngày tôi đi.

     

    - Chú mày lại lên đây cùng anh chia nửa số tiền nhà trọ à? - Anh Hùng đón tôi bằng một câu hỏi thẳng thừng như thế - Khốn nạn! Bỏ quê mà đi là khốn nạn rồi chú em ạ.

     

    - Vâng, anh Bền còn ở đây không anh?

     

    - Không.

     

    - Anh ấy lấy vợ rồi về quê ở hả anh?

     

    - Vợ gì? Chuyện anh Bền chú mày chưa biết gì sao?

     

    - Chưa, có chuyện gì vậy anh?

     

    - Chuyện dài lắm nhưng mà... khốn nạn lắm.

     

    Quả thực tôi không biết anh Bền gặp chuyện vui hay chuyện buồn vì với anh Hùng cái gì cũng “khốn nạn” cả. Học đại học ra cũng khốn nạn, ở lại thành phố cũng khốn nạn, bỏ quê mà đi - khốn nạn, đi làm bằng xe máy, giao dịch bằng điện thoại di động - khốn nạn, người yêu đến tận nhà khóc sướt mướt vì lỡ hẹn - khốn nạn, trúng số đề cũng khốn nạn, vậy chuyện khốn nạn của anh Bền được hiểu theo nghĩa nào?

     

    Đêm hôm ấy anh Hùng đã kể cho tôi nghe chuyện về anh Bền. Câu chuyện như thế này:

     

    Sau một thời gian từ chối không cho ông chủ quán rượu dâm dương hoắc thuê con khỉ đến mua vui vào ban ngày bỗng nhiên anh Bền thay đổi ý. Hình như anh Bền cần tiền, cần nhiều tiền, còn ông chủ quán rượu thì luôn muốn chiều khách. Thế là họ ký tắt với nhau một thoả thuận bằng miệng, đại thể anh Bền sẽ đưa con khỉ đến “làm thêm” ở quán rượu vào các buổi chiều ngày thứ bảy, chủ nhật ngoài các buổi tối như thường lệ. Buổi “làm thêm” đầu tiên anh Bền trực tiếp ôm con khỉ đến quán. Hôm ấy trời mưa sụt sùi, khách đến quán rất đông. Anh Bền chọn một góc quán ngồi độc ẩm. Con khỉ vẫn như mọi hôm, nhảy từ bàn này sang bàn khác, cầm rượu đổ vào miệng rồi tung chén trả lại cho khách. Nó cũng ăn dưa chuột, lạc chiên, bim bim và khi ngà ngà say nó cũng đi chếnh choáng, trệu trạo, trông rất tức cười. Chiều càng về muộn mưa càng to. Nước trút xuống tắc các ngả đường thành phố. Khách vãn dần. Ông chủ ngửa mặt nhìn trời rồi quyết định đóng cửa sớm. Anh Bền kiệu con khỉ ra về. Mưa hắt vào họ làm cả hai đều ướt. Về đến nhà anh Bền thấy người khó chịu, nằm vật ra giường. Con khỉ rúc vào ngực anh tìm hơi ấm, anh Bền quàng tay ôm lấy nó, cả hai cùng ngủ thiếp đi. Trời tối hẳn thì anh Bền tỉnh dậy. Anh có cảm giác ngực mình lành lạnh. Anh vội ngồi bật dậy. Con khỉ như đang ôm hờ vai anh liền rơi tuột xuống đùi. Anh Bền bế con khỉ lên nhưng nó đã chết. Nó chết mà như ngủ, phần lông ở ngực vẫn còn hơi âm ấm. Anh Bền vội hà hơi vào miệng nó, cố truyền cho nó chút sức lực của mình, hy vọng nó sẽ sống lại. Nhưng mọi cố gắng của anh Bền đều vô ích. Con khỉ mỗi lúc một lạnh ngắt, tứ chi bắt đầu cứng lại. Anh Bền ôm mặt, nức nức những tiếng trong cổ họng. Người dân ở trong ngõ chưa bao giờ thấy anh Bền khóc nhưng hôm ấy họ đã được chứng kiến anh Bền khóc thành tiếng. Khó có thể tưởng tượng nổi tiếng khóc của một người đàn ông gần bốn mươi tuổi dãi dầu mưa nắng như anh Bền. Nó ai oán, thảm thiết làm sao! Anh Bền cứ ngồi ôm con khỉ như thế mà khóc. Ngoài trời vẫn mưa. Mưa lây rây, lây rây chứ không ào ạt trút nước như ban chiều. Chẳng mấy chốc cái tin con khỉ chết loan tới tai những người bạn trong nhóm Mút chỉ đầu gà của anh Bền. Họ rủ nhau kéo đến chia buồn. Mỗi người trong số họ mang theo hai chai Lavi rượu, đút căng phồng cả túi quần. Họ kéo anh Bền ngồi xuống rồi xoay tròn cứ thế lần lượt nâng cốc. Vẫn những bộ mặt lầm lầm lì lì khi bắt đầu vào cuộc rượu. Chỉ đến lúc quá nửa số chai Lavi đã được dốc ngược họ mới chuyện trò với nhau. Một người bảo: “Không thể cứu được con khỉ này nữa rồi, hãy chọn cho nó một cách đưa ma sao cho xứng với những gì mà nó đã làm cho chủ”. Một người khác tiếp lời: “Hoả táng là sạch nhất”. Người khác nữa lại bảo: “Địa táng”. Người tiếp theo bảo: “Thiên táng”. Các ý kiến cứ nhao nhao lên, chỉ riêng anh Bền vẫn ngồi lặng yên, đôi mắt dại đi, tay trái vòng ôm chặt lấy con khỉ. “Thực táng! Chỉ có thực táng là hợp lý nhất vì máu thịt của con khỉ sẽ hoà vào với máu thịt của chúng ta, như vậy con khỉ sẽ không bao giờ mất đi, nó luôn ở trong mỗi tế bào của chủ nó. Ta sung sướng nó cũng được sung sướng, ta khổ sở nó cũng cùng chịu khổ, chả phải như thế mới đáng gọi là tình chủ tớ tuyệt vời nhất thế gian này hay sao?”. Quả là một ý kiến khác thường nhưng nó làm cho đôi mắt của anh Bền sáng bừng lên. Cả nhóm Mút chỉ đầu gà sau một hồi ngớ ra đều nhất loạt vỗ tay hưởng ứng.

     

    Thế là trong khi anh Bền châm hương lập bàn thờ thì nhóm bạn anh đun nước làm thịt con khỉ. Đêm ấy họ uống tới sáng. Cứ chốc chốc lại phải cử người đi lấy rượu. Riêng đầu con khỉ được đặt lên một chiếc đĩa, để ở giữa mâm. Những người tham gia lễ thực táng dùng tay xoay đầu con khỉ quay quay trên đĩa. Cái mõm của nó chỉ vào người nào thì đến lượt người ấy uống. Sáng hôm sau anh Bền tỉnh dậy thì không còn thấy một ai nữa. Nhóm bạn rượu của anh đã bỏ ra về tự lúc nào không biết. Giữa nhà chiếc đầu con khỉ vẫn còn nằm đó, mõm xoay về hướng anh Bền. Anh Bền đi đâu mõm con khỉ xoay theo đó. Anh Bền sợ quá vội quì xuống lạy lấy lạy để đầu con khỉ, đến khi ngẩng lên thấy nó cũng đang gập lên gập xuống lạy trả lại anh.

     

    Anh Bền hét lên một tiếng rồi ngất đi. Người ta đưa anh Bền vào bệnh viện. Bố anh từ dưới quê lên chăm sóc anh. Anh Bền tỉnh nhưng không nói được, mọi việc đều phải ra hiệu, miệng kêu “Khẹc...Khẹc”. Đến khi anh Bền khoẻ lại thì mắc bệnh ngứa. Các y bác sĩ cởi quần áo của anh ra và họ vô cùng kinh ngạc khi phát hiện toàn bộ cơ thể anh mọc một lớp lông dày màu xám trắng. Ông cụ đẻ ra anh xin đưa anh về quê để chăm sóc. Anh Bền về quê được hơn một tháng thì chết. Hôm anh chết ông chủ quán rượu dâm dương hoắc cũng có về đưa ma.

     

    - Không, không thể như thế được, sao anh khéo tưởng tượng một cách độc ác thế, anh Bền có thù oán gì với anh đâu? – Tôi bỗng phản ứng lại một cách gay gắt trước câu chuyện được kể từ anh Hùng.

     

    - Khốn nạn! Anh đã nói với chú mày ngay từ đầu là chuyện chẳng hay ho gì cơ mà? Anh chỉ kể lại những gì anh biết, nếu chú mày không muốn nghe nữa thì thôi, anh đâu phải thằng thích buôn chuyện.

     

    Anh Hùng có vẻ bực bội, bỏ về giường nằm, để tôi ngồi lại bên bàn nước một mình. Cả đêm hôm ấy tôi không sao ngủ được. Sáng hôm sau vừa chuông đồng hồ là tôi chạy ngay sang chỗ mấy anh sinh viên trọ ở cuối ngõ. Tôi muốn hỏi họ về chuyện của anh Bền. Nhưng họ đã không còn ở đó nữa. Họ tốt nghiệp rồi và đã rời khỏi nơi đây. Tôi chạy sang nhà anh Bền. Nhà đã có chủ khác. Người mới đến thuê chỉ cho tôi xem chiếc đầu khỉ treo trên tường, bảo: “Tôi đến đây đã thấy treo ở đó rồi, của ai thì tôi chịu, tôi không biết anh Bền nào cả”. Tôi chạy một mạch ra đầu phố, đến quán rượu dâm dương hoắc năm xưa. Bà chủ quán bước ra nhìn tôi như một khách quen, cất giọng xởi lởi: “Cậu đến lấy rượu sớm thế? Có điện đặt trước không? Bao nhiêu lít hả em?”.

     

    - Không, tôi muốn gặp ông chủ.

     

    - Ông chủ nào?

     

    - Ông chủ quán rượu dâm dương hoắc.

     

    - Vớ vẩn. Lão ấy biến xới lâu rồi.

     

    - Biến đi đâu?

     

    - Ai mà biết được. Bây giờ ở đây bán rượu sán nùng chú em ạ. Dân thành phố bây giờ chuyển sang dùng loại rượu này rồi. Cậu em dùng dâm dương hoắc làm gì, trẻ thế kia đã phải dùng thứ ấy rồi sao? Mà làm gì có dâm dương hoắc, lừa đảo đấy thôi! Chị mày đây bán rượu từ năm lên mười tuổi, cậu em thích rượu gì chị bán cho rượu đó, làm gì phải mất công đi tìm lão chủ quán cũ, mệt người, vô ích, lại chả tốn tiền rước phải rượu rởm”.

     

    Tôi bỏ quán rượu, chạy ngược lên chỗ vườn hoa thành phố. Vẫn mấy người ngồi thu lu bên cửa ra vào kia nhưng không có ai là người đàn bà giống Ma Ma cả. “Ai cơ? À, mụ ấy hả, lên trại phục hồi nhân phẩm mà hỏi nhá. Mà sao đã đi tìm cái khoản ấy sớm thế? Giờ này chúng nó còn ngủ cả, chưa ma nào dậy đâu, chú em có chờ được thì chờ”.

     

    Thế là chịu. Tôi không còn biết hỏi ai cho rõ thực hư về chuyện của anh Bền nữa. Nếu câu chuyện đúng như anh Hùng kể thì khó tin quá. Nhưng trên đời này thiếu gì những điều khó tin vẫn xảy ra. Và với anh Bền tôi phải tin vào một chuyện không thể tin được như vậy sao? Lần đầu tiên tôi đã thốt lên cái câu cửa miệng của anh Hùng: Khốn nạn!

     

    Tối hôm ấy tôi ngồi viết thư cho bố. Tôi ghi rằng: “Bố ơi, cuộc sống thành phố đối với con rất dễ thở. Con sẽ cố gắng làm để gửi tiền về cho bố mẹ và các em. Bố đừng lo con trẻ người non dạ. Con sẽ làm được những điều mà bố không tin nổi cho mà xem. Bố cứ yên tâm bố nhá!”.

     

    Tất nhiên, tôi sẽ còn chưa thôi tìm hiểu về chuyện của anh Bền, một chuyện khó tin đến thế kia mà!


  6. Ca ve xóm núi

    Truyện ngắn của Nguyễn Đình Tú

     

    Tiên rất sợ cái câu thơ định mệnh Đến khi thác xuống làm ma không chồng nên cô đã phải chọn sẵn cho mình một ngôi mộ đá để khi nằm trong đó mới thực sự cảm thấy vững chãi, thực sự cảm thấy bình yên.

     

    Cái mùa đông đó cách nay đã bốn năm rồi. Khi ấy Hoàng còn được coi là một phóng viên trẻ, cần phải khẳng định mình trước sếp và đồng nghiệp. Tờ báo mười sáu trang “ngốn” bài ghê gớm. Mà báo chí chưa bao giờ lại ra nhiều như bây giờ. Viết mãi thì cũng phải hết. Xã hội muôn màu muôn vẻ, muôn tầng muôn vỉa nhưng cào mãi thì cũng nhạt, đào mãi thì cũng kiệt. Thế nên cánh phóng viên trẻ như Hoàng hễ có cơ hội là mò đi vùng sâu vùng xa, lặn lội tới miền núi hải đảo. Dù sao bài cũng dễ được in hơn, lại không bị coi là “rặt một thứ câu chữ cớm nắng”.

     

    Nhưng đó cũng chưa phải là lý do chính để Hoàng quyết định mò lên cái cổng trời Quán Bù ấy những mười lăm ngày để rồi về toà soạn cũng nộp được cái phóng sự đi ba kỳ, càng đọc càng thấy nhạt hoét. Lý do chính là sự “nhờ vả” của Vi! Em gái Vi đang học năm thứ ba trường Mỹ thuật công nghiệp. Nhà trường tổ chức đi thực tế. Chả hiểu có một ai đó nói rằng Quán Bù có rất nhiều tam giác mạch, thế là đám sinh viên rồ lên, cứ đòi mò lên cổng trời bằng được để vẽ hoa tam giác mạch. Vi bảo Hoàng: “Lần đầu tiên nó đi xa. Mẹ em đứng ngồi không yên. Anh đi với nó ít hôm để mẹ em yên tâm. Nếu anh không đi thì em phải đi. Nhà chỉ có hai chị em gái. Anh lại là nhà báo, đến đâu cũng quan hệ được. Ở nơi núi rừng heo hút ấy, có anh đi cùng nó, em và mẹ đỡ lo hơn nhiều. Anh đi nhé?!” Ừ thì... ý Vi là mệnh lệnh đối với Hoàng lúc này. Mới chớm yêu mà. Tình yêu đòi hỏi con người ta phải “thể hiện”. Thứ tình kỳ lạ ấy lại vừa mới nhen nhóm lên trong Hoàng, tất nhiên, trong cả Vi nữa. Thế là chưa nhờ đã nhận, chưa hỏi đã gật. Đám bạn sinh viên của em gái Vi cũng đều “chất nghệ đầy mình” cả, thế nên có thêm một anh nhà báo đi cùng đối với họ chỉ thêm vui chứ không thêm phiền. Hoàng thực sự thấy thoải mái trong chuyến đi cực bắc này.

     

    Mấy ngày đầu Hoàng còn hăng hái vác bảng gỗ, giấy vẽ, hộp màu, túi bút, palét, xô, thùng đi theo đám sinh viên mỹ thuật mò vào các bản làng, chốn chợ phiên, đến các địa danh lạ tai như Núm Vú Cô Tiên, Hang Gà, Khu mộ cổ, Suối Tầm Gai, Cây Si Bảy Gốc... Sau thấy chán, lại không hiểu gì về bố cục, gam màu, hình khối của các bức ký họa, phong cảnh, chân dung nên bảo em gái Vi: “Mai anh bắt đầu hành nghề của anh, tạm thời chia tay nhau một ngày nhé. Em nhớ đi cẩn thận!”

     

    Khi em gái Vi cùng đám bạn của cô cổ mang, tay xách khuất sau Núm Vú Cô Tiên thì việc đầu tiên là Hoàng vào Phòng giáo dục huyện. Lên vùng cao, cái có thể viết được nhất có lẽ là sự dạy và học. Sau khi nắm qua vài ba số liệu cần thiết, Hoàng gật gù cảm ơn Phó phòng giáo dục huyện rồi thuê xe ôm đi vào các xã, lê la đến các điểm trường. Về đến nhà cũng sẩm tối, người mệt bã ra. Em gái Vi vẫn chưa về. Có lẽ cô bé đã ở lại một bản nào đó. Đám sinh viên này rất mê ở lại qua đêm với một bản người Dao hay người Mông để thực sự được “hết mình” với những nét phác thảo ẩn chứa đầy ý đồ nghệ thuật của họ. Hoàng đã từng đi với những nhóm sinh viên mỹ thuật như thế này đôi ba lần. Có lần đi cả với đám Mỹ thuật Yết Kiêu nữa. Khi họ đã “máu” lên thì dù có bị coi là rồ dại họ vẫn làm theo ý mình.

     

    Buổi tối dường như lạnh thêm. Nhà trọ lại không có phòng tắm nước nóng. Hoàng lang thang ra phố huyện tìm dịch vụ tắm nóng lạnh. Phố núi buồn hiu hắt. Khi chưa lên đến đây thì hai từ “Cổng trời” có sức hấp dẫn ghê gớm. Sau cổng trời sẽ là thiên đình, là nhà trời, là xứ sở của những vua Mông, hoa hậu Mường, của thầy mo, của bùa ngải và vô vàn những điều kỳ bí giấu sau những nếp nhà mái gỗ tường trình ẩn mình bên thung núi. Trước đây Hoàng cũng đã từng run rẩy khi lần đầu tiên được nghe thông báo xe sắp lên cổng trời Quán Bù. Từ cổng trời lại được nghe hướng dẫn rằng xe đang chạy xuống một thung lũng nơi đặt trung tâm huyện lỵ, và trước khi vào thị trấn Quán Bù mọi người sẽ được chứng kiến một kỳ quan của tạo hóa, đó là Núm Vú Cô Tiên. Quả là mọi người đã “ồ” lên thích thú khi nhìn thấy hai trái núi đất vồng lên như hai mâm xôi, đều đặn, cân đối như một “đôi gò bồng đảo” ngay bên cạnh con đường chạy qua thị trấn.

    Lần ấy xe chạy qua Quán Bù lên cao nữa chứ không dừng lại ở phố núi này nên Hoàng chưa có dịp được nhìn thật gần Núm Vú Cô Tiên. Còn lần này thì coi như Hoàng đã khám phá xong cái thị trấn dưới chân cổng trời. Nếu theo lối tư duy cổ tích thì “Thiên đình” hay “Nhà trời” có tên là Quán Bù này chẳng có gì đặc biệt, nó giống như bao phố núi khác, chỉ có vài ba dãy phố, một cái chợ vùng cao, một ngôi trường nội trú, đôi dãy nhà trụ sở công cùng số dân cư thưa thớt của nhiều sắc tộc. Thời tiết thì sáng lạnh, tối lạnh, trưa nóng. Không phải một bản làng phình to mà cũng chẳng phải một thành thị thu nhỏ như ở dưới xuôi. Nó có những nét rất riêng của nó. Dường như ở đây cái gì cũng một và chỉ một mà thôi. Một quán cơm phở bình dân. Một cửa hàng kính mắt. Một nhà tắm nóng lạnh. Một quán bánh cuốn. Một cửa hàng sửa xe ngựa. Một nhà thuốc bắc. Một quán thắng dền... Nó là Xóm núi. Cách gọi ấy phù hợp với nó hơn cả. Đúng với nó hơn cả. Nghĩa là với những người như Hoàng thì không thể ở đây lâu được. Ngay cả với những người như cô em gái Vi cũng thế. Họ chỉ đến đây chơi, xem, vẽ vời, làm thơ và viết báo chứ không thể ở đây được. Hiu hắt kinh khủng. Buồn chán kinh khủng. Tẻ nhạt kinh khủng. Và hơn tất cả là một cái gì đó thất vọng kinh khủng. Ngay cả “kỳ quan của tạo hóa”, tức Núm Vú Cô Tiên cũng mất đi vẻ đẹp gợi tình của nó khi bàn chân Hoàng đặt lên tới đỉnh một trong hai núm vú đó. Nhìn xa thì tròn trịa, mịn màng, lạ lẫm, đẹp đẽ là vậy. Nhưng đến gần thì loang lổ những vết cào xước, màu xanh của cỏ lẫn với những đường rãnh, khe nứt, những vùng đất đá lổn nhổn trông thật nhức nhối. Lật xới lớp vỏ cổ tích lên là điều tệ hại nhất đối với loài người. Hoàng đã có lần chiêm nghiệm rằng: Nếu có thể, thì, đừng bao giờ vừa nghe chuyện cổ tích lại vừa làm người lớn.

     

    Vậy mà Hoàng lại lạc vào thế giới cổ tích của Quán Bù ở cái tuổi hai mươi nhăm.

     

    Tuổi ấy nhiều ước mơ nhưng cũng hay thất vọng.

     

    ... Đi gần hết dãy phố mà vẫn chưa tìm thấy nhà tắm nóng lạnh đâu. Đang ngó nghiêng thì cái biển hiệu “Gội đầu Xóm Núi” đập vào mắt Hoàng. Chắc chắn đây cũng lại là cái quán duy nhất ở phố núi này. Một tí tiểu tư sản bỗng bốc lên trong Hoàng. Cũng nên thử xem con gái xóm núi gãi đầu, vỗ trán, mát xa mặt ra sao? Hoàng vén tấm mành nhựa buông trước cửa, lách người vào. Trước mắt Hoàng là một thứ dịch vụ hơi có phần... hổ lốn! Gian quán không rộng lắm vừa để ghế gãi, giường xả cho khách gội đầu lại vừa được dùng để bán cà phê; vừa bày bán mấy củ tam thất, nấm linh chi, thảo quả lại vừa cả làm dịch vụ váy áo cô dâu, trang trí đám cưới nữa. Và đèn mờ. Không gian của quán chìm trong ánh đèn mờ pha màu tím ngắt. Quán vắng tanh. Từ sau tấm màn ri đô ngăn quán với góc trong cùng, một cô gái vén rèm bước ra.

     

    - Anh uống nước hay gội đầu?

     

    Trước khi nghe trọn tai câu hỏi ấy Hoàng kịp nhận ra cô chủ quán rất xinh đẹp và... đặc sệt chất miền xuôi.

     

    - Cả hai.

     

    - Quán em có thể phục vụ được cả bốn trong một cơ. Nào, bây giờ anh lên ghế em gãi.

     

    Hoàng thấy thú vị trước cái cách đùa của cô gái. Anh hỏi lại:

     

    - Anh không muốn gội đầu trước thì sao?

     

    - Uống nước với một cái đầu ngứa ngáy thì sẽ không thoải mái đâu. Thôi nào, em biết là anh cần gội đầu trước mà, anh ngồi vào ghế đi.

     

    Cô gái quấn tấm vải quanh cổ Hoàng rồi hỏi: “Anh dùng dầu gì?”. Hoàng không trả lời mà hỏi lại cô ta: “Em giỏi thật. Thế em còn biết gì về anh nữa?”

     

    - Anh là thầy giáo hướng dẫn đoàn sinh viên thực tập phải không?

     

    Hoàng không trả lời, lặng lẽ nhận cái danh vị mà cô gái muốn khoác cho anh. Đúng hơn là anh không muốn thanh minh. Và đó quả là một buổi tối thú vị. Cô chủ quán tên Tiên. Hai mươi ba tuổi. Quê Tuyên Quang. Lên Quán Bù được hai năm rồi. Lý do: Nuôi em ăn học.

     

    Những ngày sau đó, mỗi khi em gái Vi cùng chúng bạn xách bảng vẽ vào bản là Hoàng lại ra quán Tiên ngồi. Bỗng tìm được một người trò chuyện ở cái chỗ chẳng có việc gì mà làm như thế này, đối với Hoàng kể cũng bớt đi phần nhàm chán. Tiên lại là người hay chuyện. “Anh bảo anh ở đường Đê La Thành à? Thế anh có biết quán Mây Chiều gần Ô Chợ Dừa không? Không à? Tại sao em lại biết á? Biết chứ! Trước em xuống làm cho dì em ở gần đấy mà. Sao bây giờ lại chuyển lên xó núi này á? Vì hai đứa em của em học nội trú ở đây. Sao lại chuyển được về đây học á? Chú em làm ở ủy ban mà. Dưới Tuyên Quang không có điều kiện học nên chú xin cho cả hai đứa lên trên này. Em phải đi theo chúng nó. Bố mẹ em á? Buồn lắm. Tai nạn nên mất sớm cả rồi. Em á? Em chỉ được học đến lớp tám thôi. Rồi em theo dì xuống Hà Nội, ở đó vài năm thì lên đây. Có buồn không á? Cũng phải quen thôi. Lấy chồng á? Thôi, còn lấy gì nữa, chỉ mong hai đứa em học xong rồi em bỏ hết mọi thứ lại để đi. Đi đâu á? Không nói được, mà có nói anh cũng chả tin. Có tin á? Thôi, em không nói đâu...”

     

    Cứ thế, mỗi ngày cô gái tên Tiên lại rủ rỉ vào tai Hoàng những chuyện rất quen mà lại rất lạ như thế. Hoàng không phân định nổi trong khối chuyện mà Tiên nói có bao nhiêu phần trăm sự thật, nhưng rõ ràng là ít nhiều nó có sức ám ảnh đối với người nghe. Có thể cái khứu giác báo chí trong Hoàng đã gửi thấy mùi “sự kiện” ở chuyện đời của cô gái này, cũng có thể Hoàng quá ngây thơ và ủy mị trước một nhan sắc biết nói dối, nhưng dẫu sao thì cũng phải thừa nhận Tiên và những câu chuyện của cô hấp dẫn Hoàng.

     

    Một lần Tiên hỏi: “Anh có máy ảnh à? Chụp cho em một kiểu được không?”. Hoàng gật đầu: “Ôkê! Em muốn chụp ở đâu?”. “Ở núi Cô Tiên, chỗ giữa hai...”

     

    - Núm vú?

     

    Tiên khẽ gật đầu, miệng tủm tỉm cười. Thế là buổi sáng hôm ấy Tiên nhờ em gái trông hàng rồi diện đẹp, cùng Hoàng đi bộ ra Núm Vú Cô Tiên. Hoàng chụp cho Tiên bốn, năm kiểu liền, sau đó lại còn cao hứng kể cho Tiên nghe sự tích núi Cô Tiên nữa. Tất nhiên câu chuyện hoàn toàn do Hoàng bịa đặt. Câu chuyện ấy trong một phút ngẫu hứng đã được Hoàng nghĩ ra, nội dung của nó đại loại như thế này:

     

    Ngày xửa ngày xưa có một nàng tiên nữ rất thích mây gió trăng hoa. Nàng thường ngao du với các vị nam thần, nhất là các sơn thần ngụ ở hạ giới. Thế rồi nàng tiên nữ ấy mắc một thứ bệnh không thuốc nào giải nổi. Bệnh ấy bắt đầu từ cơ quan sinh dục, cứ thế phát triển lên khắp cơ thể, đầy mình tiên nữ chẳng mấy chốc xuất hiện những vết bầm đỏ, những vết này sưng tấy, làm mủ, vỡ ra và nhiễm trùng. Đến một ngày kia, bệnh nặng quá, tiên nữ bay về trời để tìm thuốc chữa nhưng cô cất mình lên đến cổng trời thì mệt quá rớt xuống thung lũng Quán Bù và chết. Thân xác cô nằm phơi giữa thung sâu, theo năm tháng phân hủy đi nhưng riêng có bộ ngực thì hoá thành hai trái núi đất. Ngọc Hoàng Thượng Đế cho thái y đến khám nghiệm, chỉ thấy bộ ngực của tiên nữ có nhiều vết cào xước, bầm nát mà không phát hiện ra được nguyên nhân cái chết của tiên nữ nọ. Sau khi tiên nữ chết được một thời gian, dưới hạ giới các sơn thần đã từng quan hệ với nàng tiên này cũng lần lượt mắc chứng bệnh lạ. Thân thể họ hao mòn, trí lực họ giảm sút, phép thuật họ mất linh, họ không còn làm được những công việc họ phải đảm nhiệm nữa. Rồi họ đổi chính thành tà, bỏ thánh làm ma, dùng thuốc quỷ thay thuốc tiên. Nhiều vị trong số họ đoản số trước ngày giờ ghi trong cuốn sổ đặc biệt của Nam Tào - sổ cai quản các vị nam thần. Ngọc Hoàng Thượng Đế thấy vậy vội sai người điều tra, kết quả cho thấy các nam thần này đều mắc chung một chứng bệnh với tiên nữ nọ, vợ con của họ cũng đang có nguy cơ mắc bệnh theo. Ngọc Hoàng lo lắng vội cho gọi Thái Thượng Lão Quân đến để tìm phương thuốc chữa trị chứng bệnh nan y đang làm điên đảo quân thần Nhà Trời. Lão Quân dùng lò bát quái luyện linh đan thần dược nhưng nghe ra thần dược không trị nổi bệnh quỷ, thuốc tiên không cứu được ma trùng. Lão Quân tâu lên rằng, bệnh này do chuyện sinh hoạt nam nữ mà ra, muốn trị bệnh chỉ còn cách cấm trai gái chung đụng mà thôi. Vì thế Nhà trời sau ba vạn chín nghìn năm thì tuyệt chủng. Bây giờ quân thần nhà trời đều đã tan vào hư vô, chỉ còn hai trái núi đất ở cửa ngõ nhà trời là chứng tích còn lại của giống thần tiên mà thôi. Sau này con người ở dưới hạ giới cũng đã tràn lên trời để ở. Vì thế Quán Bù mới được gọi là Cổng Trời, và hai trái núi đất kia mới được gọi là Núm Vú Cô Tiên...

     

    Câu chuyện kể có dụng ý của Hoàng lập tức gây tác dụng. Mặt Tiên tái đi. Những nét đẹp trên khuôn mặt cô trở nên u ám như có vầng mây đen che phủ. Tiên đòi về. Hoàng cảm thấy áy náy vì mình đã đùa ác với Tiên. Rất có thể những tháng ngày Tiên ở Hà Nội có điều gì đó uẩn khúc, nhưng Hoàng lại đem câu chuyện ẩn dụ trên ra kể cho Tiên nghe thì tàn nhẫn quá. Mặt trời đã lên cao và những đám mù mây không vượt qua nổi cổng trời bắt đầu lẫn vào đám cây tạp, rã ra, tan loãng trong sắc xanh nơi triền núi. Hoàng đưa Tiên về theo lối khu mộ cổ. Có vài ngôi mộ hình thuyền được xây bằng đá đã ngả màu thời gian đen thẫm. Không biết đó là mộ của người Tàu, người Mông, người Dao hay người Kinh nhưng hầu hết chúng đều có bia hình sừng trâu đặt ở đầu mộ, bên trên có khắc chữ tượng hình. Hoàng tranh thủ chụp mấy kiểu ảnh vì thấy chúng lạ mắt. Bỗng Tiên bảo: “Ngày còn bé mẹ em hay đọc Kiều và có nói đến nấm mộ Đạm Tiên. Không hiểu sao khi lần đầu tiên nhìn thấy những ngôi mộ này em lại nghĩ đến mẹ em và cái nấm mộ của người kỹ nữ sống làm vợ khắp người ta ấy. Em chỉ học đến lớp tám thôi. Có được học Kiều và có nhớ mấy câu thơ ấy. Lần nào đọc đến cái câu Đến khi thác xuống làm ma không chồng em cũng rùng mình. Lên đây ở, thỉnh thoảng em lại ra thắp hương cho mấy ngôi mộ này. Chúng không có chủ đâu anh ạ. Em sống ở đây em biết. Lắm khi em ngồi bên chúng cả buổi. Rồi em cũng nằm xuống một ngôi mộ như thế này thôi. Và chắc gì đã có ai nhang khói cho em?”

     

    Hoàng bảo:

     

    - Sao Tiên lại nói thế? Nay mai các em Tiên học xong cả nhà sẽ chuyển xuống xuôi chứ chắc gì đã ở lại đây?

     

    Tiên cười buồn:

     

    - Em sẽ ở đây. Sẽ tự xây mộ đá cho mình. Không hiểu sao em rất thích mộ đá. Nằm trong đó sẽ thực sự cảm thấy vững chãi, thực sự bình yên...

     

    Nghe Tiên nói Hoàng thấy hoảng. Tại sao một cô gái đẹp như Tiên lại nói toàn những điều quái gở thế nhỉ? Hôm nay Tiên diện một bộ đồ màu trắng. Tóc cô dài, buông chùng xuống bờ vai nhỏ trông đẹp một cách mỏng manh, yếu ớt. Nét mặt Tiên căng mịn, dáng dấp Tiên thanh thoát, nhẹ nhàng không có biểu hiện gì của một sinh thể đang ủ đầy mầm bệnh. Tại Hoàng quá giàu trí tưởng tượng hay tại khung cảnh này đã khiến Hoàng tự gieo vào lòng mình mối hồ nghi không đáng có? Khi hai người ra tới đường cái thì gặp một thanh niên trạc tuổi Hoàng đứng chờ bên vệ đường cùng chiếc xe máy màu mận chín. Anh ta ăn mặc khá lịch sự, sơmi bỏ quần, cổ cài ca vát, mắt đeo kính cận. Thấy Hoàng và Tiên anh ta cười thân thiện và hỏi rất nhã nhặn:

     

    - Hai anh em đi thăm núi về rồi à?

     

    Tiên cũng đáp lại một cách vui vẻ: “Vâng, đây là anh Hoàng mới ở Hà Nội lên, còn đây là anh Tuấn bên Phòng văn hóa huyện”. Thanh niên tên Tuấn gật đầu chào Hoàng xong, quay sang Tiên bảo: “Việc em nhờ anh làm xong rồi, đây là giấy biên nhận thu lệ phí của huyện, em cứ việc lấy đá xếp quanh khoảnh đất ấy lại thôi, khi nào thu xếp được thì chuyển cốt cho các cụ”

     

    Tiên nhận tập giấy tờ từ tay Tuấn, bảo: “Để em gửi tiền anh”. Nhưng Tuấn quay ra xe ngay, nói với lại: “Để khi khác, bây giờ anh phải về cơ quan có tí việc, em với anh Hoàng về sau nhé”

     

    Tuấn đi rồi, Tiên quay sang nói với Hoàng:

     

    - Em nhờ anh ấy xin cho phần đất giữa mấy ngôi mộ cổ. Mai này em chuyển bố mẹ em về nằm đấy.

     

    Hoàng nói vu vơ:

     

    - Ở xóm núi này mà cũng có người đẹp trai nhỉ!

     

    Tiên bảo:

     

    - Anh ấy quê ở thị xã, mới lên đây nhận công tác được vài năm. Anh ấy tốt lắm.

     

    Tiên nói không sai. Hoàng còn được chứng kiến lòng tốt của Tuấn đôi ba lần nữa trước khi rời cổng trời về xuôi. Tuấn đã bỏ ra hai buổi chiều để giúp Tiên xếp đá quanh “sinh phần của các cụ”, và theo yêu cầu của Tiên, Tuấn đã chở Hoàng đi chợ rượu ở bản Lũng Pàn cách cổng trời những bốn mươi cây số. Chợ rượu Lũng Pàn họp phiên theo tháng. Ở đây có đủ các loại rượu của mọi dân tộc. Rượu nấu từ ngũ cốc, rượu chắt từ các loại rễ củ, rượu men gạo, men lá, rượu ngâm các loại, rượu hạ thổ, rượu tự nhiên và nhân tạo... đủ cả! Lần đầu tiên Hoàng hoa mắt vì các chủng loại rượu. Mấy ngày sau đó Hoàng còn được Tiên giúp tìm hiểu thêm nhiều điều về vùng đất dưới chân cổng trời Quán Bù này. Hoàng nhận ra tình cảm của Tuấn dành cho Tiên chính là thứ tình cảm mà anh đã dành cho Vi. Tự sâu thẳm lòng mình Hoàng thấy mừng cho cô gái mồ côi phải lưu lạc từ đất Tuyên Quang lên đây nuôi em ăn học như Tiên. Hóa ra Hoàng nhạy cảm và suy diễn thái quá chứ Tiên đang được cuộc đời trả lãi đấy thôi. Nếu Tiên lấy Tuấn thì đó sẽ là một đôi uyên ương đẹp. Nếu các em Tiên học hành đến nơi đến chốn thì cũng có nghĩa là cô đã trả được hiếu cho bố mẹ mình dưới suối vàng rồi. Và Hoàng còn phải ơn Tiên nữa kia. Loạt phóng sự đi ba kỳ sau này tư liệu chủ yếu do Tiên cung cấp và gợi mở. Và cái mùa đông ấy cũng đã trở thành một ký ức đẹp trong cuộc đời làm báo của Hoàng. Cái mùa đông ấy đã trở thành quá vãng rồi. Bốn năm sau Hoàng mới lại có dịp quay trở lại cổng trời Quán Bù.

     

    Vừa đúng bốn năm, cũng lại vào mùa đông...

     

    Lần này Hoàng lên cổng trời Quán Bù với nhóm phóng viên của một hãng truyền hình Nhật Bản. Họ đã đọc được cái phóng sự ba kỳ của Hoàng ở một xó xỉnh nào đó và họ mê cái đoạn tả về chợ rượu Lũng Pàn. Mùa đông này họ sang Việt Nam nhờ Hoàng đưa đến phiên chợ rượu độc đáo đó để họ làm phim ẩm thực. Bên họ có một kênh truyền hình chuyên phát những loại phim này. Tất nhiên là Hoàng ôkê ngay. Bốn năm qua đủ biến Hoàng trở thành một phóng viên cứng cỏi. Sự chia tay với Vi cũng làm cho con tim Hoàng dường như trưởng thành hơn. Một anh bạn Hoàng từng bảo: “Không nên dùng từ trưởng thành đối với con tim, nghe nó điêu ngoa lắm”. Hoàng cười khẩy: “Người ta còn gọi là trái tim non, là con tim mù lòa được kia mà. Sao lại không thể gọi là con tim trưởng thành?”. Cô em gái Vi cũng đã ra trường và xin được việc làm ở công ty mỹ thuật Thủ đô. Bức tranh vẽ hoa tam giác mạch của cô bây giờ treo trong phòng ngủ của chị gái mình. Vi và người chồng của cô sẽ nhìn ngắm bức tranh ấy vào những lúc tâm hồn họ thanh thản nhất, và Vi sẽ giới thiệu về lịch sử bức tranh cho chồng cô nghe. Trong câu chuyện của cô chắc chắn sẽ không có cái tên Hoàng xuất hiện với tư cách là người hộ tống tác giả bức tranh. Vi đã không thể lấy một anh nhà báo giỏi mà không có nhà ở Hà Nội, đồng lương lại không đảm bảo hạnh phúc gia đình nên Hoàng đành mất đi cơ hội được treo bức tranh tam giác mạch đó nơi phòng ngủ của mình vào đêm tân hôn.

     

    Và sự trở lại cổng trời lần này không phải để tìm một bức tranh tam giác mạch khác thay thế. Điều khiến Hoàng bồi hồi nhất chính là niềm phấn khích được gặp lại Tiên.

     

    Đoàn làm phim được thu xếp nghỉ ở Trung tâm văn hóa huyện. Nhận phòng xong, quay ra Hoàng bỗng nhận thấy dáng Tuấn đang đi ở dưới sân. Vẫn cái dáng cao gầy với sơ mi bỏ quần có thắt cà vạt và đeo kính gọng đen y như bốn năm trước đây. Hoàng liền cất tiếng gọi. Cái người ở dưới sân vội ngước mắt lên nhìn Hoàng. Ánh mắt anh ta tỏ ra hết sức ngỡ ngàng. Hoàng cũng đã ngờ ngợ là mình nhầm người. Cậu thanh niên đeo cà vạt đó tiếp tục đi vào lối dẫn lên cầu thang và chỉ lát sau thì anh ta đã xuất hiện ngay trước mắt Hoàng.

     

    - Anh quen anh Tuấn à? – Cậu ta hỏi Hoàng.

     

    - Ừ, xin lỗi, mình nhầm.

     

    - Anh Tuấn chuyển về sở rồi. Em về thay anh ấy. Trước khi anh ấy đi, hai anh em ở với nhau gần hai tháng. Em là Quân.

     

    Hoàng vội làm thân:

     

    - Mình với Quân ra phố uống cà phê đi. Trước mình có quen Tuấn, nay có dịp lên công tác muốn hỏi thăm cậu ta thôi.

     

    Quân gật đầu:

     

    - Ở đây chỉ có một quán cà phê duy nhất. Tỉnh lẻ mà. Ngon dở thế nào anh dùng tạm nhé?

     

    Hoàng gật đầu: “Ôkê!” rồi khoác vai Quân đi xuống cầu thang gác. Đúng là vẫn quán cà phê của Tiên, vẫn biển hiệu “Gội đầu Xóm Núi”, vẫn tấm mành mành nhựa hai màu xanh, trắng. Khi tấm mành được vén lên thì vẫn là một thứ kinh doang tổng hợp như bốn năm trước đây Tiên đã từng làm. Chỉ có điều, chủ quán không phải là Tiên. Hoàng vội quay sang Quân:

     

    - Quán này mới thay chủ à?

     

    Quân gật đâu:

     

    - Vâng, quán này trước là của chị Tiên. Chị ấy chết rồi.

     

    Hoàng kinh ngạc:

     

    - Chết rồi? Thế Tuấn...?

     

    Quân nhìn thẳng vào Hoàng, đáp:

     

    - Anh cũng biết chuyện giữa chị Tiên và anh Tuấn à? Chị ấy chết được hơn một năm rồi. Chết sau ngày đứa em thứ hai của chị ấy vào đại học. Anh Tuấn buồn lắm. Anh ấy rất yêu chị Tiên. Chẳng hiểu sao chị ấy lại không lấy anh Tuấn. Có người bảo chị ấy chết bệnh, lại có người bảo chị ấy tự tử. Anh Tuấn là người đưa xác chị ấy từ bệnh viện tỉnh về chôn ở khu mộ cổ. Có lẽ anh Tuấn là người biết rõ nhất về chị ấy. Nhưng anh ấy không bao giờ nói với ai về chuyện đó cả. Chỉ có một lần anh ấy bảo với em là: “Tiên đã chuẩn bị trước cho cái chết của mình, cô ấy đã xây sẵn một ngôi mộ đá”

     

    Hoàng uống vội ly cà phê đắng ngắt rồi cùng Quân ra khu mộ cổ. Đúng là Tiên đã về nằm dưới ngôi mộ đá do chính tay cô chuẩn bị từ trước. Những chuyện mà Tiên nói với Hoàng bốn năm về trước như vẫn còn bên tai anh, như văng vẳng đâu đây giữa nghĩa địa hoang vu, bên những nóc mộ cổ in dấu thời gian này. Tiên rất sợ cái câu thơ định mệnh Đến khi thác xuống làm ma không chồng nên cô đã phải chọn sẵn cho mình một ngôi mộ đá để khi nằm trong đó mới thực sự cảm thấy vững chãi, thực sự cảm thấy bình yên. Bây giờ thì em đã bình yên chưa Tiên ơi? Trước ánh mắt đờ đẫn vì xúc cảm của Hoàng, Quân bảo: “Muốn hiểu về chị ấy, anh cứ về sở gặp anh Tuấn là rõ. Anh Tuấn là con trai của bác phó giám đốc sở đấy, cũng dễ tìm thôi mà”

     

    Hoàng mỉm cười chua chát. Quân quên mất Hoàng là nhà báo ư? Việc tìm Tuấn đối với Hoàng có gì là khó đâu. Ngay cả việc xác minh lý lịch của Tiên với cái nhà hàng Mây Chiều đã bị đóng cửa ở gần Ô Chợ Dừa ấy đối với Hoàng cũng chẳng khó gì. Nhưng tìm Tuấn để làm gì? Biết rõ hơn về Tiên cũng để làm gì? Làm sao tìm hiểu cho hết uẩn khúc của mỗi con người trong cái thế gian đầy phức tạp này?! Tiên đã muốn bình yên trong nấm mộ đá kia, những muốn người đời quên mình đi thì cũng chẳng nên xới lật cuộc đời cô thêm một lần nữa. Có chăng là cắm cho cô nén nhang để linh hồn cô khỏi lạnh lẽo nơi lòng đá mà thôi. Hoàng nhìn sang Núm Vú Cô Tiên, thấy câu chuyện tự biên tự diễn của mình sao kinh khủng thế? Nếu ba vạn chín nghìn năm trước đây có một nàng tiên như thế thì bây giờ nàng nằm kia mưa nắng dãi dầu, đắng cay, oan nghiệt quá. Cho nên Tiên mới muốn trốn vào mộ đá để khỏi bị miệng lưỡi người đời nhắc đến chăng?

     

    Ngay sáng hôm sau Hoàng rời Quán Bù lên Lũng Pàn và ở lại đó cho đến khi đoàn làm phim quay xong. Trở lại Hà Nội được một tuần thì Vi điện đến cho Hoàng. Vi bảo: “Nghe nói anh dạo này hay la cà ở các quán gội đầu thẩm mĩ lắm phải không? Cẩn thận không các cô ca ve ấy cho anh tiêu đời luôn đấy. Tốt hơn hết là anh lấy vợ đi. Rồi cố đẻ một cô công chúa để làm thông gia với em”

     

    Hoàng bảo: “Cảm ơn lời nhắc nhở của em. Đừng lo cho anh nữa. Con tim anh trưởng thành lên nhiều rồi mà”

     

    Và Hoàng cúp máy.


  7. Mơ về một khúc sông trôi

    Truyện ngắn của Nguyễn Đình Tú

     

    Ngày ấy Điền hơn em một tuổi. Nhưng em chắc chắn Điền không hề biết cái vệt máu ấy là biểu hiện sinh lý đầu tiên của người đàn bà. Cái đầu hay triết lý của Điền cũng chỉ nghĩ, có lẽ em bị một cành cây nào đó cào xước vào chỗ kín và thế là máu chảy ra thôi.

     

    - Kìa, khúc sông trôi!

    - Không, khúc sông đứng yên!

    - Trôi...

    - Đứng yên...

     

    Khi quyết định đổ tiền của xuống để nắn dòng chảy, em đã cùng đoàn cán bộ khảo sát và đối tác trúng thầu đến cái nơi mà hai mươi tám năm trước em nhận ra mình là con gái. Vẫn một bờ sông ngút ngàn gió. Vẫn những vạt cói lăn tăn rì rào trước những cơn sóng nhẹ. Vẫn những vệt phù sa đỏ sậm đổ nghiêng xuống lòng sông. Và vẫn có những đôi trai gái cãi nhau về việc khúc sông trôi hay không trôi?

     

    Em thì bảo rằng khúc sông trôi. Bởi vì nếu khúc sông không trôi thì vệt máu đào trinh nữ của em đã chẳng bị dòng nước cuốn đi xa tít mù khơi như thế kia. Điền lại cứ một mực bảo khúc sông đứng yên. “Chẳng có gì trôi cả, vẫn từng ấy nước và trong lòng khúc sông vẫn từng ấy tôm cá và phù sa”. “Nhưng máu, rõ ràng máu...”. “Nó lặn xuống dòng nước và khúc sông này giữ nó trong lòng, thế thôi, muôn đời khúc sông vẫn đứng yên”.

     

    Ngày ấy Điền hơn em một tuổi. Nhưng em chắc chắn một điều rằng Điền không hề biết cái vệt máu ấy là biểu hiện sinh lý đầu tiên của một người đàn bà. Cái đầu hay triết lý của Điền cũng chỉ nghĩ rằng, có lẽ em bị một cành cây nào đó cào xước vào chỗ kín và thế là máu chảy ra thôi. Còn em, tuy có hơi sợ nhưng trước đó cô Thoa đã nhắc đến cái “sự cố” này rồi nên em có phần yên tâm hơn. Đột nhiên thấy em không tắm nữa mà chạy về phía chân cầu treo thay quần áo, Điền đang ở giữa dòng vội bơi vào bờ. Em chỉ xuống vệt máu nhập nhòa trên mặt bùn non để giải thích việc lên bờ của mình. Điền gật đầu ra vẻ hiểu, rồi lại lao mình xuống sông bơi lội. Mệt nhoài vì sông nước, Điền cứ để nguyên mình trần như thế đến ngồi bên em và tranh luận về việc khúc sông trôi hay không trôi? Hôm ấy lần đầu tiên em không muốn về cùng với Điền. Lần đầu tiên, em có cảm giác ngượng ngùng khi đi cùng với một người con trai. Lần đầu tiên em cảm thấy mình biết nhiều điều bí mật về con người hơn Điền. Và đó là lần cuối cùng em tắm sông cùng với bạn trai, dù đó là Điền.

     

    Điền bây giờ đang ở đâu? Mấy đêm nay, đêm nào em cũng mơ thấy dòng sông, thấy công đường và thấy khuôn mặt Điền lúc nghiêm khắc như ông chánh án ở phiên tòa sơ thẩm, lúc quyết liệt bênh vực em như ông luật sư già có mái tóc bạc như cước. Điền ở độ tuổi 45 vẫn không khác với ngày xưa bao nhiêu. Nhất là ánh mắt của Điền. Ánh mắt vừa nghiêm, vừa hiền, có cả nghị lực và sự mềm yếu, vừa làm em sợ lại vừa làm em có thể trêu đùa, nũng nịu. Ánh mắt ấy lần đầu tiên quắc lên với em khi em tìm đến nhà Điền để trao cho phụ huynh cuốn sổ liên lạc.

     

    Nhà Điền ở đằng sau một cái chợ. Nói như thế vẫn chưa chính xác, vì sau chợ còn là một cánh đồng rộng. Em đi trên những bờ ruộng nối tiếp nhau cắt ngang cánh đồng ấy để bước vào một xóm xa lạ quanh năm che phủ bởi một lớp tre dày. Thỉnh thoảng theo cô Thoa ra chợ, khi đi ra phía sau, em cũng có nhìn thấy cái bụi tre khổng lồ ấy, và không nghĩ rằng bên trong đó là một xóm dân cư, lại có cả căn nhà của cậu bạn học giỏi nhất lớp mà em rất nể phục.

     

    Gọi là xóm dân cư nhưng thực ra chỉ có khoảng dăm nóc nhà thôi. Khi em đi đến giữa cánh đồng thì bất ngờ Điền từ dưới ruộng nhảy phắt ra đứng chắn ngay trước mặt em.

     

    - Đưa sổ liên lạc cho tớ?

     

    - Không, cô giáo bảo tớ giao tận tay phụ huynh, lấy chữ ký xong mang về nộp cho cô.

     

    - Thì cứ đưa đây, rồi ra chợ ngồi chờ tớ, tớ sẽ đưa lại sổ với chữ ký của mẹ tớ.

     

    - Không!, em bày tỏ thái độ cương quyết.

     

    Điền đã giật cặp sách trên tay em. Không hiểu sao lúc ấy em lại khỏe thế. Em không cho Điền giành lấy cuốn sổ liên lạc. Chẳng phải em muốn làm tròn bổn phận của một người lớp trưởng đâu. Cũng chẳng phải em muốn “tâng công” với cô giáo chủ nhiệm. Cái chính là bản thân em đang muốn biết tại sao Điền lại nghỉ học mấy ngày qua? Và ngay lúc ấy em muốn khám phá cái bụi tre khổng lồ kia chứa những gì trong đó, ở đấy cậu bạn học gầy gò, mảnh khảnh của em sống như thế nào? Vì thế Điền quắc mắt lên với em, Điền lao vào em giành giật chiếc cặp sách, Điền khỏe hơn em thật đấy, nhưng Điền không thể đè bẹp được ý chí khám phá của em. Em còn nhận ra rằng Điền không dám chạm mạnh vào người em. Trong khi giằng co em đã xé rách vạt áo trước của Điền. Em nhìn thấy phần bụng lép kẹp cùng chiếc quần Điền mặc không có cúc, cạp được buộc túm lại bằng một sợi dây gai. Điền có vẻ bất lực trước ánh mắt soi mói và khoái trá của em. Em biết điều ấy nên em càng củng cố thêm ý nghĩ không chịu khuất phục trước Điền. Đang mạnh mẽ là thế bỗng ánh mắt của Điền cụp xuống. Điền nói với em bằng một giọng rất mủi: “Quyên đừng vào nhà tớ có được không, mẹ tớ sẽ ký vào sổ liên lạc cho Quyên đem về nộp cô giáo, Quyên đứng ở ngoài này thôi...”

     

    - Phạm nhân Quyên, ra ngoài!

     

    Đấy là thứ ngôn ngữ mà người ta thường dùng để gọi em. Không còn đâu những lời lẽ dễ chịu kiểu như: “Thưa đồng chí chủ tịch”, “Báo cáo chủ tịch”, “Xin hỏi chủ tịch một số vấn đề về huyện nhà”... Âm thanh quanh em bây giờ chói gắt, nặng nề và ngột ngạt lắm. Đi kèm với cái giọng mệnh lệnh đó là tiếng mở khóa, tiếng kéo cánh cửa. Nữ quản giáo đưa em lên phòng hỏi cung. Vẫn ông luật sư già có mái tóc bạc như cước. Vừa nhìn thấy ông, em đã bảo: “Bác đừng thuyết phục cháu nữa. Ở phiên phúc thẩm cháu cũng sẽ không có gì khai thêm đâu. Một mình cháu chịu tội là đủ. Lôi thêm những người khác vào vòng lao lý làm gì?”. Ông luật sư ngày xưa là bạn của bố em. Nhiều lần ông nhìn em mà nước mắt rưng rưng. Ông bảo: “Bác biết những người ấy. Họ không đáng để cháu phải chịu tội thay. Cháu hãy dũng cảm lên. Nói ra sự thật là cách sám hối tốt nhất của người có tội”.

     

    Em có nên nói ra sự thật không hả Điền? Khi cầm cuốn sổ liên lạc từ nhà Điền về nộp cho cô giáo em đã nói dối. Lần đầu tiên em nói dối trên cương vị lớp trưởng. Nhìn ánh mắt Điền như van xin em đừng bước vào nhà, em mềm lòng lắm. Chút kiêu hãnh của con bé lớp trưởng trong em được ve vuốt. Em thỏa mãn. Và em định mở cặp lấy cuốn sổ liên lạc ra đưa cho Điền. Nhưng rồi những bí ẩn sau bụi tre kia lại kích thích em. Em bĩu môi ra và lắc đầu một cách độc ác.

     

    - Tớ phải gặp bố mẹ cậu!

     

    Điền nhìn em bất lực. Rồi Điền buông xuôi. “Đấy, kệ bạn!”. Điền bỏ chạy xuống ruộng, lát sau em thấy Điền thấp thoáng sau rặng tre. Hình như Điền đang gánh thứ gì đó rất nặng. Hai cái thùng được bọc kín oằn cả hai đầu đòn gánh. Em vênh mặt lên bước những bước dài trên cánh đồng. Nhà Điền ở cuối xóm. Cánh cổng tre dựng hờ hững. Em đưa tay đẩy cánh cổng và nó đổ ập vào người em. Em dựng được cánh cổng dậy thì gai tre cào rách tay em. Em đi theo rặng duối, bước qua khoảnh sân hẹp, đẩy tiếp cánh cửa gỗ màu nâu để vào nhà Điền. Đó là căn nhà một gian chật hẹp và rất tối. Em đưa tay lên mắt để nhìn cho rõ hơn. “Ai đấy?”, một giọng nói hơi ngái ngái, không biết là đàn ông hay đàn bà cất lên từ góc bên phải. “Cháu là Quyên, cháu học cùng lớp với bạn Điền”, em mạnh dạn lên tiếng đáp lại. “Cháu đi thẳng đến chỗ bàn nước, đẩy cái liếp lên cho khỏi tối”. Em đã nhìn thấy cái bàn nước và hai chiếc ghế băng được đẽo từ thân ổi. Em làm theo hướng dẫn. Cánh liếp được đẩy lên. Ở đó đã có sẵn một chiếc gậy nhỏ. Em dùng cây gậy đó để chống tấm liếp. Ánh sáng ùa qua khung cửa sổ. Bên phải em là một chiếc giường đôi cũ kỹ, trên đó có một người đang nằm, đắp tấm chăn mỏng. Bên trái em như một góc nhà kho, có quang gánh, bao thóc, thúng gạo và những củ khoai nằm lăn lóc. Người nằm trên giường là mẹ Điền. Em đã thoáng nhìn thấy Điền đi về qua sân. Nhưng Điền có vẻ không cần biết đến em. Điền ra góc sân rửa chân tay. Rồi Điền chui vào bếp. Lát sau em gửi thấy mùi rơm cháy. Mẹ Điền bị bệnh khớp.

     

    Qua chuyện trò với mẹ Điền, em biết rằng bố Điền là công nhân lái tàu hỏa nhưng đã chết gần chục năm nay rồi. Mẹ Điền làm nông nghiệp, ngoài ra còn làm “công nhân vệ sinh” nữa. Sau này em mới biết rằng công nhân vệ sinh tức là chiều chiều gánh hai cái thùng trĩu nặng mà lúc nãy Điền vừa gánh. Mấy ngày nay bỗng nhiên bệnh khớp đánh quỵ mẹ nên Điền phải làm thay công việc ấy. Nhưng Điền nói dối mẹ là vẫn đi học. Mẹ Điền trót hợp đồng với mấy công sở trên huyện rồi, chỉ một ngày vắng mẹ Điền thôi, hàng loạt khu vệ sinh công cộng sẽ phải có người khác đến dọn. Như thế mẹ Điền sẽ mất việc. Như thế cũng có nghĩa là chút thu nhập thêm ít ỏi sẽ không còn nữa. Mấy thước ruộng vỡ hoang cùng mảnh vườn sau nhà cũng không có cái mà chăm bón. Nhà Điền nghèo nên Điền phải cố giữ lấy cái thừa thãi của thiên hạ để lo cho cuộc sống của gia đình mình.

     

    Em ngồi nói chuyện với mẹ Điền, thấy tự nhiên, gần gũi và thân thiết. Em không có mẹ nên cảm động trước tình mẫu tử trong căn nhà Điền chăng? Bố em là bí thư thị ủy. Bố chỉ có một mình em. Cô Thoa văn thư thường qua nhà nấu cơm cho em ăn nhưng cô ấy không có cách nói chuyện như của mẹ Điền. Trước cô ấy, em không có ý niệm về “Mẹ”. Hôm ấy em đã không dám nói đến chuyện cuốn sổ liên lạc. Trời nhập nhoạng tối thì em xin phép ra về. Mẹ gọi Điền lên bảo luộc khoai cho em ăn. Em chọn hai củ to nhất, cho vào cặp sách rồi mang về. Điền đưa em qua cánh đồng. Em bảo Điền: “Mai đi học nhé?”. Điền gật đầu. Hôm sau em nói dối cô giáo rằng mẹ Điền bị ốm nặng, không thể ký vào sổ liên lạc được. Cô giáo tin em, cô cùng em đến thăm mẹ Điền. Chuyện sổ liên lạc rồi cũng qua đi. Điền lại đi học bình thường. Điền quý em hơn. Có thể sau mẹ, em là nhất trong trái tim Điền. Em cảm nhận được điều đó. Em thường đến nhà Điền chơi. Đi tắm sông cùng Điền. Và em yêu Điền. Chắc chắn là thế. Bây giờ thì em gọi cái trạng thái tình cảm ấy ra một cách rõ ràng như thế. Bởi vì trước đây đã nhiều lần em không muốn thừa nhận điều ấy. Ngay cả khi em và Điền cùng đỗ vào trường cao đẳng sư phạm, em rất đau khổ mỗi khi thấy Điền đi với một cô gái khác, nhưng em vẫn cứ cho rằng Điền yêu em hơn là em yêu Điền.

     

    - Phạm nhân Quyên, ra ngoài!

     

    Lại thứ ngôn ngữ lạnh lùng và đáng ghét ấy. Lại tiếng kẹt cửa và khuôn mặt vô cảm của người nữ quản giáo. Lại khoảng sân dài cùng hành lang hẹp đưa em đến phòng hỏi cung. Lần này không phải ông luật sư già có mái tóc bạc như cước. Lần này là người của “ông ấy”. Ông ấy lại cho người vào lên giây cót tinh thần cho em. Điền đừng quắc mắt lên như thế mỗi khi nghe em nhắc đến “ông ấy”. “Ông ấy” là bố chồng của em kia mà. Ông ấy có quyền yêu thương em chứ? Khi bố em là bí thư thị ủy thì ông ấy là người ở trên huyện. Cái thị trấn bé tí, đáng kể nhất là cái chợ mỗi khi đi học Điền thường phải đi qua, về mặt hành chính nó chỉ tương đương với cấp xã thôi. Bố em cũng chỉ là một bí thư xã chứ có to tát gì đâu. Thế nên ông ấy là cấp trên của bố em. Ông ấy có thể giúp bố em phát lộ quan chức hơn nữa. Bố em không thể không nể vì ông ấy. Và khi ông ấy ngỏ lời muốn em về làm dâu nhà ông ấy, làm sao bố em không mừng vui cho được? Khổ nỗi em lại đang vướng víu với Điền. Đôi ba lần ông ấy nhìn thấy em và Điền đèo nhau trên chiếc xe đạp Liên Xô do chính ông ấy tặng. Rồi ông ấy lại phát hiện ra ông ấy và bố Điền trước đây từng công tác một tổ với nhau khi còn ở ngành đường sắt. Thế là ông ấy tìm đến nhà Điền. Có lẽ vì thế mà Điền mới được kết nạp Đảng ngay khi còn ở trong trường. Rồi lại được điều về dạy ở trường điểm của huyện. Và Điền là một trong những đảng viên trẻ nhất của ngành giáo dục lên đường nhập ngũ khi chiến tranh biên giới xảy ra.

     

    Chỉ có điều, Điền đã bỏ rơi em. Điền ham muốn công danh. Điền say mê quyền chức. Điền phủi em nhanh như phủi một cọng rơm. Cái ngày Điền đi, em đã muốn đến gặp Điền để mắng vào mặt Điền, thậm chí tát vào mặt Điền nữa. Nhưng hôm ấy Điền chỉ ríu rít với cô bạn hàng xóm của Điền thôi. Điền không thèm nhìn em. Điền không muốn dành cho em một nửa ánh mắt. Lòng tự ái của em bị tổn thương ghê gớm. Em đã không thèm gửi quà cho Điền, không thèm hẹn hò thư từ với Điền, không thèm nghĩ rằng đã có một người bạn như Điền nữa. Em bỏ về và sau ngày Điền đi một năm em về làm dâu nhà ông ấy.

     

    - “Ông ấy” nói rằng án hai mươi năm là thắng lợi bước đầu. Cố gắng giữ vững lập trường, xử phúc thẩm chắc chắn sẽ giảm nữa. Hãy vì thằng Bin mà chịu đựng. Quá trình thi hành án sau này sẽ có những tác động hiệu quả hơn.

     

    Thế đấy. Điền có biết bây giờ em sống vì ai không? Vì thằng Bin. Phải, cái thằng có lần cứ đòi nhảy từ tầng bốn xuống đất, sau Điền phải leo tường lên từ phía sau lôi nó xuống đấy. Nó đã 18 tuổi rồi Điền ạ. Nó là đứa cháu duy nhất của ông ấy. Ông ấy đáng thương lắm Điền biết không? Từ chiến trường ra cơ thể ông ấy bị nhiễm chất độc hóa học nên không dám sinh nở nhiều. Ông ấy chỉ có một người con là bố thằng Bin thôi. Trước khi về làm con dâu ông ấy, em không biết gì về người chồng của em cả. Chỉ được nghe nói rằng đó là một chàng trai cao lớn, thông minh, học ở Liên Xô về, đang công tác ở một công trường dưới Quảng Ninh. Mấy lần ông ấy đưa ảnh cho em xem. Quả cũng đẹp đẽ thật. Buổi sáng hôm rước dâu, ông ấy thông báo rằng, công trường xảy ra tai nạn lao động, con trai ông ấy và mấy chuyên gia Liên Xô bị thương nặng, hiện đang điều trị tại nhà điều dưỡng bên vịnh Hạ Long, không thể về được. Thế là em lên xe hoa một mình, không có chú rể.

     

    Đêm tân hôn không có người đàn ông nào nằm bên em cả. Đêm ấy em mơ tới Điền. Tiếng súng đì đùng từ biên giới vọng về xé rách giấc miên viễn buồn nản của em. Một tuần sau một chuyến xe đặc biệt mới chở chồng em từ Quảng Ninh về. Em nhận ngay ra sự dối lừa khủng khiếp của ông ấy. Chồng em chẳng phải kỹ sư hay phiên dịch viên gì hết. Chồng em là một thanh niên đang suy sụp vì bệnh teo cơ. Chất hóa học ông ấy nhiễm phải truyền sang người cậu con trai, và chồng em đã phải bỏ dở chương trình học tập ở Liên Xô, trở về điều trị tại Quảng Ninh vài ba năm nay rồi. Em muốn bỏ về nhà ngay nhưng ông ấy đã khóc. Ông ấy bảo cuộc đời ông ấy chẳng còn gì cả, chỉ còn cậu con trai đáng thương ấy thôi. Lạy trời, bố thằng Bin không đến nỗi nào, ngoại trừ đôi chân giống như hai chiếc cẳng bò vô cảm. Em đau đớn quá. Nhưng em không còn chỗ để tháo lui. Hiện tại em không có tình yêu, quá khứ cũng khước từ em, em còn biết trốn chạy đi đâu, tìm đến miền trú ẩn nào nữa đây? Lần cuối cùng nói chuyện với em, Điền bảo rằng Điền hợp với cô bé hàng xóm hơn vì cùng cảnh ngộ. Em tưởng Điền nói đùa, ai ngờ từ đó không bao giờ em còn có cơ hội để nói chuyện với Điền nữa. Em cho rằng Điền thách thức lòng kiêu hãnh của em. Em cứ nghĩ rằng em đang phủi Điền, em tìm lại cảm giác soi mói và độc ác vào buổi chiều mang cuốn sổ liên lạc đến nhà Điền khi nhìn xuống vạt bụng gầy nhom và hai cạp quần được dây gai buộc túm lại. Em cứ nghĩ rồi Điền sẽ chạy đến với em. Nhưng em càng chờ đợi thì Điền càng rời xa em.

     

    Năm năm sau ngày cưới cả bố em và ông ấy đều vô cùng sung sướng khi biết em có thai. Cuộc sống vợ chồng em cuối cùng thì cũng có kết quả. Em sinh ra thằng Bin. Ba cân rưỡi, chân tay, mặt mũi đều hoàn toàn bình thường. Ông ấy cảm thấy được đền bù. Ông ấy càng yêu quý con dâu hơn. Đường công danh của ông ấy cũng không ngừng thăng tiến. Ông ấy được rút lên tỉnh. Bố em cũng được rút lên huyện. Chồng em sống thêm được vài năm nữa, khi thằng Bin lên ba tuổi thì mất. Em bắt đầu bước vào quỹ đạo chính trị. Từ một cô giáo em được rút về phòng giáo dục, rồi đi học, rồi sang làm công tác phụ nữ, rồi công tác tuyên giáo, rồi trở thành nữ phó chủ tịch huyện. Trước đó vài năm bố em nghỉ công tác vì lý do sức khỏe. Còn bố chồng em, ông ấy vẫn ở trên tỉnh, vẫn hàng ngày chỉ đạo các hoạt động của em. Năm ngoái chủ tịch huyện được điều đi nơi khác, em lên nắm quyền chủ tịch. Em biết Điền đã xuất ngũ, đã đi học thêm ở Hà Nội rồi trở về mái trường chuyên nghiệp năm xưa em và Điền từng học. Thi thoảng em vẫn được nghe những tin tức về Điền. Điền lên trưởng khoa, rồi hiệu phó, và mới đây là hiệu trưởng. Điền còn tham gia cả Hội đồng nhân dân tỉnh nữa. Ai đó đã nói không sai rằng sự nghiệp của người đàn bà là tình yêu còn tình yêu của người đàn ông là sự nghiệp. Trên bước hoan lộ của của mình có bao giờ Điền nghĩ đến em không? Có. Đúng rồi. Chẳng phải đã có lần Điền xộc thẳng vào phòng em với ánh mắt quắc lên như ngày nào muốn giành giật từ em cuốn sổ liên lạc. Và Điền đã nói rằng: Khúc sông trôi...

     

    - Tại sao anh lại nói đến khúc sông trôi? - Em đã hỏi Điền câu đó với tư cách là một nữ chủ tịch huyện.

     

    - Đồng chí không biết quy luật của dòng chảy sao? Sáu tháng đầu năm bờ trái bồi, bờ phải lở, sáu tháng cuối năm thì ngược lại. Bây giờ đang là mùa lũ cuối năm. Làm đường bên bờ trái lúc này là đổ tiền của xuống sông xuống biển...

     

    - Cám ơn đồng chí, chúng tôi đã có những chuyên gia giỏi về vấn đề này. Mà anh Điền này, anh vẫn nói với tôi là khúc sông đứng yên kia mà, có cái gì trôi được đâu?

     

    Điền ngỡ ngàng nhìn em. Rồi Điền hạ giọng: “Chiều nay tôi muốn gặp Quyên ở quán cà phê dưới chân cầu treo có được không? Lâu lắm rồi chúng ta không có dịp nói chuyện với nhau”.

     

    Buổi chiều hôm đó thật khủng khiếp đối với em. Vì em chợt nhận ra rằng em vẫn yêu Điền. Trong em không có hình ảnh nào có thể thay thế được Điền. Em đã phủi Điền bằng thời gian và sự căm ghét, đôi khi là cả sự thù hận nữa, nhưng Điền vẫn không ra khỏi em. Điền hỏi em rất nhiều điều. Về sức khỏe, về gia đình, về con cái... Giữa lúc ấy cậu lái xe hớt hải chạy vào báo với em rằng thằng Bin đang đòi nhảy từ tầng bốn nhà em xuống đất. Điền và em lao ra xe. Trong khi em van vỉ cậu con trai mù lòa đừng chán đời mà lao xuống đất thì Điền chui qua cửa sổ tầng ba, leo lên sân thượng tầng bốn túm lấy thằng Bin đưa xuống. Thằng Bin đẹp như bố nó nhưng lên 5 tuổi thì hai mắt bỗng dưng mù. Mấy năm gần đây, khi bước sang tuổi thiếu niên tự nhiên nó trở tính, hay hờn hay dỗi, thường cáu bẳn và đòi tự sát. Hôm ấy em hoãn cuộc họp thường vụ để ở nhà nấu cơm mời Điền. Em cảm thấy rất vui khi được làm một người nội trợ. Trong bữa cơm Điền liên tục kể những câu chuyện vui thời Điền đóng quân trên biên giới. Khiếu hài hước của Điền làm thằng Bin ngoác miệng ra cười thích thú. Nó thán phục Điền khi Điền kể về những chuyện chiến đấu, chuyện đói khát, chuyện lạc trong rừng sâu...

     

    Tối đến, khi thằng Bin đi ngủ, Điền nhìn em bằng ánh mắt rất lạ. Trong một lần đèo em về trên chiếc xe đạp Liên Xô, Điền cũng đã từng nhìn em bằng ánh mắt như thế. Điền chở em ra bờ sông. Dưới chân cầu treo, gió rào rạt thổi, Điền đặt em lên yên xe, xoay mặt lại. Điền ngồi trên gác ba ga, xoạc chân ra hai bên làm trụ chống. Điền nhìn như thôi miên em. Ánh mắt của Điền lần đầu tiên có những tia sắc dục tươi trẻ và đắm say. Em đã nín thở khi đôi môi Điền chạm vào người em. Hai tay Điền bóp chặt lấy hông em. Trời ơi, cái cảm giác diệu kỳ ấy sau này thỉnh thoảng lại thức dậy trong em, và nó làm em thù Điền. Hôm ấy Điền lại nhìn em như thế. Nhưng em chưa thể tha thứ cho Điền. Điền đã từng phủi em một cách tệ hại. Điền không thể hối lỗi chỉ bằng một ánh mắt như thế kia. Giữa lúc Điền đang nhìn em thì em buông ra câu hỏi: “Vợ con Điền thế nào?”. Lập tức ánh mắt Điền cụp xuống. Thực ra em thừa biết hoàn cảnh của Điền. Điền lấy một cô vợ học khoa Tiếng Nga, từng là học trò của Điền và đã có một đứa con. Cô ấy được cử đi thực tập tiếng ở nước ngoài rồi ở lại luôn bên đó không về nữa. Điền bất hạnh lắm chứ chẳng sung sướng gì đâu. Ai bảo Điền bạc với em? Điền mải mê quyền lực nhưng chắc gì quyền lực Điền đã hơn em? Điền rủ lòng thương xót cho bi kịch gia đình của em nhưng bi kịch của Điền chả phải cũng rất đáng thương xót đó sao?

     

    “Cô ấy gửi đơn về nước xin ly hôn, tôi đã quyết định giải phóng cho cô ấy rồi. Bây giờ tôi là người tự do. “Tự do để làm gì nữa hả Điền?”. “Để làm cái mà mình muốn”. “Trước đây Điền không có tự do sao?”. “Có. Nhưng tôi đã không làm được cái mà tôi muốn”. “Điền muốn gì?” “Muốn tìm lại khúc sông trôi”. “Trước đây Điền bảo nó không trôi kia mà?”. “Tôi đã nghĩ thế, nhưng mà nó đã trôi, tôi muốn tìm lại nó”. Em đã chủ động chấm dứt câu chuyện tại đây. Điền phải ra về trong nỗi vương vấn và ức chế. Em biết Điền còn có điều gì đó muốn nói mà chưa nói được. Em nông nổi, cứ nghĩ rằng em đã làm được một việc, đó là cào vào lòng kiêu hãnh của Điền và hả hê cho rằng Điền đau đớn. Ngay ngày hôm sau những tấn đất đá đầu tiên được đổ xuống lòng sông. Phố huyện nghèo nàn tưởng ngủ quên bỗng thức dậy với tiềm năng du lịch lớn nhất miền duyên hải. Hai bên bờ sông sẽ là hai con đường nhỏ rải át phan với vỉa hè rộng và những hàng dương liễu buông rủ. Chiếc cầu treo sẽ được xây lại với công nghệ dây văng hiện đại. Những quả đồi lô nhô kéo dài ra đến tận bờ biển kia sẽ là quần thể du lịch sinh thái tuyệt vời. Nhưng nhất định phải xây dựng bên bờ trái trước.

     

    Nhất định thế dù sáu tháng cuối năm đó là bờ lở của dòng sông.

     

    - Phạm nhân Quyên, ra ngoài!

     

    Lần này không phải là phòng hỏi cung với những bức tường màu vàng nhợt nhạt, u ám. Không phải hành lang dài và hẹp. Cũng không phải ông luật sư già với mái tóc bạc như cước. Không phải người của “ông ấy”. Không phải người của các cơ quan tố tụng đến tống đạt những văn bản lạnh lùng, khô xác. Không phải bố em và thằng Bin. Đơn giản hơn, lần này em được ra ngoài sân đi dạo.

     

    Góc sân có một cây cơm nguội rất to. Phạm nhân ngồi quanh gốc cây ấy mơ về chân trời tự do đang ở rất xa họ. Chân cầu treo cũng có một gốc cây cơm nguội rất to phải không Điền? Dưới gốc cây ấy là quán cà phê “Bờ sông”. Những người công nhân chưa kịp cưa gốc cây ấy đi để làm cầu treo mới thì em bị bắt. Hôm em bị bắt chính là hôm em hẹn Điền đến quán “Bờ sông” để nói tiếp câu chuyện dang dở. Sau bữa cơm tối ở nhà em Điền gọi điện đến cho em nhiều lần. Điền bảo muốn gặp em. Em hỏi có chuyện gì, Điền chỉ nói rằng chuyện khúc sông trôi. Em lại cứ cho đó là câu chuyện lãng mạn của đời em và Điền nên cứ đủng đỉnh vì còn muốn gặm nhấm nỗi hả hê dày vò Điền. Cuối cùng sốt ruột quá, Điền phải nói thẳng với em rằng: “Hãy dừng ngay việc làm đường bên bờ trái của dòng sông”

     

    - Chứ không phải chuyện khúc sông trôi hay đứng yên à?

     

    - Quyên nghe tôi đi. Tôi là đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh. Tôi đang cầm trong tay rất nhiều đơn “kêu cứu” hành động đổ tiền của xuống sông xuống biển này. Đây là chuyện rất hệ trọng và nghiêm túc...

     

    - Một mình Quyên làm sao thay đổi được. Đây là công trình do tỉnh đầu tư. Quyên chỉ là cấp thi hành thôi.

     

    - Quyên đừng làm theo lệnh của “ông ấy”. Chắc chắn ông ấy sẽ có một tương lai không tốt. Quyên hãy...

     

    Điền còn muốn nói nữa nhưng em đặt máy xuống. Vậy là Điền đã nhắc đến “ông ấy”. Em biết việc mình làm chứ. Nhưng em và bố chồng em đã ngồi cùng thuyền, nếu có đắm thì cả hai đều chìm, làm sao tránh được? Em còn mong lũ về sớm hơn nữa cơ. Ông ấy không thể giải trình được những sai phạm tài chính bao nhiêu năm qua nếu không có lũ về. Chỉ cần lũ về, vài trăm triệu sẽ mất nhưng hàng tỉ đồng sẽ được “rửa” để bù đắp vào những khoản tiền mà ông ấy trót hà lạm công quỹ. Em và ông ấy đang cần một khoản tiền lớn. Phải lợi dụng quy luật xói mòn của dòng chảy để đổ cho thiên tai đã cướp đi hàng tỉ đồng nhưng thực ra số tiền ấy đã chảy về những nơi mà ông ấy muốn. “Vì thằng Bin. Tất cả vì thằng Bin con ạ. Thôi thì vì con vì cháu mà bố con ta phải làm việc này. Hết khóa này bố sẽ nghỉ. Bố không thể để tay mình nhúng chàm hơn nữa”. Ông ấy đã nói với em như thế. Đêm cuối cùng trước ngày bị bắt Điền lại gọi điện đến cho em. Điền bảo: “Báo đài đưa tin ầm ĩ rồi. Lửa sắp cháy đến em đấy”.

     

    - Chỉ là vấn đề trình độ hạn chế thôi. Nếu cần cả lãnh đạo tỉnh và huyện sẽ kiểm điểm trước dân.

     

    - Và thế là sẽ được bỏ qua số tiền hàng tỉ trôi ra biển ư? Không đơn giản thế đâu. Quyên sắp phải trả giá cho những việc làm của mình đấy.

     

    Tự nhiên em thấy lạnh người. Giọng nói của Điền có âm sắc không bình thường. Em vội xuống giọng: “Vì thằng Bin. Điền hiểu không? Em làm mọi điều chỉ vì con em thôi”. “Không đúng. Thằng Bin không cần nhiều tiền đến thế ở ngân hàng nước ngoài. Nó cũng không thể ở hết từng ấy căn hộ. Một thiếu niên mù lòa như nó chỉ cần đến trường trẻ em khuyết tật học chữ nổi Brai và học một loại nhạc cụ nào đấy để biểu lộ tâm hồn của nó ra với đồng loại là đủ. Ngoài ra nó còn cần một người mẹ và một người đàn ông coi nó như con. Quyên có đủ những thứ mà nó cần rồi, sao Quyên lại tự đánh mất đi?” “Không, em chỉ muốn nó đầy đủ hơn nữa thôi” “Sẽ không đầy đủ hơn nữa đâu mà mất tất đấy. Nếu Quyên vào tù thì nó ở với ai? Quyên đừng ngu ngốc như thế. Hãy tỉnh táo lại đi!”

     

    - Anh có thể giúp được gì cho mẹ con em lúc này không? - Bỗng nhiên em thấy run rẩy khi hỏi lại Điền câu ấy.

     

    - Anh sẽ làm bố thằng Bin. Anh muốn cưới em!

     

    Sao Điền lại nói với em điều ấy muộn màng thế? Em hẹn Điền hôm sau sẽ ra quán cà phê “Bờ sông” để nói chuyện cụ thể hơn. Nhưng rồi câu chuyện dang dở giữa em và Điền không được tiếp tục. Em bị bắt. Xe hòm của công an tỉnh chạy qua chân cầu. Em nhìn thấy Điền đứng dưới gốc cơm nguội đợi em. Em nhìn rõ cả khuôn mặt hốc hác và hàng ria mép chưa kịp cạo của Điền. Điền nhìn theo chiếc xe hòm với một linh cảm đặc biệt. Em thấy Điền hốt hoảng đuổi theo. Nhưng bụi đã cuộn lên sau xe và khuôn mặt Điền nhòa đi. Ngày xưa Điền từng trèo lên cây cơm nguội hái quả cho em ăn. Bây giờ tự nhiên em thèm vị chát của quả cơm nguội quá. Cái cảm giác này rất giống ngày em nghén thằng Bin. Hồi đó em đã nhớ Điền quay quắt. Em đã mò ra gốc cây cơm nguội nhặt những quả rụng để ăn. Điền ơi, sao Điền lại nói với em cái điều ấy muộn thế? Tại sao Điền lại không muốn cưới em khi em chưa thuộc về “ông ấy”?

     

    - Phạm nhân Quyên, ra ngoài!

     

    Ôi, cái điệp khúc buồn nản này sao cứ vang lên mãi thế? Không phải là ra sân đi dạo nữa mà lặp lại cái hành trình muôn thủa: Khoảng sân - Hành lang - Phòng hỏi cung. Em sẽ lại gặp ai nữa đây? Còn ai muốn vào đây gặp em lúc này hả Điền?

     

    - Anh đây, anh vào đây để trả lời em câu hỏi vì sao anh lại nói điều ấy với em muộn màng thế. Anh chưa kịp nói với em điều đó kia mà.

     

    - Điền, có cần thiết nữa không?

     

    - Em cần hiểu rõ “ông ấy”. Điều ấy có cần thiết với em hay không, tự em biết. Ông ấy là bạn cùng một tổ công nhân với bố anh ở ngành đường sắt. Ông ấy tìm đến nhà anh và nói rằng phải thực lòng xin lỗi anh. Rằng con trai ông ấy ở Liên Xô về có tổ chức một đêm sinh nhật rất đặc biệt. Rằng thằng trời đánh ấy có mời em đến, thấy em đẹp quá, không làm chủ được, đã chuốc rượu cho em say rồi ngủ với em. Rằng ông cũng biết anh là bạn của em. Rằng ông rất hối hận và muốn làm bất cứ điều gì có thể làm được với anh để chuộc lỗi cho cậu con trai. Anh khờ khạo quá. Những thằng con trai khi yêu thường khờ khạo lắm. Chỉ cần bị kích vào lòng kiêu hãnh là ôi thôi, coi như mất hết trí khôn. Anh đến nhà ông ấy đôi ba lần. Ông ấy tỏ ra cực kỳ tử tế. Ông ấy đưa rất nhiều ảnh của con trai ông ấy cho anh xem. Đúng là con ông ấy đẹp, tấm ảnh nào cũng thấy toát lên sự ga lăng, khoáng đạt và đậm chất tây học. “Cậu ấy đang làm việc với những chuyên gia nước ngoài ở dưới Quảng Ninh”. Ông ấy thường nói thế và anh tin thế. Ra trường ông ấy xin cho anh về dạy ở trường điểm. Rồi ông ấy động viên anh nhập ngũ. Anh tiếp tục tin ông ấy, có lúc coi ông ấy như một người thầy, một người cha, một bậc đi trước, hiểu biết, lịch lãm, rất đáng để học tập. Trong những câu chuyện mà ông ấy nói, em hiện lên như một thứ con gái hám của, sùng ngoại, thích được rơi vào những gia đình quyền thế. Chính những điều ông ấy nói đã khiến anh tự rời xa em mặc dù anh biết rằng...

     

    “Thôi, em hiểu rồi, anh còn gì muốn nói nữa không?”, bỗng dưng em không muốn nghe nữa. Hỏi xong anh câu ấy, em đứng lên xin trở về phòng giam. Anh nói với theo: “Em không đáng chết chìm cùng thuyền với ông ấy. Anh và Bin chờ em. Khúc sông vẫn đứng yên. Cuộc đời cứ chảy nhưng tình yêu không trôi”.

     

    Tình yêu không trôi. Nhưng tình yêu của em đã bị “ông ấy” đánh cắp mất rồi còn đâu. Thằng Bin cùng huyết thống với ông ấy nhưng ông ấy không thể tiếp tục dùng thằng Bin để lợi dụng em. Và cuộc đời thằng Bin cũng không thể để ông ấy đánh cắp nốt. Đêm đó em đã xin gặp luật sư, quyết định khai ra tất cả. Ông luật sư có mái tóc bạc như cước rất vui mừng. Ông bảo với em rằng những gì mà em đã khai rất có ý nghĩa, có thể làm thay đổi nội dung vụ án...

     

    Nhưng bây giờ thì em không thiết tha gì với việc nội dung vụ án có thay đổi hay không nữa. Sáng mai tòa sẽ xử phúc thẩm. Sáng mai, một lần nữa em sẽ đứng trước vành móng ngựa. Em vừa nhận được tin ông ấy đã chết vì một cơn đau tim đột ngột. Bây giờ có lẽ thằng Bin đang khóc ông nội bằng đôi mắt mù lòa của nó. Bây giờ có lẽ Điền cũng không ngủ được vì lo cho em trước phiên tòa ngày mai. Em bỗng thấy lòng mình thanh thản. Em không còn hận thù ai nữa. Không còn căm ghét ai nữa. Cũng chẳng dằn vặt mình. Cuộc đời em hóa ra chỉ bị người khác đánh cắp thôi. Cho đến lúc em phải ra tòa em mới biết rằng mình đang bị xét xử về những tháng ngày bị đánh cắp.

     

    Anh là một nhân chứng lương tâm. Bây giờ thì em tin, rằng dòng đời cứ chảy nhưng tình yêu không trôi. Khúc sông trôi hay không trôi chẳng qua cũng chỉ là thứ hiện thực huyền ảo như tình yêu của chúng ta mà thôi.

     

    Phải không Điền?


  8. Những bước nhảy trong đêm

    Truyện ngắn của Nguyễn Đình Tú

     

    Đó là một bước nhảy phi thân từ mái quán xuống vỉa hè. Bước nhảy có sắc màu, như một đóa quỳnh bừng nở rồi bị cuốn đi trong cơn gió lốc. Bước nhảy trong những giấc mơ tiên cảm của Duy cuối cùng đã hiện ra, có hình chim ưng, có hai màu vàng đỏ, dưới ánh đèn đường mờ nhạt của đêm ba mươi.

     

    Mỗi khi nhắm mắt lại, bước nhảy thiếu nữ ấy lại chập chờn hiện về trong Duy như một nỗi ám ảnh ngọt ngào và cay đắng...

     

    Lần đầu tiên Duy rủ rê Quỳnh về quê chơi là vào đầu mùa thu. Thực ra phải nói rằng đó là một lời mời tự nhiên và chân thành. Đó cũng là lần đầu tiên Duy biết thế nào là một sàn nhảy ở thủ đô. Và, đương nhiên, cũng là lần đầu tiên biết đến Quỳnh.

     

    Hôm ấy là thứ bảy. Nhà trường cho các học viên nghỉ, những ai ở cách xa trường bán kính 20 cây số thì được về nhà. Nhà Duy ở cách xa trường gấp 7 lần cái bán kính ấy. Chợt thấy buồn. Đêm hôm trước heo may khẽ len lén tìm vào phòng ngủ. Sáng ra lại thấy mấy chiếc lá vàng rớt bên hiên cửa. Gió đi qua khóm cây trước cửa phòng và có tiếng chim bay theo chiếc lá vàng vừa rụng. Mùa thu đã đến một cách nhẹ nhàng và khó nắm bắt như thế. Trước mắt Duy là hai ngày nghỉ cuối tuần cực kỳ thừa thãi. Duy đi bộ ra cổng trường và nhảy lên xe buýt. Tự nhiên Duy nghĩ đến địa chỉ nhà một người quen. Người quen này từng đến trường thăm Duy, lại đã bảo với Duy rằng cứ nhảy lên xe buýt số 31, nó sẽ đưa đến tận cửa nhà. Người ấy là bạn của bố Duy. Người ấy giàu có và hào hoa. Người ấy có một cậu con trai bằng tuổi Duy. Người ấy còn một cô con gái nữa mà Duy chưa một lần biết mặt. Duy gọi người ấy là “Chú Nhuận”.

     

    Và chiếc xe buýt số 31 đã đưa Duy đến gặp Quỳnh. Nhà chú Nhuận đúng là giàu có nhưng có vẻ gì đó bí ẩn. Đập vào mắt Duy là những bậc cầu thang huyết dụ lượn hình trôn ốc, tay vịn có hoa văn nhiều màu. Loại trừ sự sặc sỡ thái quá thì đó là một cái cầu thang đẹp và ấn tượng. Người giúp việc đưa Duy vào vòng khách. Trong lúc Duy đang quan sát giàn đèn chùm mắc trên trần nhà thì từ những bậc cầu thang đẹp đó, cô gái có tên là Quỳnh hiện ra.

     

    - Anh là anh Duy con bác Tốn ạ?

     

    - Phải.

     

    - Bố em thường nhắc đến bố anh. Kia, ảnh của bố em và bố anh hồi còn ở chiến trường đấy. Cả nhà em đã từng về nhà anh rồi, chỉ có mỗi mình em là chưa thôi.

     

    - Đúng.

     

    - Anh Hải em bảo về nhà anh thích nhất là được đi tắm sông, rồi đi mót khoai và ăn trộm cam. Em không hiểu. Em còn bảo ở Hà Nội có mấy nghìn một cân cam, ăn nhòe, làm sao phải về quê nhà người ta ăn cắp, mà cam ở quê chán chết, chua loét, đắng ngắt...

     

    - Anh Hải có hay gửi thư về không?

     

    - Thư gì! Lúc nào cần tiền thì bốc điện thoại lên nói một câu là mẹ em lại gửi tiền sang ngay. Anh ấy chỉ cần tiền thôi chứ chẳng cần gì cả. Sinh nhật em cũng chẳng thèm hỏi thăm. Em thích một cái áo lông Kănguru quá mà anh ấy không chịu mua cho em. Nhưng thôi em chẳng cần. Bố hứa là sẽ mua cho em.

     

    - Bố mẹ em đi đến khi nào mới về?

     

    - Mẹ em đi miền Nam công tác, cuối tuần sau mới về. Bố em thì phải tối muộn. Em gọi di động cho bố rồi, bố em bảo phải giữ anh ở đây chơi đến sáng mai. Em sẽ tiếp anh.

     

    Quỳnh có một khuôn mặt rất xinh đẹp. Mái tóc hoe vàng. Son môi tô màu hồng phấn. Dưới bờ môi đẹp như vẽ là hàm răng trắng đều. Cánh mũi lấm tấm những hạt nhũ màu bạc. Đôi mắt trong nhưng khi nheo lại thì hơi già và có vẻ từng trải. Trong nói năng đôi khi như một kẻ thiếu dạy dỗ nhưng biết dừng lại đúng lúc, vì vậy vẫn còn có thể nhận ra cô gái này từng được giáo dục rất chu đáo. Và phải thừa nhận một điều, Quỳnh có giọng nói hay, cách diễn đạt rất “tự nhiên chủ nghĩa”. Cảm giác ban đầu của Duy khi tiếp xúc là hơi khó chịu. Nhưng sự chân thành của Quỳnh đã dần dần lấy lại thiện cảm trong Duy. Quỳnh vừa bước vào tuổi hai mươi, đang là sinh viên năm thứ hai của trường Du lịch. Quỳnh bảo Duy: “Bây giờ em sẽ gọi bọn quỷ sứ đến đây. Trưa nay anh em mình quậy tung cái nhà này lên. Anh Duy nhé?”

     

    Buổi trưa. Ba người bạn của Quỳnh đến. Một cậu bạn trai cao lênh khênh, hơi gầy, tóc màu đỏ, răng có đôi ba cái bịt vàng, mặt choán cặp kính to đùng. Hai cô gái đều tóc nâu môi trầm, kính gài trên đầu, áo gió buộc dây, quần bò trễ hông, dép cao gót, vai khoác túi da nhỏ hai quai, mùi mỹ phẩm tỏa ra sực nức. Cậu bạn trai tên là Tuấn, cô gái có đôi kính màu rong biển tên Huệ, cô còn lại tên Hường.

     

    Việc đầu tiên của những người trẻ tuổi này khi gặp nhau là mở nhạc. Cô gái tên Hường mang theo trong chiếc túi xách của mình một tệp đĩa với đủ các loại nhạc tây, ta. “Tao quyết định rồi Quỳnh ạ. Tối thứ sáu tuần sau bọn tao sẽ chơi đêm đầu tiên ở Hải Phòng. Bọn tao đặt tên cho Ban nhạc là Những kẻ ngỗ ngược. Ông bầu bảo ngỗ ngược trong nghệ thuật là sự khích lệ nghệ thuật phát triển. Trong tờ rơi của bọn tao cũng có những lời quảng cáo đại loại như thế. Chắc chắn là sẽ thành công”. Hường đang học năm cuối trường Trung cấp Văn hóa nghệ thuật. Lúc nãy Quỳnh giới thiệu với Duy rằng Hường có biệt danh là Madonna. Quỳnh còn nói nhỏ với Duy: “Con này có phong cách biểu diễn cực kỳ bốc lửa”. Sau khi uốn éo một lúc theo điệu nhạc phát ra từ chiếc đĩa màu bạch kim, Hường “Madonna” như sực nhớ ra, vội lục túi lấy mấy tấm ảnh đưa cho Quỳnh. “Mày xem này, tao sẽ mặc những bộ này trong đêm nhạc đầu tiên. Được không?”. Quỳnh xem xong đưa cho Duy. Duy buột miệng: “Nghe nói bây giờ người ta cấm diễn viên ra sân khấu mặc trang phục hở rốn...?”

     

    - Ông anh yên tâm đi. Bọn em sẽ có những chiêu đặc biệt để che nó đi và hở nó ra khi cần một cách hợp lý. Mà ông anh là thế nào với Quỳnh đấy? Chắc mới quen nó hả? - Hường bây giờ mới có vẻ để ý đến Duy.

     

    - Mới quen.

     

    - Anh ở phố nào?

     

    - Ở nơi mà sắp tới bạn sẽ xuống biểu diễn.

     

    - À, em hiểu rồi. Con Quỳnh này sướng thật. Lúc nào nó cũng có một vài Gã tình si rong rêu kèm như kèm kem.

     

    Nói xong câu ấy Hường lại chạy ra chỗ chiếc loa nhún nhảy theo một điệu nhạc mới. Quỳnh và Huệ đang lúi húi đang trong bếp chuẩn bị đồ ăn. Huệ có đôi mắt buồn buồn. Biệt danh của cô là Huệ sầu. Mỗi khi từ trong bếp đi ra, thấy Hường nhún nhảy, cô cũng nhảy theo. Cô nhảy đẹp chẳng kém gì Hường. Nhưng hình như cô không thích nhảy vào lúc này. Có lẽ cô cảm thấy mình còn đang có phần trách nhiệm ở trong bếp. “Đừng nghe Waves of Danube, bật Deililah đi, bài 11 ấy, mày với Tuấn nhảy Quick Waltz đẹp hơn”. “Sao mày cứ nhảy Mambo mãi thế, thử đi Samba xem nào, chân nhảy Samba của mày chưa thạo lắm đâu”. Đấy là những gì mà Huệ trao đổi với Hường. Huệ nói ít, nhưng qua những gì cô nói đủ để Duy nhận thấy cô cũng là một người có hiểu biết về âm nhạc, hoặc ít ra cô cũng là một Madonna như Hường. Tuấn rút bao thuốc lá lạ hoắc ra mời Duy. Trong khi Tuấn đang làm động tác xoay chiếc bật lửa để bắn tia nhiệt ra mồi thuốc cho Duy thì Quỳnh bỗng đưa tay từ phía sau ra rút phắt điếu thuốc trên môi Duy. “Thuốc gì đây hả Tuấn? Em xin lỗi anh Duy nhé! Để em lấy thuốc của bố em ra mời anh. Anh không hút được thuốc này đâu, bạn em chơi nặng đô lắm”. Tuấn ngước mắt lên hỏi Quỳnh: “Sao thế? Bạn đặc biệt à? Chưa dính phải không?”. Quỳnh thản nhiên: “Vô trùng”

     

    Duy cảm thấy mình đang rơi vào một tình huống rất không thuận lợi, thậm chí không cẩn thận sẽ trở nên thừa thãi và lố bịch. Những con người đang ngồi trước Duy có cuộc sống rất khác. Họ đang rất tự tin với mỗi hành động, cử chỉ của mình. Và thật lạ, tất cả những gì toát ra từ họ sao lại tự nhiên đến mức phi lý thế kia? Sự xinh đẹp phi lý! Sự giàu có phi lý! Sự tự tin phi lý! Sự sành điệu phi lý!... Nhưng hình như chính Duy mới có vẻ như đang phi lý trong con mắt họ!?

     

    Và bữa cơm được dọn ra. Không khí có vẻ thân mật hơn. Hường “Madonna” bắt đầu bộc lộ những nét hồn hậu và dễ mến. Huệ vẫn mang ánh mắt buồn buồn nhưng đã cười nhiều hơn. Tuấn thì trẻ thơ trở lại khi nói rằng lâu lắm rồi mới được ăn rau dền luộc, tự nhiên thấy nhớ mẹ quá. Mẹ Tuấn chết khi cậu ấy mới lên mười tuổi. Bố Tuấn là chủ một cửa hiệu vàng ở Hàng Bạc. Tuấn đang học Quản trị kinh doanh nhưng những gì cậu học được không hơn kinh nghiệm quản lý của bố, và đương nhiên, chẳng có lý gì khiến cậu phải chăm đến trường. Huệ và Quỳnh có vẻ thân nhau hơn. Có lẽ vì cả hai cùng học Du lịch. Thức uống là rượu tây ngâm với những lát chanh cắt mỏng. Riêng Tuấn uống kiểu khác. Cậu ta trộn rượu với sôda rồi lắc cho sủi bọt lên trước khi uống. Quỳnh có vẻ cũng thích uống kiểu đó. Quỳnh gọi đó là “Cooktai răng vàng”. Răng vàng là biệt danh của Tuấn. Duy ăn uống một cách cầm chừng. Yếm thế cũng có, tự ti cũng có, nhưng thích quan sát thì đúng hơn. Duy rất muốn có cơ hội để khai mở những tâm hồn đang mưng mẩy lên vì rượu kia nhưng sẽ không bắt đầu theo kiểu “Nghe nói bây giờ người ta cấm diễn viên ra sân khấu mặc trang phục hở rốn...?”. Cách vào chuyện như thế bất ổn. Quỳnh là một người thông minh và nhạy cảm. Cô không ngừng cố gắng để có sự hiểu nhau hơn giữa Duy và những người bạn của mình nhưng nghe ra vẫn “lệch kênh”. Thực ra Duy cũng đang là mối bận tâm của chính bản thân cô. “Anh bảo anh học chuyển loại à? Là học cái gì cơ?”. “Trước anh là sĩ quan chỉ huy, bây giờ anh học chuyển loại sang sĩ quan chính trị”. “Thế là không làm chỉ huy nữa à?”. “Vẫn làm chỉ huy nhưng trước đây chỉ huy về quân sự còn sau khi chuyển loại sẽ chỉ huy về chính trị”. Không ngờ những từ “Quân sự”, “Chính trị” lại làm những người bạn của Quỳnh có những liên tưởng thật kỳ quặc. Tuấn bảo:

     

    - Thế nghĩa là anh biết bắn súng phải không? Thằng bạn em thích chơi đồ “nóng” ấy lắm. Bữa trước nó mua được một khẩu K54. Ba vé rưỡi. Nếu nó nghe lời em chỉ dùng đồ “lạnh” cảnh cáo thôi chắc không dính án nặng đến thế. Bây giờ thì vác đá ở Thanh Hóa rồi. Mà anh bắn có giỏi không? Hôm nó mang súng ra khoe em, em cũng hơi ngán. Nó cũng bắn chưa thạo. Nó bắn được mỗi viên rồi quăng súng bỏ chạy. Sau bố mẹ nó đưa nó ra tự thú.

     

    - Nói chuyện súng ống làm gì, khiếp lên được!

     

    Hường cũng bắt đầu vào chuyện một cách hào hứng. Sau khi cắt lời Tuấn, “Madonna” quay sang Duy:

     

    - Anh bảo anh học chính trị á? Em là em chúa ghét những chuyện chính trị. Thế mà bố em suốt ngày nghe thời sự. Sáng ra nghe bản tin buổi sáng. Rồi vội vàng ra bảng tin công cộng đọc Nhân dân, Quân đội, Hà Nội mới. Rồi lại nghe bản tin buổi trưa, buổi chiều, buổi tối, bản tin cuối ngày. Xem ti vi chưa đủ, lại còn kè kè cái đài nhỏ xíu bên mình nữa. Nghe đài trong nước xong lại nghe đài BBC, RFI. Rồi ra cửa hong hóng, hễ gặp mấy ông bạn già về hưu là lại lôi vào nhà hàn huyên, lại I rắc chết bao nhiêu thằng Mỹ, Bin La đen còn sống hay đã chết, bọn khủng bố đánh bom nhà hát ở Nga, cái anh Triều Tiên mà cũng dám chơi với hạt nhân, nguyên tử mới khiếp chứ, ông A-ra-phát chuyến này chắc chết, bà Tống Mỹ Linh thì chết rồi, chết thật rồi, cả báo lẫn đài đều đưa tin thì chắc không sai đâu...

     

    Em bảo hôm nay Michael Jackson biểu diễn ở Nhật đấy, tuyển cả trẻ em Việt Nam để phụ họa cho chương trình nữa, họ mà chọn mình thì sướng quá. Bố em bảo hay ho gì cái trò gào thét nhí nhố, nhún nhảy điên cuồng ấy mà mày cứ xí xớn. Ngày xưa mẹ mày làm văn công nhưng nền nã, thuỳ mị chứ như chúng mày bây giờ cứ cong cớn, hễ lên sân khấu là phải gào, phải nhảy song phi, phải nhắm tịt mắt, những cái ấy đừng khoe ra trước mắt tao, tao mà điên tiết là tao cho mấy cái bạt tai. Em bảo bà Tống Mĩ Linh chết thì liên quan gì đến bố mà bố cứ sùng sục lên thế? Bà ấy có tốt đẹp gì đâu. Bố mà chưa thông báo được cho ai cái tin bà ấy chết thì ấm trà trong bộ ấm chén bát tràng kia chắc chắn là không còn hương vị gì nữa, thậm chí ăn cơm cũng thấy đắng miệng. Bố quan tâm đã đành bố lại bắt cả nhà phải quan tâm theo, có phải bố làm khổ mọi người không? Bố em ngồi đờ ra một lúc rồi bảo: Cút, cái loại xướng ca vô loài chúng mày thì biết cái gì! Em dắt xe ra khỏi nhà bảo, vô loài mà mỗi đêm nhả ra vài câu ú ớ thu về vài chục triệu catsê thì ai cũng muốn vô loài cả. Bố em ném theo cái chén giả cổ. Em lặn luôn một hơi nửa tháng. Hôm qua bố gọi điện bảo em về nhưng em bảo bao giờ đài đưa tin bốn chín ngày bà Tống Mĩ Linh xong rồi con về, không bố lại thấy cái tin ấy nó mất thiêng đi...

     

    Hường kể đến đây thì cả nhóm đều đã ngấm rượu. Quỳnh cùng hai cô bạn gái kéo nhau lên gác ngủ, Duy và Tuấn nằm luôn trên ghế, nhắm mắt lại là quên trời đất, chẳng còn biết ngoài kia nắng có còn màu mật ong không và lá vàng có còn rụng tơi bời xuống mặt phố? Không biết Duy sẽ còn ngủ bao lâu nữa nếu không có tiếng chuông điện thoại reo. Quỳnh nghe điện xong thông báo rằng bố em đang phải đưa đoàn doanh nhân Đức lên thăm khu Đồng Mô, có thể phải ngủ lại, mai mới về, bảo anh Duy cứ ở nhà chơi, muốn đi đâu thì em đưa đi. Rồi Quỳnh hỏi Duy: “Anh có biết nhảy không?”. Duy gật đầu. Quỳnh bảo: “Cả bọn tắm rửa đi rồi tối nay đi dancing”. Tuấn từ trong buồng tắm chạy ra bảo: “Ừ, được đấy, Let’s dance!”. Hường và Huệ nãy giờ đứng thập thò trên những bậc cầu thang màu huyết dụ, nghe vậy liền đồng thanh hô: “Ok, Let’s dance!”

     

    Quỳnh đưa Duy lên tầng ba, mở cửa một phòng nhỏ và bảo: “Đây là phòng anh Hải. Có phòng tắm trong đó. Anh cứ lấy đồ của anh Hải mà mặc”. Rồi cô lại tất tả chạy xuống tầng dưới. Duy tiến lại phía cửa sổ kéo rèm. Ngoài trời thành phố đã lên đèn. Cả bọn đã ngủ như chết bốn, năm tiếng đồng hồ liền. Duy đưa tay quờ tìm công tắc điện. Ánh sáng bừng lên và Duy nhìn thấy tấm ảnh Hải chụp cùng với mình bên bờ sông quê hai chục năm về trước lồng trong khung kính để ở đầu giường. Ngày đó chú Nhuận chưa giàu như bây giờ. Chú đưa cậu con trai lớn về nhà Duy chơi. Hình như đó là thời kỳ chú Nhuận và vợ có có một sự trục trặc nhỏ nào đấy. Cậu con trai chú Nhuận rất thích Duy. Hai đứa thường ra sông chơi. Ở đó có bãi cói, có cù lao, có đám trẻ nhà quê chân tình và thật thà, có những trò chơi giản dị, có cả những bí mật mờ ám trẻ thơ. Hải mang theo chiếc máy ảnh tự động. Hải hướng dẫn cho mọi người chụp nhưng hình như cả cuộn phim chỉ có mỗi tấm ảnh đang đặt ở đầu giường này là đạt yêu cầu. Hai chú nhóc cười toe toét bên bờ sông đầy lau sậy, sau lưng là dòng phù sa, tiếp nữa là bãi ngô chạy dài, rồi đám mây trắng đang trôi trên nền trời xa hừng nắng. Hải ở chơi nhà Duy một tuần. Sau đó chú Nhuận cùng vợ quay lại đón Hải về thành phố. Bố Duy bảo: “Thôi, thông cảm được mà về với nhau là tốt rồi”. Quỳnh là kết quả sau này của sự “thông cảm được mà về với nhau” ấy. Bây giờ thì Hải đang ở nước ngoài. Học quay phim hay đạo diễn gì đó. Có lẽ cũng đã quên Duy với cái bờ sông đầy nắng gió và lau sậy này rồi?

     

    Duy tắm xong thì Quỳnh chạy lên lục lọi đống quần áo treo trong tủ của Hải. Cô yêu cầu Duy mặc quần âu, xơ mi dài tay, “đóng thùng”, đi giày da đen rộng mũi. Rất may những thứ đó Hải để lại nhiều và Duy diện khá vừa. Quỳnh bảo: “Những thứ này em mua cho anh Hải đấy. Nhưng anh ấy luôn dè bỉu nó. Anh ấy có vẻ ghét em”. Duy ngạc nhiên: “Sao lại có thể ghét một cô em gái như Quỳnh nhỉ?”. “Anh ấy xung khắc cả với mẹ em nữa. Có lần anh ấy bảo với mẹ em là mỗi khi nhìn thấy em anh ấy lại không muốn tha thứ cho mẹ. Mẹ em có lỗi lầm gì? Dường như mẹ cũng không yêu em. Chỉ có bố yêu em thôi. Em hiểu rằng, chẳng qua bố yêu mẹ nên bố yêu cả lỗi lầm của mẹ mà thôi!”

     

    Duy bắt đầu lờ mờ hiểu ra những bí ẩn trong ngôi nhà của chú Nhuận. Khi Duy bước xuống tầng dưới thì thấy xuất hiện thêm hai cậu bạn trai và một cô bạn gái nữa của Quỳnh đang ngồi chờ ở phòng khách. Duy hơi lúng túng khi ngồi lên chiếc xe tay ga của Quỳnh. Duy chưa đi xe tay ga bao giờ. Quỳnh có vẻ hồn nhiên, không để ý đến sự lúng túng ấy của Duy, cô hướng dẫn Duy cách nổ máy rồi thích thú khi thấy chiếc xe chồm lên, lao vào dòng người đông đúc trên đường phố. Sàn nhảy nằm gần một ngã tư.

     

    Cảm nhận đầu tiên của Duy là nó không sang trọng lắm. Khi điệu nhạc đầu tiên nổi lên và nhìn những đôi lứa ôm nhau ra sàn Duy hiểu rằng mình đã sai lầm khi bước chân vào đây.

     

    Không phải vì nó ô uế hay phức tạp mà vì khả năng khiêu vũ của Duy nếu bước ra sàn chắc chắn sẽ chỉ nhận được những ánh mắt coi thường mà thôi. Duy đã tin vào khả năng khiêu vũ của mình một cách ngây thơ. Những gì Duy học được ở đơn vị hoặc qua các lớp tập huấn về cán bộ Đoàn chỉ đủ để “múa may” trong các đêm lửa trại hoặc các buổi dạ hội kết nghĩa chứ không thể góp một chân nam cho Quỳnh trong sàn nhảy này. Duy lắng nghe mãi điệu nhạc đầu tiên mà vẫn không nhận ra được nó là điệu gì. Các bạn của Quỳnh đã lần lượt lên sàn rồi mà Duy vẫn không dám mời Quỳnh ra. “Anh không thích nhảy Mambo à?”. À, thì ra đó là điệu Mambo. Duy quay sang Quỳnh, thành thực: “Anh không nhảy được đâu Quỳnh ạ. Những gì anh trải qua không giống thế này”. Lần lượt các điệu Chachacha, Boston, Bebop, Tango, Rhumba... lướt qua mắt Duy. Những đôi nhảy đều đã vượt qua trình độ cơ bản. Duy đứng vào đó sẽ trở nên vô cùng lạc lõng. Có đôi ba người đến mời Quỳnh ra nhảy. Đến lúc này Duy mới biết Quỳnh có biệt danh là nhím. Quỳnh “nhím” có vẻ khá nổi tiếng trong giới nhảy trẻ. Nhưng Quỳnh đã không ra sàn với ai mà kéo Duy xuống tầng dưới ngồi uống bia. Quỳnh gọi mỗi người một chai Heineken nhỏ và cứ thế người nào người ấy dốc ngược vào miệng mình. “Hôm nay quả thực em cũng không muốn nhảy. Em chỉ muốn làm cho anh vui thôi”.

     

    - Em thấy anh có giống anh Hải không?

     

    - Đôi lúc em cứ nghĩ anh là anh Hải. Nhưng em có thể mang lại niềm vui cho anh chứ anh Hải thì không. Anh ấy căm ghét em trong khi em lại rất muốn yêu anh trai mình mà không được.

     

    - Thế là sao?

     

    - Khi em còn bé, anh ấy thường dứt tóc em, vứt đi một chiếc giày, một chiếc dép hay một bên cặp tóc của em. Một lần em bị bọn trẻ con cùng phố bắt nạt. Đúng lúc ấy anh Hải đi đến. Em sung sướng vì sẽ được anh ấy bênh vực. Nhưng anh ấy đã bỏ sang bên kia đường, thản nhiên đứng nhìn bọn con trai đánh em. Còn em thì hễ có cơ hội là tìm cách để lấy lòng anh ấy. Anh ấy từ chối tất cả. Anh ấy luôn đem cái bờ sông quê của ký ức lên mười ra để so sánh và chê bôi những gì em có. Khi em vào năm cuối cấp ba thì anh ấy đi ra nước ngoài học. Anh ấy bảo: “Tao đi để khỏi có một lúc nào đó có thể sẽ bóp cổ mày”...

     

    Thỉnh thoảng lại có một cậu trai mới lớn đi qua đá mắt đưa đẩy với Quỳnh. Anh có người yêu chưa? Quỳnh đưa chai bia lên miệng và làm như vô tình hỏi Duy câu ấy. Duy lắc đầu. Anh bằng tuổi anh Hải em. Ba mươi rồi. Anh Hải em cũng không có bạn gái. Anh Hải em thường nói xấu về phụ nữ. Tại sao lại thế? Duy không trả lời bằng cách đưa chai bia của mình lên nhưng không uống. Anh biết không? Tất cả với anh Hải chỉ có cái bờ sông quê nhà anh là thiêng liêng thôi. Chính vì thế em rất muốn một lần về nơi đó. Em muốn xem nó thế nào? Có thể em sẽ tìm thấy một điều gì đó để làm vui lòng anh Hải em chăng?

     

    - Vậy hôm nào em về quê anh chơi nhé?

     

    Duy đã bật thốt ra lời mời chân thành đó mặc dù Duy không tin rằng cái bờ sông quê nhà mình lại có thể hấp dẫn một cô gái trẻ đậm chất thành thị như Quỳnh.

     

    Lời rủ rê đó được đưa ra vào đầu mùa thu, ngay dưới sàn nhảy, trong lúc cả hai còn đang muốn tiếp tục uống bia. Sau đó là cả một mùa thu đi qua và Duy không gặp lại Quỳnh lần nào nữa. Đêm đó, khi ở sàn nhảy về Duy đã ngủ trong căn phòng bỏ không của Hải. Chiều hôm sau chú Nhuận đưa Duy trở lại trường. Chú vào siêu thị mua cho Duy một cái áo sơ mi và một ít đồ ăn đóng gói sẵn, lại còn nhét vào túi Duy một ít tiền nữa. Duy đã có trong tay địa chỉ email của Hải. Ngay tối hôm đó Duy ra quán cà phê Internet trước cổng trường viết thư cho Hải. Lá thư khá dài, trong đó có một ý rằng tại sao cậu lại có thể đối xử với cô em gái của mình tệ như thế? Một tuần sau Duy nhận được mail trả lời. Hải cho biết rằng Quỳnh không phải là con của chú Nhuận. Quỳnh là cô em gái cùng mẹ khác cha, và sự hiện hữu của Quỳnh luôn làm Hải khó chịu bởi nó nhắc tới sự phản bội của mẹ, sự tha thứ của bố, sự sụp đổ hình mẫu gia đình lý tưởng trong Hải. Lý trí bảo Hải hãy yêu quý Quỳnh nhưng tình cảm luôn xui khiến cậu làm những điều đau đớn, ê chề cho cô em gái. Cuối cùng thì lý trí đã thắng. Phần tình cảm khắc nghiệt đã chuyển hóa. Khi Hải thực sự thấy thương xót cho cô em gái thì Quỳnh đã trở nên hư hỏng. Quỳnh đã từng nghiện hút, từng đua xe, từng dùng thuốc lắc và đâm trọng thương người khác bằng dao Thái Lan. Mẹ vẫn lấy lý do vào Nam công tác để ở với những người đàn ông của mẹ, bố thì vùi đầu vào công việc để quên đi chuyện bất lực của bố. Hải phải ra đi vì sợ phải sống trong một gia đình khủng khiếp như thế, và sợ phải thừa nhận về mình một điều rằng, tất cả những sự hư hỏng của Quỳnh đều có nguyên do từ Hải. Cái lần bố gửi Hải về quê Duy khi Hải lên mười là để giải quyết chuyện khúc mắc giữa mẹ và người đàn ông kia. Vì yêu mẹ, bố đã chấp nhận em Quỳnh khi đó còn đang là một bào thai. Hải vô hình chung trở thành cái phần khuất lấp trong bố, phần không thừa nhận em Quỳnh, phần không thể tha thứ đối với mẹ. Bây giờ Hải rất muốn làm một Hải khác, tức là biến mình thành một người anh trai mẫu mực trước cô em gái nhưng không thể làm được. Mọi thứ diễn ra ngượng ngập, phi tự nhiên và giả dối. Hình ảnh Hải trong Quỳnh là như thế rồi, bây giờ Hải có muốn làm khác đi thì Hải phải chết, phải hóa thân trong một Hải khác thì cô em gái đáng thương kia mới có thể tiếp nhận được. Vì thế Hải phải ra đi. Và Hải đang bế tắc trong việc làm mới hình ảnh mình...

     

    Như thế là mọi bí ẩn trong gia đình chú Nhuận đã trở nên rõ ràng đối với Duy. Duy thấy thương người đàn ông giàu có và hào hoa ấy. Khi ông chụp ảnh với bố Duy ở chiến trường ông nở một nụ cười rất tươi. Nhìn vào nụ cười ấy không ai nghĩ rằng một tương lai buồn đang chờ đón ông. Ông là một trong số những đồng đội thành đạt nhất của bố Duy sau ngày xuất ngũ. Vậy mà ông lại đang phải gánh trên vai mình cả một bi kịch gia đình. Thi thoảng trong giấc mơ, Duy gặp lại Quỳnh. Không hiểu sao Duy rất hay mơ thấy Quỳnh đang nhảy. Bước nhảy cuối cùng của Quỳnh rất lạ. Nó như một đóa quỳnh bừng nở rồi bị cuốn đi trong cơn gió lốc. Bước nhảy ấy có hình chim ưng và hai màu vàng đỏ. Duy thường thức dậy với một nỗi lo sợ mơ hồ. Cảm giác bất ổn ấy hoàn toàn có thể lý giải được.

     

    Khi mùa thu tàn thì Quỳnh xuống trường tìm Duy. Quỳnh đưa Duy ra một khúc đê của sông Hồng, lôi trong túi xách ra nào bim bim, bò khô, chuối sấy, xúc xích, dưa chuột, bánh mì và, cả rượu nữa. Quỳnh bảo: “Em buồn quá anh Duy ơi, hôm nay em với cái Huệ sầu vừa ở tòa án về. Bố nó chính thức bị tuyên án hai mươi năm rồi. Tên tuổi bố nó có khi anh cũng biết đấy. Mấy hôm nay báo chí đưa tin ầm ĩ. Còn cái Hường Madonna thì đã bỏ vào Nam với ban nhạc điên khùng của nó rồi anh ạ. Hôm biểu diễn đêm đầu tiên em cũng đi theo để cổ vũ. Không ngờ bố nó cũng có mặt ở đó và ông đã chạy lên sân khấu lôi nó xuống tát cho mấy tát. Đêm diễn vỡ, chúng nó phải chạy bạc mặt mới trả được hết nợ. Tuấn răng vàng thì đang băng bó toàn thân. Nó đua xe trên Đường 5 và... bay xuống ruộng. Cái vũ trường mà em đưa anh đến đấy, cũng bị đóng cửa rồi. Chủ nó buôn thuốc lắc. Cái Huệ rủ em đi hít nhưng em không muốn dùng lại thứ đó nữa. Em nhớ đến anh, chạy ào qua siêu thị mua vài thứ rồi xuống đây”.

     

    Trăng lấp ló bên kia sông. Gió đầu đông lạnh cóng. Cả khúc sông buồn trôi trong ánh mắt Quỳnh. Duy chẳng biết phải an ủi Quỳnh như thế nào cả. Duy liền đọc thơ cho Quỳnh nghe. Trăng vàng đêm ấy bờ đê/ Có người ngồi gỡ lời thề cỏ may... Ôi, sao thơ hay thế? Anh đọc nữa đi! Ta đi nhưng biết về đâu chứ/ Đã dấy phong yên lộng bốn trời/ Thì cứ ở đây ngồi giữa chợ/ Uống say mà gọi thế nhân ơi? Ôi, buồn quá. Nhưng mà hay quá. Sao ngày xưa em lại ghét thơ thế nhỉ? Ngựa ơi! Hãy nghỉ chân cuồng khấu/ Cho thỏa lòng ta nỗi khát khao/ Ta chẳng mò trăng như Lý Bạch/ Nhưng tìm thi hứng mất đêm nao... Anh Hải em có thích thơ không? Mà sao anh thuộc những câu thơ lạ thế? Anh làm quân sự mà cũng lãng mạn nhỉ? Có bài thơ nào nói về khiêu vũ không hả anh? Lui đôi vai, tiến đôi chân/ Riết đôi tay, nhả đôi thân/ Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió/ Không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ/ Chân rã rời/ Quay cuồng chi được nữa/ Đất trời nghiêng ngửa/ Mà trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ/ Thành Sầu không sụp đổ, em ơi! [1]

     

    Lạnh tê tái. Trăng bàng bạc trôi trên mặt sông. Duy không muốn đọc thơ nữa mà kể cho Quỳnh nghe về đơn vị của mình. Đó là những dãy nhà nằm ngang dọc trong một thung lũng nhỏ. Vào những đêm đông như thế này tiếng gió gào thật khủng khiếp. Ở đấy có núi non, có những đồi dẻ chạy dài, có hồ nước uốn lượn, có những bãi tập địa hình rộng mênh mông. Ở đó có rất nhiều những người trẻ tuổi, đều xa gia đình cả và đều thích những vần thơ lãng mạn, hoài cổ, có hình ảnh chinh nhân. Ở đấy cũng có những người thích nhảy. Một lần Duy đi kiểm tra gác vào ban đêm. Khi qua chốt gác ở cổng phụ thấy hai cậu lính trẻ đang dạy nhảy cho nhau. Trong túi họ có một cái cátxét Walkman. Từ chiếc cátxét đó điệu nhạc chachacha phát ra vừa đủ cho hai người nghe trong vòng bán kính 2 mét. Duy đã yêu cầu họ viết kiểm điểm vì trong khi thực hiện nhiệm vụ đã tự ý làm việc riêng. Cậu lính trẻ có chiếc Walkman bảo: “Hôm nay là sinh nhật một thằng bạn thân của em. Nếu ở nhà thì bọn em đã quậy tưng bừng ở Kinh Đô rồi kéo nhau ra Ngõ Huyện hát cả đêm. Lâu lắm rồi em không được nghe nhạc sống. Nhớ những bước nhảy quá!”. Kể xong câu chuyện đó Duy bảo với Quỳnh rằng Duy luôn nghĩ mình còn trẻ nhưng có lẽ Duy không hiểu hết được những người trẻ. Mãi hôm đi với Quỳnh lên sàn nhảy, Duy mới hiểu thế nào là “thèm nhạc sống” và “nhớ những bước nhảy” của những cậu trai phố. Hai cậu lính trẻ ấy ra quân cả rồi, bây giờ có lẽ đang làm một nghề gì đó và biết đâu, lấy vợ rồi cũng nên?

     

    Rõ ràng những câu chuyện của Duy tẻ nhạt và xa lạ đối với Quỳnh nhưng cô lại ngồi nghe rất chăm chú. Cô có cảm giác như mình là người được tin cậy, được gửi gắm những điều tâm sự, điều mà anh trai cô không bao giờ làm đối với cô. Thật ra, trong sâu thẳm lòng mình cô còn hận anh trai lắm. Hận nhưng chỉ biết đem bản thân ra mà trả thù thôi. Cổ tay cô vẫn còn vết sẹo nhỏ như sợi chỉ. Đó là lần cô dùng lưỡi dao lam tự cắt mạch máu mình để tự tử. Đó cũng là lần duy nhất anh trai cô ôm cô vào lòng. Khi cô được cứu sống thì anh trai cô lại trở nên xa lạ. Tại sao chứ? Tại sao cô có anh trai mà lại như người dưng thế chứ? Khi trăng trôi về phía thượng nguồn thì Duy đưa Quỳnh về. Mặt Quỳnh đã tái đi và người cô thì rét run lên. Trước khi chia tay Duy, Quỳnh bảo “Hôm nào anh chép cho em mấy bài thơ anh vừa đọc nhé”. Từ hôm ấy, hễ có khi nào được ra khỏi trường là Duy lại lên nhà chú Nhuận chơi. Vợ chú Nhuận hồn hậu, vồn vã nhưng lúc nào cũng như đang còn phải làm dở một việc gì đó. Duy không sao nắm bắt nổi người đàn bà đẹp này. Chỉ có mùi nước hoa rất đặc trưng của bà là Duy còn lưu giữ được. Nó quyến rũ và gợi cho người ta cảm giác muốn đi ngủ. Bà luôn tránh cái nhìn của Duy và thường bỏ đi mỗi khi còn lại hai người. Bà nói với Quỳnh rằng Duy là một chàng trai trung thực, cậu ấy có ánh mắt rất nghiêm nghị, ánh mắt ấy gây cho người đối thoại cảm giác mình là kẻ tầm phào. Chú Nhuận rất vui. Chú cảm nhận được Duy có ảnh hưởng tích cực đến cô con gái bướng bỉnh và ham chơi của mình. Duy ít gặp lại đám bạn cũ của Quỳnh. Chỉ thỉnh thoảng thấy Tuấn tạt qua trao đổi gì đó với Quỳnh rồi lại rồ ga phóng vụt đi. Đôi ba lần Quỳnh đưa Duy đến nhà Huệ. Huệ có vẻ như đang trượt dốc thê thảm. Cô đã bỏ học và đang làm thủ tục xuất cảnh. Quỳnh đi học thêm một lớp nấu ăn. Lời mời về quê Duy chơi vẫn còn nguyên giá trị, và hai người hẹn nhau sẽ thực hiện điều đó vào dịp tết.

     

    Và dịp tết đã đến.

     

    Hai người thỏa thuận với nhau rằng Duy phải đón giao thừa ở nhà Quỳnh, sau đó cả hai sẽ về quê Duy vào sáng mùng Một. Đó không chỉ là ý của Quỳnh mà còn là ý của chú Nhuận nữa. Điều này cũng phù hợp với ca trực của Duy ở trường. Quỳnh đón Duy lên nhà từ chiều ba mươi. Cô đưa Duy đi chợ hoa Hàng Lược, rồi ra Hàng Mã, ngược lên Bờ Hồ, đi triển lãm Giảng Võ. Cô luôn miệng hỏi Duy thích cái gì? Duy bảo thích lấy vợ. Quỳnh bảo không được, lấy vợ thì Quỳnh sẽ mất ông anh ngốc nghếch và đáng yêu! Quỳnh khuân hết thứ này đến thứ khác về nhà, ngồi một lúc rồi lại nhớ ra còn quên cái này cái nọ, thế là lại lôi Duy đi. Khi từ siêu thị Tràng Tiền bước ra, Quỳnh gặp Tuấn. Tuấn bảo: “Vẫn thế chứ, không thay đổi nhé?”. Quỳnh gật đầu, khẽ đưa ngón tay cái lên làm hiệu. Chú Nhuận vướng đưa mấy ông bạn đối tác người nước ngoài đi xem chợ xuân, mãi hơn mười giờ mới về. Vợ chú ở nhà lúi húi soạn sửa việc cúng giao thừa. Hải gọi điện về vào lúc mười một giờ. Hải bảo muốn gọi vào lúc giao thừa nhưng sợ nghẽn mạch, thôi thì gọi trước cho chắc ăn. Duy có cầm máy nói chuyện với Hải đôi ba câu. Duy cảm nhận được sự yên ấm và hạnh phúc đang hiện hữu trong căn nhà của chú Nhuận. Không khí gia đình chú trước khoảnh khắc giao thời khác hẳn mọi ngày. Vợ chú Nhuận có vẻ điềm đạm và bình thản hơn. Bà chủ động chuyện trò với Duy. Bà sợ Duy nhớ nhà và tủi thân. Chú Nhuận bật rượu ra mời Duy. Có vẻ như muốn lai rai chờ đến giao thừa luôn. Nhưng Quỳnh nháy Duy đứng dậy để đi bẻ cành lộc.

     

    Quỳnh mặc một bộ đồ thể thao màu đỏ xen những sọc vàng. Trông cô khỏe khoắn, trẻ trung có phần hồn nhiên, nhí nhảnh. Duy thấy nhớ nhà, nhớ đơn vị, nhưng đi bên Quỳnh thì lại thấy vui. Máy di động của Quỳnh chuông đổ liên tục. Cô tắt máy đi, không nghe. Hai người đi lòng vòng một lúc thì sắp đến giao thừa. Quỳnh mua mấy cành phát tài làm lộc rồi bảo Duy quay về cho kịp giờ. Khi ti vi truyền trực tiếp chương trình bắn pháo hoa thì Duy cùng Quỳnh và vợ chồng chú Nhuận nâng ly chúc mừng năm mới. Quỳnh chỉ uống một ly duy nhất rồi bảo: “Con đi ngủ đây. Lấy sức để mai còn đi đường xa”. Duy bỗng thấy cảm động. Cả nhà chú Nhuận đã chuẩn bị cho Duy rất chu đáo. Ngày mai hai anh em sẽ về nhà Duy bằng xe máy. Với Duy, có lẽ đây là một cái tết đáng nhớ. Duy thấy phấn chấn, liên tục giơ ly lên cụng cùng chú Nhuận. Cạn chai rượu thì chú Nhuận nhắc Duy đi ngủ. Thế là tàn giao thừa. Lại một đêm ba mươi nữa trôi qua trong đời. Nhanh thật!

     

    Duy leo lên cầu thang, lần bước về phòng Hải. Duy đã quen với căn phòng này. Khi Duy tắt điện chuẩn bị đi ngủ thì có một bóng người lướt qua cửa phòng. Lúc đầu Duy cho là ảo giác vì thấy trong người cũng đã ngà ngà, rất có thể nhìn gà hóa cuốc. Nhưng cái bóng người ấy hình như mặc một bộ đồ màu đỏ? Duy bỗng nghĩ đến Quỳnh. Duy liền nhẹ nhàng bước theo những bậc cầu thang dẫn lên sân thượng. Cửa trổ ra sân không chốt. Đúng là có người đã ra ngoài. Chẳng lẽ Quỳnh không ngủ được, muốn ra sân thượng ngắm đất trời trong khoảnh khắc vào xuân? Duy đẩy cửa bước ra. Sân thượng vắng tanh. Duy đi ra phía trước. Và lần này thì không phải là ảo giác nữa, Duy đã nhìn thấy Quỳnh đang lom khom đi trên mái nhà hàng xóm. Từ sân thượng nhà mình, Quỳnh tụt xuống mái nhà bên cạnh thấp hơn, rồi Quỳnh lại tụt tiếp xuống tầng dưới. Nhà hàng xóm có một mái quán trổ ra phía mặt đường. Quỳnh nhẹ nhàng lần ra mái quán ấy và cô nhún mình nhảy xuống vỉa hè. Duy nhắm mắt lại. Bước nhảy có hình chim ưng và hai màu vàng đỏ! Duy định cất tiếng gọi nhưng không kịp nữa. Sau khi tiếp đất Quỳnh ngã lăn ra nhưng cô lại gượng dậy ngay. Cô chạy xuống lòng đường và leo lên một chiếc xe máy chờ sẵn. Chiếc xe phóng vụt đi. Duy đã nhận ra cái dáng quen thuộc của người cầm lái. Một cảm giác như là ghen tuông bỗng xuất hiện và cứ thế lớn dần lên trong Duy.

     

    Quay trở lại phòng nhưng Duy không sao ngủ được. Không biết thời gian trôi qua được bao lâu thì có tiếng chuông điện thoại. Duy chạy xuống phòng Quỳnh nhấc máy kéo dài. Tiếng Huệ “sầu” run run: “Anh Duy ơi, cái Quỳnh đua xe bị tai nạn rồi. Bữa trước thằng Tuấn răng vàng đua bị thua. Chúng nó thách nhau đua vào đêm nay. Luật chơi là mỗi xe phải có một nam một nữ. Thằng Tuấn thì hiếu thắng, cái Quỳnh lại nể bạn nên chấp nhận ngồi cùng. Nó bảo chỉ ngồi một lần này nữa thôi, nhưng mà...”.

     

    Duy nghe thấy một tiếng “cạch” rất to. Tiếng của tổ hợp điện thoại rơi xuống đất! Vậy là ở dưới nhà chú Nhuận hoặc vợ chú cũng đã nghe thấy hết cả. Bước nhảy trong những giấc mơ tiên cảm của Duy cuối cùng đã hiện ra. Đó là một bước nhảy phi thân từ mái quán xuống vỉa hè. Bước nhảy có sắc màu, như một đóa quỳnh bừng nở rồi bị cuốn trôi đi trong cơn gió lốc...

     

     

    -------------------------

    [1] Thơ của Phạm Công Trứ, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương.


  9. Tiếng thở thời gian

    Truyện ngắn của Nguyễn Đình Tú

     

    Năm đó chúng tôi học lớp 9. “Chúng tôi” tức là tôi, thằng Hoàng và thằng Dương. Trường chúng tôi học là trường dân lập bán trú. So với bạn bè cùng lứa thì ba đứa chúng tôi đã là những “chàng trai” thực sự dù chưa ai bước qua tuổi 15.

     

    Chúng tôi đều cao một mét sáu. Đều là con cái của những gia đình khá giả. Đều mê thể thao. Đều thích ca nhạc và hâm mộ những ca sĩ trẻ người miền Nam. Cả ba chúng tôi đều tham gia fan club (Câu lạc bộ những người hâm mộ) một nam ca sĩ rất trẻ đẹp và từng đóng phim. Tất nhiên, phải nói thêm một điều này nữa, cả ba chúng tôi đều đẹp trai. Chúng tôi ý thức được sự đẹp trai của mình bắt đầu từ khi để ý đến mái tóc. Sáng nào tôi cũng gội đầu và vuốt keo bọt lên tóc rồi mới đến trường. Buổi trưa chúng tôi ăn ở trường. Buổi chiều chúng tôi chơi thể thao xong rồi mới về nhà. Ngôi trường đó phù hợp với những cậu thiếu niên, còn chúng tôi, thật không may lại lớn nhanh trước tuổi! Và những phát sinh tình cảm cũng trở nên phức tạp hơn. Chúng tôi thích xem những bộ phim về tình yêu của Hàn Quốc. Dù ít dù nhiều những mối tình kiểu xinê ấy cũng tác động đến những cậu nhóc cao một mét sáu như chúng tôi. Đây chính là điều làm cô giáo Huệ Huệ, chủ nhiệm lớp, phải nhiều phen phiền hà với đám học sinh tuổi mới lớn của mình.

    Học kỳ một năm ấy thằng Hoàng và thằng Dương thông báo với tôi rằng chúng nó đều yêu em Lan ở lớp 9B. Em Lan hẹn chúng nó buổi chiều, sau giờ học cả hai lên lớp em Lan để quyết định vấn đề em Lan sẽ thuộc về ai. Tôi cũng được mời với tư cách là người làm chứng và nếu có thể thì sẽ là trọng tài phân xử đôi bên.

     

    Cả buổi học hôm ấy tôi để ý thấy nét mặt của hai cậu bạn tỏ ra căng thẳng. Hết giờ học chúng tôi lên tầng ba. Em Lan đang ngồi chờ trong phòng học. Chúng tôi khép cửa lại. Em Lan nói luôn:

     

    - Hai bạn đều bảo là yêu tớ phải không? Bây giờ tớ muốn xem cách thể hiện tình cảm của các bạn thế nào? Qua cách thể hiện ấy, bạn nào chứng tỏ yêu tớ hơn, tớ sẽ yêu bạn đó.

     

    Thằng Hoàng và thằng Dương đều tỏ ra lúng túng. Tôi bỗng cảm thấy hồi hộp. Dẫu sao thì chúng tôi cũng chỉ là những chú nhóc lộc ngộc mà thôi. Cái mà em Lan gọi là “Hai bạn đều bảo yêu tớ” chẳng qua chỉ là những trò diễn trên giấy dưới hình thức những mẩu thư nhét trong góc ngăn bàn. Cũng như việc chúng tôi vẫn thường hý hoáy vẽ hình trái tim có mũi tên xuyên qua vào những giờ học trên lớp nhưng có biết gì về cái gọi là nỗi đau tình ái đâu! Hoặc những câu đại loại như Lạy Chúa! Con biết yêu là có tội, nhưng con xin suốt đời có tội để được yêu! thì trong sổ tay của cô cậu học trò nào mà chẳng có. Nhưng tôi cam đoan chẳng ai biết Chúa là gì và cũng chẳng ai dám nói đến chữ “yêu” trước mặt thầy cô giáo và phụ huynh bao giờ. Bởi chúng tôi vẫn là những đứa trẻ. Ngốc nghếch và sợ sệt đủ điều.

     

    Thế mà bây giờ thằng Hoàng và thằng Dương phải biến cái mớ lý thuyết tình yêu chắp vá của chúng nó thành hành động cụ thể. Em Lan đang đứng giữa lớp chờ đợi hành động của chúng nó một cách thách thức. Đã lỡ lên ngựa rồi, không thể không phóng đi. Thằng Hoàng nhìn thằng Dương. Thằng Dương nhìn lại ra điều thách đố. Thằng Hoàng có vẻ như lấy can đảm, tiến đến chỗ em Lan và “thơm” vào bên má trái của “người đẹp”. Sau hành động đó đôi môi của thằng Hoàng mấp máy: “Tớ yêu bạn!”. Em Lan vẫn đứng yên không nhúc nhích, hai hàm răng trắng vẫn tiếp tục nghiến không mệt mỏi vào miếng kẹo cao su. Thằng Hoàng lùi ra, coi như đã xong phần thể hiện của mình. Tôi thấy mồ hôi rịn ra trên trán thằng Dương. Miệng nó cũng đang nhai kẹo cao su. Rồi nó nhổ kẹo đi và tiến những bước dứt khoát tới trước mặt em Lan. Nó quỳ sụp xuống như kiểu các võ sĩ đạo Nhật Bản quỳ trước sư phụ. Đầu nó từ từ ngẩng lên. Mắt nó nhìn em Lan và miệng nó nói: “Tôi yêu em!”. Rồi nó từ từ đứng dậy và định gắn môi mình vào hàm răng trắng đang nhai kẹo của “người đẹp”. Bỗng cánh cửa bật mở. Cô giáo Huệ Huệ xuất hiện khiến tất cả chúng tôi sợ hết hồn.

     

    - Các cô cậu làm gì thế này?

     

    - Thưa cô, con...

     

    - Thưa cô, con...

     

    Chúng tôi đều lúng túng, mắt đảo quanh xem có chỗ nào chạy được thì chạy, chui được thì chui nhưng cửa sổ từ tầng ba không thể nhảy, nền nhà dưới chân cũng không thể nứt. Chúng tôi rúm ró một cách thảm hại. Cả bọn líu ríu theo cô giáo xuống văn phòng. Sau khi nghe tường trình lại đầu đuôi sự việc, cô Huệ trao trả em Lan lại cho cô chủ nhiệm lớp 9B. Còn ba thằng chúng tôi, cô bảo: “Bây giờ cô gọi điện cho phụ huynh của ba con đến đây phản ánh lại sự việc vừa rồi, các con thấy thế nào?”. Thằng Hoàng và thằng Dương cúi gằm mặt xuống không dám nói một câu. Tôi biết là chúng nó rất sợ. Chúng nó sợ thì đúng rồi, còn tôi có làm gì đâu mà cô lại đòi mách bố mẹ tôi? Tôi bảo:

     

    - Thưa cô, con chỉ được mời làm chứng thôi, con xin cô đừng báo cho bố mẹ con biết. Con không tham gia vào những vụ như thế này nữa ạ.

     

    Cô Huệ hỏi:

     

    - Các con có biết năm nay các con bao nhiêu tuổi không?

     

    Cả ba chúng tôi cùng đồng thanh:

     

    - Dạ biết ạ!

     

    - Tuổi ấy mà dám nói chuyện yêu đương được sao? Sang năm các con thi vào cấp ba. Sau đó các con còn vào đại học. Tốt nghiệp đại học lúc ấy mới là người trưởng thành. Việc của các con bây giờ là phải học cho tốt. Bất kỳ điều gì ảnh hưởng đến học tập đều không được phép làm. Tình yêu là chuyện của người lớn, các con không nên nghĩ đến điều ấy mà chỉ nên nghĩ đến tình bạn thôi. Cô nói như thế, các con thấy có đúng không?

     

    - Dạ, đúng ạ.

     

    - Bây giờ các con về nhà. Cô sẽ giữ chuyện này đến khi nào thích hợp sẽ trao đổi với bố mẹ các con. Nhưng phải hứa với cô là không để chuyện này tái diễn nữa nghe chưa?

     

    Chúng tôi thở phào. Nhưng dù sao thì sự việc ấy cũng như một cái án lưu, lúc nào cũng treo lơ lửng trên đầu. Trước đây chúng tôi sợ cô Huệ Huệ một thì bây giờ sợ lên gấp mười. Cô Huệ Huệ 36 tuổi, chưa có chồng. Cô khá đẹp và duyên. Cô là giáo viên dạy giỏi môn toán. Cô còn viết truyện, làm thơ nữa. Cô ở một mình trong khu hộ độc thân phía sau trường. Cô có rất nhiều người đến tìm hiểu nhưng chẳng hiểu sao vẫn chưa lấy chồng. Sau sự kiện em Lan, tôi có dịp gần gũi cô hơn. Cô tặng tôi một quyển truyện do cô viết in ở nhà xuất bản Trẻ. Cô bảo đó là tác phẩm được giải trong cuộc vận động sáng tác văn học tuổi hai mươi, hợp với lứa tuổi mới lớn. Tôi đọc thấy rất thích. Tôi đưa cho cả thằng Hoàng và thằng Dương cùng đọc. Thỉnh thoảng cô còn đọc thơ cho chúng tôi nghe. Em biết không tất cả đã xa rồi, trong tiếng thở của thời gian rất khẽ... Cô hay đọc bài thơ có hai câu mở đầu như thế. Tôi đã yêu bài Chiếc lá đầu tiên của Hoàng Nhuận Cầm chính từ giọng đọc của cô. Dường như cô đã kéo chúng tôi lại gần với văn chương hơn. Nếu thiếu nghệ thuật, những thể xác cao lớn sẽ trở nên lệch lạc, không ít lần cô nói với chúng tôi như thế. Tất nhiên, ngày đó chúng tôi chưa hiểu lắm những lời cô nói. Tôi để ý thấy có một người đàn ông bảnh bao, sạch sẽ thường đến với cô. Cô giới thiệu với chúng tôi đó là bác sĩ Toàn. Bố mẹ tôi bảo chắc lần này cô sẽ lấy chồng. Chồng cô sẽ là người đàn ông tên Toàn đó. Chúng tôi không quan tâm lắm đến việc cô lấy chồng. Đó là việc của người lớn. Và chỉ có những người lớn như phụ huynh chúng tôi mới quan tâm đến điều đó thôi.

     

    Chẳng mấy chốc chúng tôi bước vào kỳ ôn thi cuối cấp. Hôm đó bộ ba chúng tôi ra sân chơi bóng ma. Sân trường vẫn còn xâm xấp nước vì trời vừa đổ một cơn mưa rào. Hoa phượng đã bắt đầu nở. Cuối buổi chiều nên học sinh đã ra về hết. Bỗng chúng tôi nhìn thấy một cô bạn cùng khóa đang dắt xe đạp ra phía cổng. Cô bạn mặc áo dài trắng, phía trước giỏ xe có một cành phượng vừa bẻ. Tôi bảo với Hoàng và Dương: “Kìa, hãy chơi bóng ma với cô bé kia đi!”. Thế là chúng tôi đá bóng về phía cô bạn nữ sinh cùng trường. Ba đứa chúng tôi dùng bóng đan thành một vòng tròn nhốt chặt cô bạn ở phía trong. Cô bé sợ hãi, cứ co rúm người lại bên chiếc xe đạp. Nhiều lần bóng tạt qua người cô gái, khiến cô giật mình, hoảng hốt. Chúng tôi cười vang thích thú. Chiếc áo dài trắng đã lấm tấm bẩn. Và quả bóng lại tiếp tục lao về phía cô bé. Lần này thì quả bóng chạm đúng bánh trước của chiếc xe đạp. Cành phượng bị hất tung lên. Cô bé vội đưa tay ra giữ lấy cành phượng và thế là chiếc xe đổ kềnh ra sân trường. Cô bé vừa muốn giữ hoa lại vừa muốn giữ xe, vì thế trở nên luống cuống và bị xe kéo ngã xoài xuống đất.

     

    Chúng tôi đã nhận ra giới hạn của trò đùa. Tôi định chạy lại phía cô gái để nâng cô ta dậy nhưng cô Huệ Huệ đã lại xuất hiện rất kịp thời. Cô nhặt cặp sách, dựng xe cho học sinh nữ kia lên rồi nói điều gì đó nhưng cô bé lắc đầu không nghe. Cô khóc rấm rứt rồi tất tả dắt xe ra cổng trường, leo lên đạp thật nhanh. Cô Huệ Huệ bước về phía chúng tôi. Cô bảo ba đứa chúng tôi đứng xếp hàng ngang trước mặt cô. Và cô vung tay lên tát liên tiếp vào những bộ mặt học trò lấm lem đất cát của chúng tôi. Tôi chưa kịp cảm nhận được cái đau từ sự giận dữ của cô thì cô bỗng ôm mặt khóc nấc lên. “Sao các con ác thế? Một cô gái trong tà áo trắng đẹp như thế, những bông hoa phượng đầu mùa đẹp như thế, mà sao các con nỡ nã bóng vào đó? Phỉ báng cái đẹp thì làm người làm gì? Các con có thể không làm ông này, bà nọ, có thể không thành đạt, có thể chỉ là những người bình thường nhưng các con nhất thiết không được tàn nhẫn với cái đẹp. Làm nhà giáo cô chỉ mong điều ấy thôi. Các con làm cô thất vọng quá!”. Tôi cứ nghĩ cô sẽ bắt chúng tôi làm bản kiểm điểm hoặc nặng hơn thì sẽ mời phụ huynh đến gặp. Nhưng cô đã bỏ qua cho chúng tôi chuyện ấy. Hôm sau cô có gặp riêng tôi và bảo: “Hôm qua cô tát các con có đau không? Đừng giận cô nhé. Con nên thay mặt cho cả nhóm đến gặp bạn gái đó xin lỗi, đừng để cô giáo chủ nhiệm bên ấy đưa vấn đề ra Ban giám hiệu sẽ không hay”. Tôi thầm cảm ơn cô và làm đúng như lời cô dặn. Cô bé đó có tên là Phượng. Thảo nào cô ta nâng niu cành phượng thế! Tôi đã làm cho cô ta quên đi trò nghịch ngợm của chúng tôi. Và khi vào cấp ba, cô bé đó còn là bạn thân của tôi nữa.

     

    Vào cấp ba, hầu như chúng tôi không còn có dịp gặp lại cô giáo Huệ Huệ. Đã có lúc chúng tôi quên cô. Vào đại học tôi học chuyên ngành khảo cổ. Thằng Hoàng học mỹ thuật ở Nga, còn thằng Dương học quản trị kinh doanh ở Úc. Một hôm thằng Dương e-mal cho tôi, nói rằng: “Vô tình được đọc một cuốn sách của cô Huệ Huệ do một người bạn cùng trường mang từ Việt Nam sang”. Rồi nó bảo tôi nên quay lại trường cũ thăm cô giáo Huệ Huệ.

     

    Nghe lời nó tôi tìm đến cô Huệ Huệ. Cô rất mừng mặc dù phải sau một lúc lâu mới nhận ra tôi. Cô gọi tôi là “em” nhưng tôi vẫn xưng “con” với cô một cách lễ phép như thời còn đi học. Tôi thưa với cô rằng cả ba chúng tôi đều chưa có người yêu vì tất cả còn mải học tập. Cô cười khi nghe tôi nhắc lại chuyện thằng Dương và thằng Hoàng đã từng thể hiện “tình yêu” với em Lan như thế nào. Đúng là trẻ con quá! Cô vẫn chưa có chồng. Cô vẫn yêu thơ và lại đọc cho tôi nghe bài Chiếc lá đầu tiên. Từ ấy thỉnh thoảng tôi ghé qua chơi với cô. Tôi và cô nói chuyện với nhau có nhiều điểm tương đồng. Có lần tôi đưa cả Phượng đến chơi. Chúng tôi vẫn là những người bạn tốt của nhau. Một lần tôi hỏi cô về bác sĩ Toàn. Cô bảo: “Người ấy bỏ cô vào cái ngày trời đổ mưa rào và cây phượng sau trường bắt đầu nở những bông đầu tiên. Cô đau khổ quá, chạy ra ngoài nhưng chẳng biết đi đâu, đang lang thang trên sân trường thì nhìn thấy các em đá bóng tới tấp vào người một bạn nữ sinh cùng khóa. Hôm ấy tôi đã tát các em. Đó là cái tát vào những bộ mặt đàn ông đẹp đẽ mà không bao giờ chịu thuộc về cô. Có lẽ đó là những cái tát chất chứa tất cả sức mạnh của cô. Tối hôm ấy về cô thấy đau dại cả cánh tay. Hôm sau nhìn các em cô thấy mình có lỗi. Cũng may là các em còn trẻ quá, chẳng nhận thấy điều gì đằng sau cái tát của cô”.

     

    Cô đã bước sang tuổi bốn mươi ba rồi. Cuối cùng thì ông trời cũng đã đền bù cho cô. Một người đàn ông là tiến sĩ về văn hóa dân gian đã đến xin hỏi cưới cô. Cô thông báo cho tôi là có thể cuối năm cô sẽ lên xe hoa. Tôi mừng cho cô nhưng cuối năm trôi qua vẫn không thấy cô gửi thiếp mời. Nhân tiện có thằng Hoàng về nước, tôi rủ nó đến chỗ cô. Hàng xóm bảo cô đi an dưỡng. Chúng tôi vào viện điều dưỡng thăm cô. Cô nằm buồn bã. Thấy chúng tôi, cô bật khóc. Cô bảo: “Các em đẹp quá. Đàn ông đẹp quá. Thế mà chẳng có ai thuộc về cô cả. Đám cưới của cô hủy bỏ rồi...”

     

    Chúng tôi ngồi lặng đi, chẳng biết phải nói với cô thế nào? Tự nhiên nước mắt tôi cũng chảy ra. Nếu cô có thể tát vào măt chúng tôi, những khuôn mặt bảnh bao đẹp đẽ của giới mày râu mà tan đi hết được ưu phiền thì chúng tôi sẵn sàng để cô tát hàng trăm cái cũng được. Nhưng cô không tát. Cô chỉ thở dài buồn bã và đọc thơ cho chúng tôi nghe.

     

    Em biết không tất cả đã xa rồi, trong tiếng thở của thời gian rất khẽ...


  10. Chuông ngân cửa phủ

    Truyện ngắn của Nguyễn Đình Tú

     

    Bây giờ thì mép quả chuông tám tấn đã cày vỡ nền xi măng, ngập xuống dưới mặt đất vài phân. Quả chuông rơi xuống đúng lúc bé Bảo Anh đang thơ thẩn chơi dưới vòm chuông nên cháu đã bị chuông... “nuốt chửng”.

     

    Đó là một ngôi phủ thiêng.

     

    Phủ được xây dựng cách nay năm trăm năm, thờ mẫu Liễu Hạnh, nằm ngay ngã ba sông, không khí linh thiêng bao trùm cả một vùng rộng lớn. Khách thập phương hễ nhìn thấy làn khói nhang tỏa ra từ nóc phủ là lập tức vọng tâm thành kính…

     

    Hôm ấy là ngày mồng một.

     

    Đường vào phủ nhỏ hẹp, độc đạo, quanh co. Bám theo trục đường là mấy bãi gửi xe, một loạt hàng ăn, các quầy vàng mã, oản hoa, tràng hạt, dây đeo trang sức. Rồi xúc xích nướng, cân sức khỏe, ép dẻo, đĩa hát, viết sớ… bày ra miên man tới tận cổng phủ. Và người. Người nêm thành dòng. Lúc dồn ứ lại, lúc từ từ chảy; lúc thảnh thơi, lúc chen lấn; lúc phăm phăm bước, lúc từ tốn đi...

     

    Trong dòng người đông đúc tiến vào phủ có một đôi vợ chồng chưa già nhưng cũng không còn trẻ. Cả hai đều đậm người. Họ làm việc cho một tổ chức của Liên hiệp quốc, anh chồng là giám đốc chương trình, chị vợ là kế toán trưởng của một dự án thuộc chương trình ấy. Chương trình có tên gọi bằng tiếng nước ngoài, nhưng xin hiểu nôm na là chuyên thực hiện các dự án đảm bảo an ninh lương thực cho các tỉnh miền núi phía bắc. Họ mang theo một cô con gái ba tuổi rưỡi, tên là Bảo Anh.

     

    Đi cùng hai vợ chồng này là một đôi trai gái còn khá trẻ. Chàng trai tên Tuấn, cô gái tên Vân. Họ gọi đôi vợ chồng nhà kia là “Anh Châu, chị Châu”. Tuấn làm cán bộ văn phòng chỗ anh Châu, còn Vân là vợ chưa cưới của Tuấn, vừa học Tài chính ra, đang muốn nhờ người yêu nói với anh Châu xin cho một chân vào chỗ dự án của chị Châu.

     

    - Chị Châu ơi, em mua cho cháu Bảo Anh cái xúc xích nướng nhé?

     

    Vân đang bế cháu Bảo Anh trên tay. Con bé đòi ăn ngay từ khi nhìn thấy hàng xúc xích nướng đầu tiên. Vân không dám mua vì sợ chị Châu chê quà rong bẩn. Nhưng nếu không mua thì lại không tỏ được cái sự quý mến cháu. Thế là Vân phải cất tiếng hỏi cho trọn cả đôi đường.

     

    Chị Châu gật đầu đồng ý ngay. Họ liền tạt vào hàng xúc xích nướng của một người phụ nữ. Tại đây có một người đàn ông ăn mày đang đứng nép mình bên cột quán. Khuôn mặt của ông ta thật quái dị: Một bên mắt bị hỏng, một bên cằm bị sứt, một bên má bị bỏng. Trông ông ta thật khó đoán tuổi. Thoạt nhìn thì trên năm mươi. Nhìn kỹ lại thấy có thể tới sáu mươi. Nhưng khi ông ta cười thì lại chỉ như mới ngoài bốn mươi. Ông ta vận một bộ veston màu đen nhàu nát, cũ kỹ, tay cầm một chiếc cặp da vàng sờn rách. Nếu ông ta đứng yên thì tứ chi có vẻ bình thường. Nhưng khi ông ta bước đi thì hai chân tập tễnh. Một bên chân của ông ta bị cụt đến gần đầu gối. Ông ta đang tồn tại trên mặt đất này bằng một chiếc chân giả.

     

    Thấy chị Châu và Vân bước vào hàng mua xúc xích, người đàn ông mặc veston đen nhìn họ nhoẻn cười cầu thân rồi chìa tay ra định cất lời xin ăn. Nhưng cái lời xin đã thuộc nằm lòng một cách rất bài bản ấy vừa cất lên được một từ đầu tiên: “Con…” thì bỗng im bặt. Cái bàn tay chìa ra kia cũng bỗng dưng lật úp xuống rồi lướt lên đầu cháu Bảo Anh.

     

    - Ôi, cháu bé xinh quá, phải mua hai cái, nhỉ?

     

    Chị Châu nhăn mặt không muốn người đàn ông nghèo nàn, rách rưới sờ vào con gái mình. Vân cũng phản ứng gay gắt. Cô gạt phắt tay của người đàn ông kia ra, ôm chặt cháu Bảo Anh vào lòng, không quên lườm ông ta một cái.

     

    Chị Châu và Vân mua xúc xích nướng xong liền bế bé Bảo Anh rảo bước theo cho kịp anh Châu và Tuấn. Ngay sau họ lúc này xuất hiện một người đàn ông tay đeo băng đỏ. Ông ta tên là Khẩn, đội trưởng đội trật tự của phủ, một “hung thần” của đám trộm cắp, móc túi, ăn xin, ăn mày. Đám ấy sợ Khẩn như sợ cọp. Đứa nào không may rơi vào tay Khẩn thì coi như hôm ấy bị Mẫu từ!

     

    Chính sự xuất hiện của đội trưởng Khẩn khiến người đàn ông mặc veston đen không dám để lộ thân phận ăn mày của mình. Nội quy phủ đã quy định rõ ràng. Cấm ăn xin, ăn mày! Đấy là lý do vì sao người đàn ông kia phải khoác lên người bộ veston nhàu và cầm theo bên mình chiếc cặp da sờn. Cải trang như thế ông ta mới lọt qua được hai chốt gác dân phòng mà không bị người ta nhận ra cái mặt ăn xin. Bây giờ lại qua mắt được đội trưởng Khẩn nữa, coi như ông ta đã vào được cửa phủ, coi như Mẫu đã thương tình cho ông ta được nhặt nhạnh chút lộc rơi lộc vãi vào cái ngày mồng một đầu tháng này.

     

    Còn hai nhân vật nữa mà người kể chuyện muốn nhắc tới, đó là một chàng trai và một cô gái. Họ còn rất trẻ. Khi nhóm chị Châu ghé vào một hàng hoa quả để chọn đồ lễ thì cũng là lúc chàng trai và cô gái này từ bên trong bước ra. Chàng trai tên là Tùng, gầy gò, lêu đêu nhưng được cái mặt mũi sáng sủa, hiện là sinh viên năm cuối, khoa văn hóa dân gian, có tài làm thơ. Cô gái tên là Thúy, sinh viên năm thứ nhất, khoa văn, vừa là người yêu vừa là người hâm mộ thơ Tùng. Đây là lần đầu tiên Thúy theo người yêu đi đến ngôi phủ này. Lễ của họ chỉ có khoảng mươi quả mận, một gói hoa và một thẻ hương. Tùng dâng cao cái đĩa đặt đồ lễ lên ngang đầu, thành kính tiến vào cửa phủ, Thúy đi bên cạnh háo hức nghe dở câu chuyện của Tùng. Câu chuyện ấy như thế này:

     

    Quỳnh Hoa là con gái Ngọc Hoàng thượng đế ở Đệ nhị Thiên Cung, do đánh rơi chén ngọc dâng rượu chúc thọ đã phải xuống trần gian đầu thai vào nhà Lê Thái Công ở làng Vân Cát, được đặt tên là Giáng Tiên. Lớn lên, nàng có nhan sắc tuyệt trần, lại giỏi thi ca, lấy chồng nhà họ Trần Thái Công, sinh hạ đủ trai, gái rồi trở về trời được đổi tên là Liễu Hạnh công chúa. Nàng giáng trần lần thứ nhất rồi lần thứ hai, đến lần thứ ba thì xuống ở hẳn hạ giới. Lần thì gặp lại người thân, lần thì dưới lốt một cô gái phóng túng giễu cợt những kẻ hiếu sắc, lần thì hóa thành vị thánh tài ba trừ bạo ngược cứu dân lành, lần lại biến thành bà già chữa bệnh cho kẻ nghèo khó…

     

    - Lạy cô! lạy cậu! Cô cậu vào phủ vái Mẫu xin may xin mắn, xin học xin hành, xin thi xin cử. Con vái cô cậu cho con xin đồng. Con nghèo hèn, mạt vận mới ra nông nỗi này, xin cô xin cậu hãy đoái thương đến thân phận một kẻ tật nguyền như con mà bố thí vài đồng bạc lẻ. Con cầu Mẫu phù hộ độ trì cho cô cậu thi đâu trúng đấy, học hành đỗ đạt, tình duyên như ý, tránh mọi tai ương… - Người đàn ông mặc bộ veston đột ngột xuất hiện trước mặt Tùng và Thúy, cất lời xin với một thứ giọng thảm thiết.

     

    Thúy co dúm người lại trước bộ mặt dị dạng của người đàn ông. Tùng hơi sững sờ. Nhưng rồi Tùng bình tĩnh lại và bảo: “Cháu trông bác có đến nỗi nào đâu mà phải đi ăn xin?”. Người đàn ông mặc veston vội phân trần: “Cô cậu ơi, con khổ lắm. Ở đây bảo vệ họ không cho ăn xin vào nên con mới phải mặc cái áo này, cầm cái cặp này để che mắt họ. Con đói lắm. Cả ngày nay con chưa có gì vào bụng. Đứa con gái hơn một tuổi của con đang vứt ngoài bờ sông kia. Nó chờ con đi xin về mới có cái mà ăn. Cô cậu thương tình cho con xin đồng, không bảo vệ nó nhìn thấy nó lại tống cổ con xuống sông bây giờ…”

     

    Thúy đã hiểu ra người đàn ông trước mặt cần gì. Cô móc ở túi quần bò phía sau ra một đồng tiền lẻ đưa cho người ăn mày. Ông ta nhận tiền, cúi gập người xuống cảm ơn rồi bỏ đi. Khi Tùng và Thúy lẫn vào với dòng người nhích dần về phía cửa phủ thì người ăn mày lại tiến đến trước mặt anh Châu và Tuấn lúc này đang đứng chờ ở phía ngoài cửa hàng hoa quả.

     

    - Con lạy hai ông. Hai ông vào phủ vái Mẫu xin may xin mắn, xin ăn nên làm ra, xin nhiều tài nhiều lộc, xin thăng quan tiến chức. Con vái hai ông cho con xin đồng. Con nghèo hèn, mạt vận mới ra nông nỗi này, xin hai ông hãy đoái thương đến thân phận một kẻ tật nguyền như con mà bố thí vài đồng bạc lẻ. Con cầu Mẫu phù hộ độ trì cho hai ông buôn đâu trúng đấy, mơ chức gì được chức đó, gặp cầu gặp vận, hóa hung thành cát, tránh mọi tai ương…

     

    Anh Châu vẫn đứng bế cháu Bảo Anh trước bụng, hơi xoay lưng lại, vờ như không nghe thấy gì. Tuấn đang trình bày một cách rất hào hứng điều gì đó với anh Châu, bị mất hứng, quay ra gạt tay:

     

    - Thôi, thôi. Không có gì đâu. Trông thế kia mà cũng đi ăn xin à? Bọn tôi cũng đang đói đây.

     

    - Con lạy hai ông! Con gái con mới hơn một tuổi. Nó đang đói lắm. Cả ngày nay nó chưa có gì cho vào bụng. Con đang vứt nó nằm ngoài bờ sông kia. Hai ông thương tình cho con xin đồng không bảo vệ nó nhìn thấy nó lại nện cho con một trận… - Người đàn ông vẫn cố nài nỉ.

     

    Đúng lúc ấy chị Châu và Vân đã sắm xong lễ. Ngoài một mâm lễ đầy do Vân đội, chị Châu còn đỡ trên tay hai đĩa lễ nhỏ nữa. Chị Châu gọi: “Anh Châu ơi, đỡ lễ hộ em với!”. Anh Châu vội đặt bé Bảo Anh xuống đất. Tuấn nhanh chân hơn, chạy tới đỡ lễ cho Vân. Trước đó Tuấn còn kịp quay sang người ăn mày, hất hàm: “Biến đi, loại mày phải để bảo vệ nó hót đi mới được”. Anh Châu cũng tiến lại đỡ lễ hộ cho vợ. Vân chuyển mâm lễ sang cho Tuấn xong thì nhìn thấy người đàn ông ăn mày. Cô hét lên:

     

    - Ối giời ơi, lại cái lão này. Khiếp quá!

     

    Tiếng hét của Vân làm mọi người đổ dồn ánh nhìn về phía cô. Người đàn ông ăn mày sợ lộ thân phận, vội lủi đi. Được vài bước thì ông ta thấy cháu Bảo Anh đứng chắn trước mặt. Bé giơ cái xúc xích nướng lên, bảo: “Cháu cho ông này”. Người đàn ông hơi ngỡ ngàng trước cử chỉ của cháu bé. Ông ta lắc đầu. Bé Bảo Anh lại bảo: “Cho ông mang về cho em bé”. Người đàn ông hỏi lại: “Em bé nào?” “Em bé hơn một tuổi nằm bên bờ sông ấy”, Bảo Anh nói. Người đàn ông chợt hiểu ra. Đúng lúc ấy chị Châu nhìn quanh không thấy con gái đâu, vội hỏi chồng:

     

    - Con đâu anh?

     

    Tuấn và Vân đã bê lễ đi trước. Anh Châu giật mình nhìn quanh. Hoá ra con gái đang đứng với người đàn ông ăn mày. Chị Châu hốt hoảng chạy lại kéo tay con bé: “Đi, đi ngay với mẹ!”

     

    Bỗng chị Châu phát hiện ra chiếc xúc xích nướng của cô con gái lại đang ở trên tay người ăn mày. Chị nghiêm mặt lại: “Sao ông lại lấy miếng xúc xích của trẻ con?”

     

    - Con cho bác ấy đấy. Cho bác ấy mang về cho em bé… - Bảo Anh nói với mẹ.

     

    Chị Châu không nói gì nữa, bế Bảo Anh lên tay quay lại chỗ chồng. Anh Châu lắc đầu, chép miệng “Man rợ. Cứ để cái bọn rác rưởi ấy nó vào chỉ làm bẩn chốn linh thiêng. Không ở đâu ngược đời như cái nước mình…”

     

    - Người ta cũng cấm đấy chứ. Nhưng nó cứ tìm mọi cách chui vào thì biết làm sao được? Mà thôi, kệ nó, chú Tuấn với cô Vân đâu rồi? - Chị Châu hỏi chồng.

     

    - Đi lên trước kia rồi. Đông quá, may có thằng Tuấn nó đội hộ cho mâm lễ…

     

    - Anh thấy cái Vân thế nào? Liệu có cho nó về chỗ em được không? - Chị Châu đón ý hỏi chồng.

     

    - Em cân nhắc xem. Nên nhận con dâu ông Bá trên văn phòng Bộ hay nhận con bé này?

     

    - Nhận con ông Bá thì trả nợ được cho người ta. Nhưng cũng nể chú Tuấn. Chú ấy hầu hạ anh chu đáo gần chục năm nay rồi còn gì?

     

    - Hầu hạ anh thì thằng nào chả muốn. Tính gì chuyện đó. Có chăng là chú ấy giúp mình nhiệt tình trong việc cầu được con Bảo Anh này. Mình ghi nhận điều ấy thôi.

     

    - Cũng nhờ chú ấy mà nhà mình thành đệ tử của Mẫu. À, tuần tới cô Tính lại rủ đi đền Sòng đấy. Chú Tuấn đang hỏi anh có muốn đi không?

     

    - Đi thì đi. Mà này, uống cái thuốc mới của thằng Tuấn chẳng thấy công hiệu gì cả. Có nên hỏi nó xem thế nào không nhỉ?

     

    Chị Châu thoáng đỏ mặt. Chán cái anh chồng ục ịch này quá. Ai lại đi nói chuyện ấy trên đường vào phủ dâng lễ! Thuốc của chú Tuấn thực ra là thuốc của cô Tính. Mà cô Tính chả nói rồi đấy thôi. Thuốc Thánh không nên quá lạm dụng. Mà cái chuyện ấy thì yếu từ hồi thanh niên chứ có phải bây giờ mới yếu đâu? Gớm, thế hoá lại hay. Khoẻ cho lắm vào rồi lồng lên vợ lớn, vợ bé, con nọ, con kia chẳng tan cửa nát nhà như chơi?

     

    Lúc này hai cô cậu sinh viên Tùng và Thúy đã vào bên trong phủ. Tùng chen lên sát điện thờ để đặt lễ rồi cả hai chấp tay khấn vái. Xong, Tùng kéo tay Thúy đi một vòng quanh các điện thờ, chỉ trỏ, giảng giải. Đây là thập nhị chầu bà gồm chầu đệ nhất thượng thiên, chầu đệ nhị thượng ngàn, chầu đệ tam thoải phủ, chầu đệ tứ khâm sai, chầu cửu thiên huyền nữ, chầu mười ở Mỏ Ba, chầu mười hai ở Bắc Lệ… Đây là thập vị tôn ông, ông Hoàng Đôi này có hai vị, ông Hoàng Tư ít được nhắc đến, ông Hoàng Bẩy ở Lào Cai, ông Hoàng Chín ở Hà Tĩnh, ông Hoàng Mười, tức quan tuần tranh là tướng của Cao Lỗ thời An Dương Vương… Mẫu Thiên hành hỏa nên có mầu đỏ, Mẫu Địa hành thổ mầu vàng, Mẫu Thủy hành thủy màu đen hoặc tía, Mẫu Sơn Lâm hành kim và mộc nên váy áo có mầu trắng và xanh…

     

    Thúy đi theo Tùng, đắm chìm trong mớ kiến thức rộng lớn của chàng. Ngược lại, nhìn vào đôi mắt mê mải của người yêu, Tùng càng nói càng say sưa. “Tâm linh trong tín ngưỡng thờ Mẫu” chính là đề tài mà Tùng sẽ viết trong luận văn tốt nghiệp. Vì thế Tùng có sự hiểu biết khá phong phú về đạo Mẫu. Đi hết một vòng điện, Tùng kéo Thúy ra ngoài sân. Thúy chỉ vào hai câu đối trên điện thờ hỏi Tùng: “Anh đọc được hai câu đối kia không”. Tùng cố huy động vốn liếng Hán nôm học được ở trường, dò dẫm đọc từng chữ:

     

    - Vô - danh - thiên - địa - chi - thủy, Hữu - danh - vạn - vật - chi - mẫu. À, cũng không khó lắm. Tạm hiểu thế này: Chưa hình thành trời đất là lúc khởi thủy, Hình thành muôn vật ấy là từ người mẹ.

     

    Tùng tiếp tục dẫn Thúy ra gốc cây ngọc lan cổ thụ ngoài sân chờ hạ lễ. Cạnh gốc ngọc lan có treo một quả chuông đồng rất to. Người ta dựng hai cái cột bê tông lên, bên trên lại đổ ngang một thanh bê tông nữa. Quả chuông được treo dưới thanh bê tông ấy. Xuất xứ của quả chuông được ghi trên cột như sau: Đại hồng chung. Cao 3,2 mét, đường kính 1,2 mét, nặng 8 tấn, thành chuông dày 4 xăng ti mét. Miệng chuông có họa tiết hình cánh sen, thân có họa tiết hoa lá, sông nước và một số văn tự bằng chữ nôm. Quả chuông này chưa được đánh một lần nào nhưng dân gian truyền miệng khi đánh lên thì dân tình đi lại trên cả ba con sông đều nghe được tiếng ngân. Đây là quả chuông lớn nhất tỉnh. Nhân dân quanh vùng vì yêu mến ngôi phủ thiêng mà đúc tặng. Trong quá trình đúc chuông, nhiều người đã tháo cả nhẫn, vòng vàng hòa tan trong đó. Khi quả chuông vừa đúc xong thì kháng chiến chống Pháp bùng nổ, nhân dân trong vùng đề phòng sự phá hoại của giặc nên đã đem ngâm quả chuông xuống một khúc sông. Sau hòa bình lập lại chuông mới được trục vớt và được treo tại đây cho du khách tham quan chiêm ngưỡng.

     

    Cách quả chuông vài mét là chiếc ghế của đội trưởng Khẩn. Mọi khi Khẩn vẫn đeo băng đỏ ngồi đấy quan sát mọi động tĩnh diễn ra ngoài cửa phủ, có việc gì xảy ra, Khẩn sẽ cùng anh em trong đội “tiến hành giải quyết”. Nhưng hôm nay không biết Khẩn đi đâu, chiếc ghế bỏ trống không ai ngồi. Nếu Khẩn vẫn ngồi đấy như mọi khi thì Tùng không dám trèo lên cây ngọc lan bẻ hoa tặng người yêu. Tùng mà không trèo lên cây ngọc lan thì mọi chuyện đã không xảy ra. Nhưng thôi, chuyện ấy sẽ kể sau, bây giờ là lúc Tùng đang chỉ cho Thúy nhìn thấy cảnh đẹp thơ mộng nơi ngã ba sông. Tùng đã từng nhiều lần đến ngôi phủ này. Cảnh ở đây đặc biệt đẹp vào lúc hoàng hôn. Tùng đã từng làm thơ vào khoảnh khắc ấy

     

    Chiều như chậm rơi

    Sóng bồng bềnh

    Sương giăng đỉnh núi mờ xa

    Phủ bâng khuâng huyền thoại

    Xa xanh hạc trắng bay về

    Chiều như cơn mơ vỗ về hồn ta

    Chắp tay lạy thánh nhân

    Nỗi buồn gieo neo

    Chợt thanh thản chiều nay

    Hồn ta tĩnh lặng

    Gió trên sông thổi mãi mái rêu phong… [1]

     

    Thúy mê những vần thơ này mà đến với Tùng. Hôm nay lại được trực tiếp đến nơi đã từng tạo nên thi tứ ấy, Thúy nhìn đâu cũng thấy đẹp, cũng thấy lòng mình lâng lâng, thổn thức. Bỗng nhiên Thúy gửi thấy mùi hoa ngọc lan phảng phất. Hương hoa quẩn với mùi khói hương tỏa lan dịu nhẹ, thanh khiết! Ước gì có bông ngọc lan cho vào khăn mùi xoa mà ngửi nhỉ! Thanh tao làm sao! Tùng đón được ý ấy của người yêu, bảo: “Em đứng đây chờ nhé”. Thúy mỉm cười sung sướng. Chàng từng đến đây nhiều lần. Chắc chàng biết cách hái thứ hoa tuyệt vời này. Thúy ngỡ là Tùng sẽ mượn của Ban quản lý phủ một cây sào để khều mấy bông hoa xuống cho mình. Ai ngờ Tùng đi thẳng ra phía gốc cây. Ở đó có một cái thang bằng sắt gắn vào thân cây. Những người trông coi phủ vẫn leo lên cây bằng lối này để hái những bông hoa đầu mùa dâng Mẫu. Lần này Tùng cũng làm theo họ. Tất nhiên Tùng đã nhìn thấy chiếc ghế bỏ không của người đội trưởng đội bảo vệ. Sẽ không có ai ngăn cản Tùng cả. Chỉ loáng một cái thôi. Khi có vài bông hoa cho người yêu rồi là Tùng sẽ nhảy xuống ngay. Tùng đã không leo lên hết các bậc thang dẫn tới chạc cây đầu tiên mà nhảy sang thanh bê tông đặt nằm ngang để treo quả chuông. Từ đây Tùng chỉ cần kiễng chân lên là có thể hái được những bông ngọc lan đang tỏa hương ngào ngạt…

     

    Khi ấy Tuấn và Vân cũng đã đặt xong mâm lễ đầy tú hụ lên mặt điện chính. Cũng giống như mọi người, Tuấn và Vân ra ngoài chờ tàn hương thì vào hạ lễ. Tuấn lướt mắt nhìn thấy vợ chồng anh Châu đã khấn xong, bây giờ đi ra phía sau phủ để cúng tiến tiền công đức. Vân kéo tay Tuấn: “Mình theo chị Châu vào cúng tiền cho phủ đi?” Tuấn gạt đi: “Kệ, vợ chồng lão giầu cứ việc cúng tiến. Mình đặt vài đồng lên mâm gọi là lòng thành được rồi”. Vân lấy đà đưa chuyện:

     

    - Nhà chị Châu giàu lắm hả anh?

     

    Tuấn gật đầu:

     

    - Giàu lắm. Phiên giao dịch chứng khoán cuối tuần trước lão ấy được hơn tỷ đấy. Thèm đẻ đứa nữa lắm. Nhưng mà lão này cũng yếu…

     

    - Cái Bảo Anh cũng là con cầu tự hả anh?

     

    - Ừ, được con này cũng là nhờ anh dẫn đến điện cô Tính. Cô Tính hầu mãi thánh mới thương tình cho chút lộc con ấy đấy. Sau này thằng nào mà vớ được con này coi như vớ được mỏ vàng. Gì chứ của hồi môn của nó cũng phải vài tỷ. Mà nay mai vợ chồng lão ấy chết cũng có mang của đi được đâu. Thế nên thèm thằng con giai nữa lắm.

     

    - Liệu anh có giúp được cho anh chị ấy lần nữa không?

     

    - Ngày xưa vợ chồng lão cũng ngu lắm. Nhờ anh giáo hóa, bây giờ mới biết đi chùa đi chiền, lễ đền lễ phủ đấy chứ. Thực ra muốn có con thì thiếu gì cách. Cái chính là mụ ấy có muốn không thôi…!

     

    - Cách gì?

     

    - Thì… thiếu gì thay đấy, yếu gì bổ sung ấy…

     

    Vân nguýt dài Tuấn một cái rồi hỏi thẳng vào điều cần hỏi:

     

    - Thế anh thấy anh Châu nói gì về việc của em chưa?

     

    Tuấn lắc đầu:

     

    - Lão này bí hiểm lắm. Anh đã đề cập mấy lần mà lão cứ lờ lớ lơ đi. Có lẽ phải đánh vào mụ ấy mới được. Em cũng nên gần gũi với mụ ấy một tí…

     

    “R…ầ…m…”

     

    “Bùng… Boong…”

     

    Có một tiếng động lớn phát ra từ phía gốc cây ngọc lan. Tiếp ngay sau đó là những âm thanh đột khởi phát ra từ chiếc chuông đồng. Cả phủ lặng đi. Ai cũng ngơ ngác trước tiếng chuông vang lên, ngân rung trong trời chiều nhập nhoạng tối. Chưa ai nghe thấy tiếng chuông ở phủ này bao giờ. Tiếng chuông quả là vang xa và có sức lan tỏa lớn. Chuông đồng suốt bao nhiêu năm im lìm, bây giờ mới được cất lên thanh âm của riêng mình, khiến tất cả mọi người ngẩn ngơ. Có điều gì đó hệ trọng, đã đành, lại có cả điều gì đó thiêng liêng nữa từ khối thanh âm vang vọng, rung lượn, tản mát, bần thần, xao xuyến kia! Cả Tuấn và Vân đều giật mình quay lại nhìn. Ở nơi phát ra tiếng động nhiều người đang nháo nhào, hốt hoảng. Có hai người len lách, xềnh xệch vừa lôi vừa khênh một thanh niên từ trong đám hỗn loạn ấy đi ra. Thanh niên đó chính là Tùng. Mắt Tùng nhắm nghiền, trên mặt có đôi ba chỗ xây xước rỉ máu, tay chân buông thõng. Thúy sụt sùi chạy theo bên cạnh, luống cuống đỡ tay rồi lại đỡ chân người yêu. “Giữ lấy hai cánh tay nó, khả năng bị gẫy tay đấy”, người khiêng sau nhắc nhở Thúy. “Làm sao thế? Làm sao thế?”. Nhiều tiếng hỏi lao xao. “Chuông rơi… Chuông rơi…”, người khiêng đầu nói. Mọi người đổ xô về chỗ treo chiếc chuông đồng. Chiếc chuông lúc này đang nằm trên nền đất láng xi măng. Một đám đông chen chúc, xúm xít xung quanh. Tiếng còi của đội trưởng Khẩn ré lên. Vòng người dãn ra rồi lại khép lại. Nhiều người hiếu kỳ vẫn tiếp tục lao về phía gốc ngọc lan để tận mắt xem điều gì xảy ra. Tuấn và Vân cũng chạy tới chỗ đám đông. Bỗng Vân nhìn thấy chị Châu mặt tái mét chạy về phía mình. “Chị Châu, làm sao thế?”, Vân vội hỏi. “Em ơi, chết rồi, cái chuông đồng nó rơi, chụp trúng ngay con Bảo Anh. Bây giờ con bé đang bị nhốt trong đó. Tuấn, Tuấn đâu rồi, anh Châu bảo em đi thuê ngay cái máy cẩu”. Tuấn nghe chị Châu nói xong, tay chân bỗng bủn rủn:

     

    - Con… con bé đang ở trong… cái chuông à?

     

    Chị Châu gào lên:

     

    - Ừ, phải làm gì cứu con ngay, giời ơi… sao giời lại hại tôi thế này?

     

    Tuấn run run rút máy di động ra:

     

    - Chị cứ… cứ… yên tâm. Để em gọi cho thằng bạn đang thầu một công trình gần đây bảo nó điều đến một chiếc cẩu…

     

    Trong lúc Tuấn gọi điện thoại, Vân ôm lấy chị Châu, lo lắng: “Trời ơi, sao chị không để cháu cho em trông. Em tưởng nó đi theo chị cơ mà? Khổ thân con bé. Anh Tuấn ơi, mau mau xem thế nào chứ không cháu nó chết mất”. “Chị vừa thả nó xuống đất, nhoáng một cái nó đã chạy ra chỗ quả chuông rồi. Chị vừa thấy nó chui vào lòng chuông, định chạy lại kéo nó ra thì ối giời ơi…”, chị Châu vừa kể vừa khóc hu hu. “Thế nào, thế nào rồi? Gọi cẩu chưa?”, anh Châu từ đâu xô ra, chạy lại hỏi. Tuấn hạ máy, chưa kịp trả lời thì anh Châu đã lại chạy đi. Tuấn chạy theo, nói với: “Em gọi rồi, nó sẽ điều đến ngay bây giờ”.

     

    - Không kịp đâu, nếu có gọi được máy cẩu thì làm sao mà vào được đây. Đường thì chật mà người thì đông lắm. Phải nhờ Ban quản lý phủ xem có cách nào không? - Một giọng ai đó cất lên trong đám đông.

     

    Chị Châu liền vùng ra khỏi vòng tay của Vân, bổ nhào về phía chiếc chuông đồng. Thật là oái oăm! Thanh bê tông treo quả chuông đã quá lâu ngày nên cốt thép bị ôxi hóa, mục nát từ bên trong. Hôm nay thanh bê tông ấy lại phải gánh thêm gần sáu mươi ki lô gam trọng lượng của anh chàng thi sĩ đa tình kia nữa, thành ra…

     

    Bây giờ thì mép quả chuông tám tấn đã cày vỡ nền xi măng, ngập xuống dưới mặt đất vài phân. Quả chuông rơi xuống đúng lúc bé Bảo Anh đang thơ thẩn chơi dưới vòm chuông nên cháu đã bị chuông... “nuốt chửng”. Anh Châu lúc này chỉ còn cách cố lấy sức mà đẩy quả chuông nhưng sức anh làm sao xô nổi quả chuông nặng tám tấn? Chị Châu vừa gào khóc vừa cùng chồng cố sức đẩy quả chuông lệch sang một bên. Dăm bẩy người nữa cũng xúm vào giúp hai vợ chồng chị Châu nhưng quả chuông vẫn trơ ra, không nhúc nhích. Đội trưởng Khẩn kiếm được ở đâu cái xà beng, chạy đến gạt mọi người ra, nói giọng oang oang: “Để tôi đưa cái này vào rồi mọi người cùng bẩy với tôi”. Anh Châu như chết đuối vớ được cọc, vội chạy đến bên Khẩn đưa tay ra cầm một đầu xà beng. Vài người nữa cùng nắm tay vào thanh xà beng sẵn sàng giúp sức. “Kiếm đâu cái nữa chứ một cái không đủ” “Đây có cái đòn gánh, các anh bẩy lên đi rồi tôi đút vào”. “Ừ, được rồi, được rồi, tôi hai ba thì bẩy nhé!”. Đội trưởng Khẩn đang lựa thế cho cái xà beng thì bỗng có người hét lên: “Không làm thế được. Quả chuông nặng lắm. Cẩn thận không nó nghiến nát con bé đấy”. Thế là tất cả lại rụt tay lại, chỉ còn chị Châu chạy quanh quả chuông gào khóc nức nở. Tuấn cũng nằm trong số những người xúm vào đẩy quả chuông. Bỗng Tuấn chợt nảy ra một ý. Anh chạy vào hậu cung của phủ. Lát sau Tuấn chạy ra, trên tay có một cái búa và một cái dùi đục. “Đục một lỗ cho không khí vào rồi chờ xe cẩu tới”. Tuấn đặt mũi đục vào thành chuông, định nện búa thì có người giữ lại. “Đừng, quả chuông này dày lắm, tiếng chuông sẽ tạo ra sức ép làm con bé thủng màng nhĩ, phọt óc ra mà chết mất”. Tuấn chùng tay lại rồi vứt búa và đục xuống đất. “Dây thừng, dây thừng đâu, quấn quanh gốc ngọc lan mà kéo”, lại có sáng kiến khác. Đội trưởng Khẩn vội chạy ra sau phủ, lát sau quay lại mang theo một cuộn dây thừng. Khẩn đút dây thừng qua lỗ móc trên đầu quả chuông rồi vắt chéo hai đầu qua gốc cây ngọc lan. Mỗi đầu dây lập tức có vài ba người bám vào.

     

    - Khi nào tôi hô thì kéo nhá - Khẩn nói - Nào, hai… ba!...

     

    “B…ự…t”

     

    Sợi dây thừng đứt tung mà quả chuông vẫn nằm yên, gắn chặt vào nền đất. Có mấy người bị sợi dây thừng văng vào mặt, hét toáng lên. Vòng tròn người dãn rộng ra được một chút. “Dây đểu. Tìm cuộn dây khác”, lại có người lên tiếng. “Ừ, dây này mủn quá, có dây ni lông không?”. Nhưng đội trưởng Khẩn không còn hào hứng nữa. Kiếm đâu ra dây ni lông bây giờ? Mọi cố gắng của người đội trưởng dường như đều vô vọng. Những ánh mắt trở nên chán nản. Khoảng sân trước phủ dày đặc những tiếng thở dài bất lực. Trong số những người xúm quanh quả chuông có cả người đàn ông mặc veston đen. Khi mọi người nháo nhác tìm cách xô đẩy quả chuông thì gã ăn mày này chỉ ngồi yên hì hụi bới đất dưới mép chuông bằng một vật sắc nhọn. Nhiều người không để ý đến ông ta. Tiếng khóc của chị Châu, của Vân, sự quay cuồng bất lực của anh Châu, của Tuấn, của đội trưởng Khẩn làm mọi sự trở nên hỗn loạn, không ai còn nghĩ ra được cách gì để cứu cháu bé đang nằm trong lòng quả chuông nữa.

     

    Tất nhiên những phút lúng túng ấy rồi cũng trôi qua mặc dù khoảng thời gian đó đủ để làm chết ngạt một con người. Xung quanh phủ lúc này là một đám đông mất trật tự. Và người vãn hồi đám đông có chiều hướng hỗn loạn ấy cuối cùng cũng đã xuất hiện. Đó là trưởng Ban quản lý phủ. Ông ta yêu cầu đội trưởng Khẩn cho anh em bảo vệ thiết lập một vòng trống xung quanh chiếc chuông đồng. Khách đến phủ tạm thời bị đẩy ra ngoài. Mấy chốt dân phòng ngoài đường cũng đã nhận được điện thoại yêu cầu ngăn không cho người và xe vào phủ nữa. Chàng thi sĩ bị ngã từ độ cao hơn bốn mét được đưa vào trạm y tế gần đấy để sơ cứu. Anh ta đã tỉnh, chỉ còn chờ chuyển lên bệnh viện để bó bột cánh tay phải nữa là ổn. Người nhà của cháu bé nạn nhân cũng được mời vào phòng khách ở hậu phủ ngồi để khỏi làm rối sự việc. Trưởng Ban quản lý phủ là người trầm tĩnh nhưng cương quyết. “Muộn thì cũng muộn rồi, không kịp thì cũng không kịp rồi. Phải bình tĩnh để xử lý. Không may cháu bé có chết thì cũng phải chịu. Không thể để khách đến phủ hỗn loạn giẫm đạp lên nhau, sẽ còn nguy hiểm hơn nhiều”. Trưởng Ban quản lý phủ nói vậy và trực tiếp cùng đội trưởng Khẩn đi một vòng quanh quả chuông xem xét, nghiên cứu cách giải quyết. Một bóng điện được kéo thêm ra gốc cây ngọc lan, soi sáng thêm khoảng sân trước phủ. Trưởng Ban bỗng nhìn thấy dưới mép chuông có một cái hốc như lỗ chuột đào. Ông vội quỳ xuống thò tay vào trong cái hốc đó. Lát sau ông ta đứng dậy, quay sang nói với đội trưởng Khẩn bằng một giọng hứng khởi: “Tốt rồi. Đứa bé sống rồi”. Đội trưởng Khẩn còn chưa hiểu ra làm sao thì trưởng Ban quản lý lại nói tiếp: “Giữ nguyên như thế này, bây giờ chỉ cần cho một người ra đây khoét thêm cái lỗ này ra và khẽ quạt lùa không khí vào là được. Sau khi giải phóng xong số người đang mắc kẹt trong phủ, sẽ cho xe cẩu vào”.

     

    Dòng người thăm phủ lúc này bị đẩy ngược trở ra. Tiếng loa phóng thanh liên tục phát đi một nội dung, đại loại: Trong phủ xảy ra sự cố đề nghị bà con tạm rời đi chỗ khác, khi nào xử lý xong Ban quản lý kính mời bà con quay trở lại thăm phủ.

     

    Trong lúc dòng người đang chảy ngược trở ra thì người đàn ông mặc veston đen lại quay về đứng bên chiếc cột quán bán xúc xích nướng. Người phụ nữ bán xúc xích vừa quạt bếp than vừa hỏi: “Sao ông biết chắc là đứa bé không chết?” Người đàn ông ăn mày trả lời bằng một giọng rất nhỏ, không sao nghe được. Người phụ nữ bán xúc xích nướng lại hỏi: “Ông lấy gì mà khoét được cái lỗ đó?”. Người đàn ông lại trả lời bằng một câu rất nhỏ, cũng không sao nghe được. Người bán xúc xích lại hỏi: “Con bé mọi khi vẫn đi với ông đâu?” Lần này thì nghe được câu trả lời của người đàn ông: “Nó ốm, nằm nhà”. Người phụ nữ lại hỏi: “Mẹ nó đâu?” Người đàn ông đáp: “Hồi đi xin ở chùa Phúc Tự, cũng có chuông rơi như thế này. Nhưng đó là một tháp chuông cũ, bỏ hoang. Tôi nhặt được nó ở trong quả chuông rơi ấy”.

     

    - Thế à? - Giọng người phụ nữ bán xúc xích lại cất lên - Này, có cái xúc xích bị vỡ, mang về cho con bé!

     

    Người đàn ông ăn mày cầm cái xúc xích vỡ cho vào trong chiếc cặp da. Ông ta nói một câu gì đó với người phụ nữ. Nhưng câu này cũng rất nhỏ, không sao nghe được.

     

     

    --------------------

    [1] Dựa theo ca từ của Phú Quang.


  11. Bên bờ hư ảo

    Truyện ngắn của Nguyễn Đình Tú

     

    Khanh bảo Hương: “Em học thêm ngoại ngữ đi, cả ngày đọc rồi, tối về lại chúi mũi vào đống sách báo ấy làm gì, dễ strees lắm!”

     

    Câu nói ấy thể hiện sự quan tâm, lo lắng của Khanh đối với người yêu. Có thể hiểu như thế và nên hiểu như thế. Cũng chẳng thể trách Khanh được. Khanh đang theo công trình lắp đặt đường dây thông tin ở một tỉnh cực Nam. Những lúc nhớ nhau, Hương chỉ còn biết gọi vào số máy di động cho Khanh. Làm như thế rất tốn tiền. Với đồng lương hợp đồng như của Hương, bày tỏ tình cảm bằng cách ấy là ngoài khả năng cho phép. Cả hai đứa đều là dân tỉnh lẻ, đều quyết chí lập nghiệp ở Hà Nội. Căn nhà thuê từ hồi còn là sinh viên vẫn tiếp tục được gia hạn hợp đồng để chờ đến cuối năm sẽ làm phòng tân hôn luôn. Hương làm ở một nhà xuất bản, giữ chân biên tập viên sách văn học, còn Khanh vào làm ở chi nhánh của tổng công ty xây lắp. Khanh phải bám theo các công trình nên đi suốt. Hương, ngoài việc đọc bản thảo ở cơ quan, đọc sách báo ở nhà, những lúc nhớ Khanh mà không đủ tiền gọi điện thoại thì chẳng biết làm gì! Chính vì thế Khanh đã tỏ sự quan tâm, lo lắng đến người yêu bằng lời khuyên đi học thêm ngoại ngữ buổi tối. Lúc đầu Hương thấy giận cho cái sự thật thà đến độ thực tế của Khanh. Đáng lẽ phải bàn đến chuyện mua ti vi, mua đài, mua máy vi tính có gắn ổ VCD để có cái giải khuây vào những đêm dài, đằng này Khanh lại muốn Hương thay đổi sự mệt mỏi này bằng một sự mệt mỏi khác. Đáng lẽ phải bàn đến chuyện mua một cái máy di động nữa để nhớ thì nhắn tin cho nhau (dịch vụ này rẻ hơn gọi nhiều), đằng này Khanh lại muốn đẩy Hương đến một trung tâm ngoại ngữ để chỉ phải tiêu tốn mỗi tháng từ ba đến năm mươi ngàn đồng cho việc nhồi nhét thêm một thứ tiếng nước ngoài nữa vào đầu. Đáng lẽ... Mà thôi! Khi xa Khanh rồi Hương lại không thấy giận Khanh nữa. Khanh đang quắt người lại để lo cho cuộc sống của hai đứa sau này. Bây giờ là lúc phải thực tế chứ không thể cứ mây mây gió gió như cái thời mới yêu nhau được. Và Hương thấy những điều Khanh nói hình như cũng có lý. Nhưng vấn đề là Hương sẽ học thứ tiếng gì đây? Nhất định là không học tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nhật hay tiếng Đức. Vài ba thứ tiếng thực dụng ấy chẳng giúp được gì cho công việc biên tập sách văn học của Hương. Mà thời sinh viên Hương cũng đã học chán mấy thứ tiếng đó rồi. Có học thế chứ học nữa cũng chỉ để làm bồi chứ chẳng thể làm phiên dịch hay biên dịch như đám chuyên ngữ được. Chỉ còn một thứ tiếng Hương thấy có thể giúp ích ít nhiều cho vốn kiến văn còn mỏng mảnh của mình, ấy là Hán Nôm. Thế là Hương đăng ký học Hán Nôm. Lớp học cách chỗ Hương làm không xa. Học ở đấy Hương thấy tiện nhiều bề.

     

    Buổi học đầu tiên Hương hơi ngạc nhiên vì trong số ba mươi hai học viên của lớp có tới ba mươi vị là ni cô, chú tiểu của các chùa xung quanh khu vực Hà Nội. Họ đều là những người rất trẻ, đều cạo đầu hoặc cắt tóc ngắn, đều mặc áo nâu sòng và đều...học hành rất chăm chỉ. Hương ngồi cùng bàn với một cậu thiếu niên chạc mười sáu, mười bảy tuổi. Cậu cũng mặc áo nâu sòng, chân đi dép xăng đan da, vai khoác túi vải kiểu sinh viên đại học vẫn thường dùng. Cậu có một khuôn mặt rất đẹp. Bất kỳ ai có lòng trắc ẩn một chút khi nhìn vào khuôn mặt ấy, lại liên tưởng với bộ áo nâu sòng kia, nhất định có sự xáo động. Đôi mắt sáng, vầng trán cao, cánh mũi thẳng, hàm răng trắng, da mặt hồng, tóc để lúp xúp, đúng là một cậu trai đang bắt đầu trổ mã, mà sẽ là một mã đẹp, mã đa tình và hào hoa! Hương chưa kịp làm quen thì cậu ta đã quay sang hỏi:

     

    - Chị học lần đầu hay học lại?

     

    Hương bảo:

     

    - Mình học lần đầu. Thế còn...?

     

    - Em tên là Tuấn. Em đang học dở chương trình B nhưng muốn quay lại học từ đầu cho chắc. Học Hán Nôm cứ phải vài ba lần. Học đi học lại mới nhớ, không giống như học tiếng Anh đâu.

     

    Hương cũng đã nghe nhiều người nói học Hán Nôm rất khó, học chữ nào biết chữ ấy, lại là thứ học để biết, để làm giàu thêm vốn kiến thức cho mình chứ không phải để đi du lịch hay đọc sách báo nước ngoài. Nếu để đọc và nghe người Trung Quốc viết và nói thì phải học tiếng Trung hiện đại. Học Hán Nôm chỉ giúp đọc văn tự cổ. Nhưng đọc được văn tự cổ, như văn bia ở các đình chùa chẳng hạn, thì cũng phải mất một phần ba cuộc đời. Chẳng ai bỏ ra một phần ba cuộc đời chỉ để làm cái việc tìm lại ngôn ngữ của cha ông, hay nói như cách của các nhà nghiên cứu là nối lại phần văn hóa bị đứt gẫy. Nghĩa là đừng đặt yếu tố thực dụng khi chọn học Hán Nôm. Cứ nhìn vào lớp học thì rõ! Ngoài các vị thầy chùa ra, chỉ có Hương và một bác già chuyên viết sớ ở đền Cổ Loa. Tất nhiên sau này Hương mới chiêm nghiệm ra điều ấy. Còn khi nghe Tuấn nói đến cái sự học đi học lại Hương cứ nghĩ rằng cậu ấy hơi quan trọng hoá vấn đề. Có thể nền của cậu ấy thấp nên học khó vào, còn Hương, Hương tin là mình không phải học đến lần thứ hai. Sự tự tin ấy theo Hương cho đến hết tuần học đầu tiên. Kiểm tra bài cũ Hương đã nói vanh vách trước thầy về lục thư tức sáu cách cấu tạo chữ Hán, nào là tượng hình, chỉ sự, hội ý, hình thanh, giả tá, chuyển chú. Rồi tám nét cơ bản của chữ Hán, nào là chấm, sổ, mác, gập, ngang, phẩy, hất, móc. Lại cả bảy nguyên tắc thư pháp, cái gì trước, cái gì sau, cứ thông làu làu, được thầy biểu dương trước cả lớp. Hương phấn khởi lắm. Nhưng sự tự tin ấy không tồn tại được lâu. Sang đến tháng học thứ hai với việc ghi nhớ khoảng gần một trăm chữ thì Hương bắt đầu thấy loạn. Thầy yêu cầu học viên đến lớp phải mang mực tàu và viết bằng bút lông. Hương tập mãi mà chữ vẫn cứ cứng quèo. Nhìn sang Tuấn, thấy nét nào ra nét ấy Hương thầm ghen tỵ. Việc học Hán Nôm quả là rất mất thời gian. Mà cái đích của việc học, dù là rất khiêm tốn, cũng trở nên mông lung, xa mờ. May là Tuấn luôn động viên Hương. Thấy Hương không viết được nét phẩy và nét mác, Tuấn đã tặng Hương một chiếc bút lông “chuyên dụng”. Tuấn bảo: “Bút này của thầy em mua ở bên Nhật, lông rất tốt, ấn không bị tõe ngòi, chị cố gắng luyện cách cầm bút nữa, chữ sẽ đẹp”

     

    Càng ngày Hương càng thấy Tuấn giống cậu em trai đang học lớp mười một của mình ở dưới quê. Tuấn hồn nhiên và không giấu diếm những suy nghĩ của mình. Tuấn không quá câu nệ trong đi đứng, nói năng, hành động, cử chỉ như những tăng ni sinh khác. Thậm chí Hương còn thấy Tuấn “đời” chẳng kém gì cậu em trai mình. Có lần Tuấn hỏi: “Sinh nhật bạn gái thì nên tặng cái gì hả chị?”. Hương ngạc nhiên: “Tuấn cũng có bạn gái à?” Tuấn bảo: “Bạn cùng lớp ấy mà, sinh nhật em các bạn đều có quà cả, đến ngày sinh của các bạn ấy em cũng phải có quà chứ”. Hương không giấu được tò mò: “Thế sinh nhật Tuấn thì tổ chức như thế nào?” Tuấn bảo: “Thì cũng bình thường như các bạn ấy thôi. Thầy em cũng tặng quà cho em kia mà. Thầy bảo Phật còn có ngày sinh, việc nhớ đến ngày sinh của mình là điều nên làm”. Hương lại hỏi: “Thế tổ chức sinh nhật ở ngay trong chùa à?” Tuấn bảo: “Vâng. Cả bạn đời lẫn bạn đồng đạo đều đến. Sao chị có vẻ ngạc nhiên thế?”. Hương bảo: “Ừ thì mình cứ nghĩ là người nhà chùa sống khác bọn mình ngoài đời. Thế các bạn tặng Tuấn những thứ gì?” Tuấn cười: “Bạn đời thì tặng nhiều thứ lắm, chủ yếu là sách vở, còn bạn đồng đạo thì tặng vải may áo nhà chùa và kinh sách”. Hương gật gù: “ Thì ra vậy! Qua Tuấn mình biết thêm được nhiều chuyện của người xuất gia”

     

    Hôm khác Tuấn lại bảo: “Chị cho em xin số điện thoại của cơ quan chị?”. Hương đọc cho Tuấn ghi xong, hỏi: “Em có đến chỗ chị chơi được không?” . Tuấn bảo: “Sao không? Chiều mai học võ, em sẽ đi sớm rồi qua chị chơi”

     

    Tuấn học võ ở công viên Thủ Lệ vào những ngày lẻ trong tuần. Chùa Tuấn ở bên Gia Lâm nên Tuấn thường đi học bằng xe máy của thầy. Hôm đó trước khi đến chơi Tuấn điện cho Hương trước. Hương nhận đón Tuấn nhưng trong lòng thấy hơi e ngại vì không biết mọi người trong cơ quan sẽ nhìn Hương như thế nào khi thấy khách là một vị sư nam? Nhưng Hương đã không phải quá lo lắng vì hôm ấy Tuấn mặc một bộ đồ võ sinh màu trắng. Tuấn rủ Hương: “Chị em mình đi ăn kem đi?” Hương dẫn Tuấn ra vườn hoa. Tuấn luôn tỏ ra xăng xái và chủ động, cứ y như một cậu trai mới lớn đang xử sự trước bạn gái vậy. “Chị thích kem hay sữa chua? Chị ăn loại kem nào? Ly to hay ly nhỏ? Chị có ăn kèm theo quế không?” Ngay cả đến Khanh cũng chỉ chăm sóc Hương được đến như thế này. Nhưng Khanh không có được sự hồn nhiên như Tuấn. Lúc nào Khanh cũng mang khuôn mặt của một người đàn ông sắp phải làm chủ gia đình trong tương lai. Tự tin và hơi cao đạo. Bận rộn và thực tế. Mệt mỏi và đòi hỏi. Chưa có thật nhiều tiền nhưng rất biết tiêu tiền kiểu ông chủ. Chưa thành đạt nhưng rất quan tâm đến cung cách hành xử của người thành đạt. Với Hương, đằng sau sự chăm sóc của Khanh là một động cơ đã thấy rõ. Còn Tuấn, Tuấn quý Hương như một người chị gái. Sự chăm sóc kia là nhu cầu tự thân, là không động cơ, là chân tình, và ánh mắt của Tuấn dường như còn chứa cả tình thương của một người em trai dành cho chị gái nữa. Hương hỏi:

     

    - Chị tưởng người nhà chùa không được sinh hoạt thoải mái như thế này? Nếu biết em đi chơi với chị thầy em có mắng không?

     

    Tuấn đáp:

     

    - Thầy em nuôi em từ năm em mới lên bảy. Em làm cái gì thầy cũng biết. Thầy chỉ không cho phép em làm những gì ảnh hưởng đến nhà chùa thôi. Em lại chưa làm lễ thế phát, cho nên em chưa phải tuân theo giới luật. Sau thế phát chắc em không còn được ngồi thoải mái với chị như thế này.

     

    - Lễ thế phát là gì?

     

    - Là lễ xuống tóc. Sau khi xuống tóc em mới chính thức là tiểu.

     

    - Làm tiểu xong rồi làm gì?

     

    - Khi nào thầy cho phép thì được thụ giới sa di.

     

    - Nghĩa là sao?

     

    - Nghĩa là làm sư đấy. Mà thôi, chị hỏi làm gì, chị không hình dung ra đâu. Thầy em bảo đạo Phật là thứ đạo có đi mới đến. Chị không đi không đến được đâu.

     

    - Thế bây giờ công việc hàng ngày của em là gì?

     

    - Là học, gồm có học phổ thông, học ngoại ngữ, học võ, ngoài ra giúp thầy những việc lặt vặt như thỉnh chuông, dọn dẹp quanh chùa, viết sớ vào ngày lễ...

     

    Hương bỗng hỏi:

     

    - Thầy em bao nhiêu tuổi?

     

    Tuấn đáp:

     

    - Thầy em ngoài ba mươi.

     

    Hương tò mò:

     

    - Thầy em có đẹp trai không?

     

    Tuấn cười:

     

    - Em không biết. Hôm nào chị sang chùa em chơi. Nói chuyện với thầy em vui lắm. Cái gì thầy cũng biết, thầy em hiền và tốt lắm. Thầy viết chữ Hán rất đẹp. Trước thầy em học Đại học sư phạm ngoại ngữ, khoa Trung văn.

     

    Những điều Tuấn nói đã kích thích trí tò mò của Hương. Hương hẹn: “Chủ nhật này mình sang Tuấn chơi đựơc không?”. Tuấn bảo: “Để em sang đón chị nhá?”. Hương bảo: “Không cần đâu, hẹn nhau ở chỗ chân cầu Chương Dương cho Tuấn đỡ vất vả”. Tuấn bảo: “Được rồi, em sẽ ra đón chị ở chân cầu”

     

    Đúng hẹn, Tuấn ra đón Hương rồi đưa về chùa. Chùa nằm ở trong một khu đất rộng. Trước cổng chùa có một cây si và một cây đa nên người dân ở đây gọi là Chùa Si Đa. Sau này khi căn bệnh thế kỷ xuất hiện và được nói đến ra rả trên đài báo thì cái tên si đa bỗng trở nên thô thiển, uế tạp, người ta không gọi tên chùa như cũ nữa mà gọi ngắn lại thành Chùa Si. Tiền cung, hậu cung, hồ vọng nguyệt, trai phòng, nhà bếp...Tuấn dẫn Hương đi thăm hết một lượt. Qua phòng thầy thì thấy đóng cửa. Tuấn bảo: “Thầy em đi giảng ở chùa trong, đến trưa sẽ về”. Lúc đầu Hương có ý chờ nhưng trưa hôm ấy thầy không về. Tuấn bảo: “Có lẽ chiều tối thầy mới về, chị cố ở lại chờ thầy về nhé?”. Hương lắc đầu, bảo: “Thôi, nhìn qua ảnh cũng đã hình dung ra thầy rồi”.

     

    Thầy không đẹp trai bằng Tuấn mặc dù có thể uyên bác hơn, Hương thầm nhận xét thế. Chữ thầy được treo ở nhiều nơi trong chùa. Nói chung đó là nét chữ của người đã đạt đến một trình độ Hán Nôm nhất định, không dễ gì mà có được. Chữ của Tuấn cũng treo khắp phòng. Nhìn chung, có thấy sự tài hoa nhưng phối trí còn chưa khéo. “Thầy toàn kêu em viết lung tung lên giấy dó, chết tiền, thầy bảo em tập viết lên giấy thường đã, khi nào đẹp rồi mới được viết vào giấy khung. Nhưng em thấy chữ em cũng đẹp rồi đấy chứ?”, Tuấn hồn nhiên kể với Hương.

     

    - Nhà em ở cách đây có xa không? - Hương hỏi.

     

    - Gần thôi, trưa nay chị về nhà em ăn cơm nhé? - Tuấn mời rất chân thành.

     

    - Ừ, nhưng em không phải xin phép thầy à?

     

    - Thì thầy đi vắng đấy thôi. Em có đi lâu đâu, chiều lại về chùa kia mà!

     

    Buổi trưa hôm ấy Hương ăn cơm ở nhà Tuấn. Mẹ Tuấn có một cửa hàng xén nho nhỏ, bày ngay trước cửa nhà, chủ yếu bán cho người trong làng, trong xã. Mẹ Tuấn độ năm mươi tuổi, hiền hậu, cởi mở, hay chuyện. Bà là người tín tâm, khi kể về việc cậu con trai xuất gia bà cho đó như là một cái duyên hạnh ngộ. Năm ấy chú mất, cô mời thầy tới đọc kinh hộ để chú đi cho nhẹ. Mấy ngày hôm đó thằng Tuấn cứ quấn lấy thầy. Sau đám, nó chỉ thích lên chùa chơi với thầy. Hễ đi học về là nó lại chạy qua với thầy, có hôm ngủ lại đó không về nhà. Rồi nó cứ xin cô cho lên chùa ở với thầy. Nghĩ cũng là cái duyên của hai thầy trò, thế là cô lên chùa xin với thầy cho nó ở nhờ cửa Phật. Thấm thoát cũng đã mười năm rồi đấy. Thầy nuôi cho ăn học hết năm nay nữa là xong cấp ba. Chả phải làm gì. Chỉ ăn với học thôi. Có khi ở nhà cô chẳng nuôi được như thế.

     

    Hương hỏi:

     

    - Em vào chùa khi còn nhỏ thế mà không nhớ mẹ, đòi về hả bác?

     

    Mẹ Tuấn bảo:

     

    - Cũng khóc, mếu máo đòi về, lại đòi cả thầy về ở cùng nữa. Về nhà được mấy hôm lại te tái lên với thầy. Vài ba bận như vậy thì thôi, không đòi về nữa.

     

    Hương thấy trong lòng bỗng trở nên nhẹ nhõm khi biết Tuấn còn một đứa em trai nữa, độ mười lăm tuổi. Hiểu theo cái nghĩa thực dụng của người đời thì bố mẹ Tuấn vẫn còn người để nối dõi. Trong thâm tâm Hương không muốn Tuấn vào chùa, không muốn Tuấn xuất gia, không muốn Tuấn bỏ đời theo đạo. Giải thích theo mẹ Tuấn thì đó là cái duyên. Còn Tuấn tự giải thích là: “Em thấy hợp với cảnh chùa, rồi ngộ ra rằng, theo thầy để diệt khổ”. Hương có lần bảo: “Em đã biết khổ là gì mà vội đi diệt khổ”. Tuấn bảo: “Làm người là khổ”. Hương bảo: “Thế thì diệt làm sao được? Chẳng lẽ lại diệt sự sống?”. Tuấn bảo: “Người là cái cây, khổ là con sâu, chỉ diệt con sâu thôi chứ không diệt cái cây”. Hương bảo: “Nhưng đời cây ấy không ra trái, không tái sinh. Như vậy có khác gì diệt sự sống?”. Tuấn lắc đầu: “Thôi, chị khắc đi khắc đến, ngồi một chỗ không nhìn thấy cuối con đường có gì đâu. Em đang đi mà chưa đến. Cũng chẳng biết nói với chị thế nào”

     

    Sau hôm sang nhà Tuấn về, tự nhiên Hương hay nghĩ về Tuấn. Rồi một ý nghĩ loé lên, càng lúc càng thôi thúc mãnh liệt. Phải rồi, Hương sẽ tìm cách nào đó để lôi Tuấn ra khỏi chùa. Người như Tuấn mà đi tu thì oan uổng lắm. Tuấn đã hiểu gì về đời đâu mà vội bỏ phí đời đi như thế? Chờ dịp Tuấn thi xong cấp ba, Hương hỏi: “Tuấn có thích học nghề sửa xe máy không?”. Tuấn hỏi lại: “Để làm gì?”. Hương bảo: “Mình có một người bạn sửa xe máy tay nghề rất cao, có thể nhận dạy Tuấn mà không thu học phí. Tuấn muốn học mình sẽ xin cho?”. Tuấn lắc đầu: “Em sẽ thi Đại học, vào học khoa triết, khoa sử hay khoa Hán Nôm gì đó, rồi em học thêm trường Trung cấp Phật giáo nữa, chị bảo học nghề sửa xe máy để làm gì?”. Hương thuyết phục: “Để về mở cửa hàng cùng với mẹ, chỗ ấy sửa xe máy rất đông khách, lại có thể dậy cho cả cậu em trai nữa, Tuấn đi tu làm gì, buồn lắm, cuộc sống ngoài đời vui hơn nhiều, Tuấn nghe lời mình đi?”

     

    Tuấn bảo:

     

    - Những điều chị nói em đã bỏ ngoài tai từ mười năm nay rồi. Mỗi người mỗi phận, em không có sự lựa chọn nào khác nữa đâu.

     

    Hương nói thế nào cũng không thuyết phục được Tuấn. Thời gian sau này hai người không còn gặp nhau thường xuyên nữa. Hương mỗi ngày một thưa vắng đến lớp Hán Nôm. Công việc biên tập làm Hương bù đầu, mớ chữ Hán kia trở nên quá tải, không nhét vào đâu được nữa. Rồi Hương bỏ lớp. Thỉnh thoảng Hương gặp Tuấn qua điện thoại. Sau này khi máy tính ở chùa Tuấn nối mạng thì Tuấn thường xuyên i meo

     

     

    cho Hương. Cũng có lần Tuấn đến nhà trọ chơi với Hương. Lần thì Tuấn hỏi Hương cách ôn thi đại học? Lần thì Tuấn mang cho hương một vốc hoa ngọc lan. Có lần Tuấn lại đưa cho Hương xem cả một lá thư của một cô bạn học cùng lớp cấp ba nữa. Cuối năm ấy Hương thông báo cho Tuấn biết tin Hương sắp cưới. Mấy ngày hôm nay Khanh đang đi hỏi mua giường, tủ, đặt thiếp, chọn khách sạn và lên danh sách khách mời. Hương bảo: “Nhất định Tuấn phải sang đấy nhé. Hôm đón dâu Tuấn phải về quê chị chơi”. Tuấn hỏi kỹ ngày giờ rồi bảo: “Nhất định em sẽ đi dự đám cưới chị”

     

    Nhưng trước hôm cưới một ngày, Hương đang ngồi bàn tính cùng Khanh về danh sách khách mời thì Tuấn đến. Trông Tuấn khác hẳn mọi lần. Tuấn không mặc bộ võ phục trắng nữa mà mặc bộ áo nâu nhà chùa. Điều Hương đặc biệt chú ý là đầu Tuấn không còn sợi tóc nào. Khuôn mặt Tuấn rực hồng dưới ánh đèn nê ông. Lớp da trên đầu Tuấn bóng nhẵn, nổi những vệt xanh mờ. Cặp mày Tuấn như xếch lên và sống mũi nhô cao hơn. Khi Tuấn cười, hàm răng trắng như ngà. Tuấn bảo:

     

    - Hôm nay đẹp ngày, thầy làm lễ thế phát cho em. Từ giờ phút này trở đi em mang chân tiểu. Em bắt đầu học hai mươi tư chương uy nghi tức những điều luật đầu tiên của người xuất gia. Ngày mai em không đi dự lễ cưới của chị được. Tối nay em sang chơi với chị, tặng chị món quà này.

     

    Tuấn đặt quà vào tay Hương. Quà của Tuấn là một cuộn giấy nhỏ. Khi Tuấn về rồi, Hương mới mở ra xem. Đó là một bức đại tự viết theo lối thảo. Chỉ có một chữ duy nhất, Hương nhận ngay ra đó là chữ Chấp. Chữ Chấp thuộc bộ thổ, cấu tạo theo nguyên tắc hội ý, gồm chữ Hạnh và chữ Hoàn ghép lại. Hạnh nghĩa là hạnh phúc, Hoàn nghĩa là trọn vẹn. Tuấn muốn chúc Hương Hạnh phúc trọn vẹn! Nhưng Hương hiểu Tuấn còn có ý khác nữa. Trước đây đã có lần Tuấn bảo: “Sống trong chữ Chấp là đời, còn vượt ra khỏi chữ Chấp sẽ là đạo”. Thế là Tuấn đã tỏ rõ chí của mình cho Hương hiểu. Tuấn đã bước sang bên bờ kia của cuộc đời rồi. Đó là chốn gì Hương không sao hiểu, chỉ thấy nó hư ảo thế nào đấy. Tự dưng Hương có cảm giác như đánh mất Tuấn. Khanh hỏi: “Em là thế nào với cái cậu sư ấy?”. Hương đáp bằng một giọng buồn buồn: “Chị em quen nhau thôi”. Khanh bảo: “Cũng đẹp trai đấy nhỉ?”. Hương đáp: “Đẹp! Nhưng chẳng để làm gì”

     

    Hôm sau trên đường đưa dâu về nhà trai, Hương nhìn thấy Tuấn đứng ở chân cầu. Hương nhìn sang Khanh tự hỏi: Khi mười tám tuổi Khanh thế nào nhỉ? Rồi Hương lại tự trả lời: Khanh mơ vào Đại học và mong có ngày rước một cô dâu xinh đẹp về nhà như hôm nay.

     

    Dưới chân cầu nước chảy mà như đứng im.


  12. Tốt nghiệp Đại học Luật, nhà văn Nguyễn Đình Tú đã đeo đuổi sự nghiệp văn chương của mình bằng nhiều tác phẩm có giá trị, điển hình tiểu thuyết Lời Sám hối muộn màng được dựng thành phim. Bên cạnh nghiệp viết văn, tiểu thuyết, anh còn viết kịch bản phim, kịch bản sân khấu. Hiện anh đang công tác tại Tạp chí Văn nghệ quân đội tại Hà Nội. Trong loạt truyện ngắn của anh, BBT chúng tôi xin giới thiệu đến độc giả tác phẩm Bên Bờ hư ảo, nói về hình ảnh của những người trẻ, đặc biệt là hình ảnh của Người Xuất gia trẻ tuổi với cách nhìn của một Nhà văn đến với Phật giáo. Rất mong sự đồng cảm và chia sẻ.


  13. Viếng lǎng Bác

     

    Viễn Phương

    4-19764-1976

     

    Con ở miền Nam ra thǎm lǎng Bác

    Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

    Ôi! hàng tre xanh xanh Việt Nam

    Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.

     

    Ngày ngày mặt trời đi qua trên lǎng

    Thấy một mặt trời trong lǎng đất đỏ

    Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

    Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...

     

    Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

    Giữa một vầng trǎng sáng dịu hiền

    Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

    Mà sao nghe nhói ở trong tim!

     

    Mai về miền Nam, thương trào nước mắt

    Muốn làm con chim hót quanh lǎng Bác

    Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

    Muốn là cây tre trung hiếu chốn này.


  14. Trời xanh đón Người về

     

    Riôke Onisi (Cao tǎng Nhật Bản)

    Trần Duy Vôn dịch

     

    Trời xanh đón người cứu nước về

    Đau lòng chúng sinh trên đường mê

    Xưa nay hiếm bậc lão anh kiệt

    Chiếc lá thu bay: trời ủ ê.

     

    ----------------------

     

    Cụ Riôkê Onisi trên một trǎm tuổi, là một vị cao tǎng Nhật Bản có uy tín lớn. Khi được tin Bác Hồ mất, cụ nhịn ǎn và viết bài thơ này để kính viếng.


  15. Trǎm nǎm nhớ một chuyến đò

    Thanh Tịnh

    Tháng 9 nǎm 1969

     

    Nhớ một tối giữa rừng Việt Bắc

    Được xuống đò theo Bác sang ngang

    Núi xe viền ánh trǎng vàng

    Có đôi mắt sáng điểm màn trời sao.

     

    Đó là Bác mà nào biết trước

    Tưởng cụ già miền ngược sang sông

    Dao rừng cài gọn bên hông

    Gậy song cắp nách, túi vòng qua vai.

     

    Gần cập bến, nước lay sóng dựng

    Đò tròng trành tôi đứng nghiêng nghiêng

    Cụ già dáng rất dịu hiền

    Đưa tay tôi vịn, tôi vin vững dần.

     

    Khi biết bác, Bác lần đi khuất

    Phía mé rừng phảng phất mưa bay

    Tần ngần nhìn vọng hàng cây

    Âậm ran, da thịt hơi tay của Người.

     

    Chuyện cũ đã hai mươi nǎm trước

    Còn dạt dào sóng nước sông Lô

    Trǎm nǎm nhớ một chuyến đò

    Chênh vênh lại được Bác Hồ cầm tay.


  16. Thơ của Bác

    Vũ cao

     

    Con tàu lượn quanh, nhấp nhô núi bãi

    Xao xác hàng dương chiều mưa đổ mau

    Anh bạn Trung Hoa bên tôi bỗng nói:

    - Ta đã đi vào giữa đất Liễu Châu!

     

    Tôi vẫn ngồi im nhìn qua khung cửa

    Anh bạn xích gần ghé sát vai tôi:

    - Có phải trời mưa làm anh tưởng nhớ

    Sông nước quê anh ở mãi chân trời?

     

    - Không, tôi không nghĩ gì vì chuyện trời mưa

    Tôi đang nhẩm mấy dòng thơ chữ Hán

    Mấy dòng thơ thôi mà sao gợi cảm

    Đang đọng lòng tôi hai tiếng Liễu Châu:

    ... Hồi cố bách dư thiên ác mộng

    Tỉnh lai diên thượng đới dư sầu... (1)

     

    Xong tôi kể: mười bảy nǎm trước đây

    Bác Hồ chúng tôi trong cảnh tù đày

    Bị giải qua lao này lao khác

    Mười mấy huyện ròng khắp đất Quảng Tây.

     

    Một buổi Liễu Châu dừng chân tạm nghỉ

    Người ghi nhật ký mấy câu thơ này.

    Tôi đọc lại cả bài thơ tứ tuyệt

    Càng đọc càng nghe ý Người thắm thiết.

     

    Tôi tưởng thấy Người đi giữa trời mưa

    Trên dải đất này những tháng nǎm xưa

    Tôi tưởng thấy Người tay gông tay xích

    Lặng lẽ bước trong hàng dương tịch mịc

    Mà trán Người vẫn hướng về Nam

    Nhớ những sông Hồng, sông Mã, sông Lam

    Nhớ những người con nghìn nǎm đói rét

    Những đồng chí không sợ tù sợ chết

    Đang đợi Người,

     

    và niềm thương da diết

     

    Đã nức lòng Người thành những câu thơ

    Trang sử anh hùng, nét bút đơn sơ.

    Ôi mười bảy nǎm, câu thơ của Bác

    Viết ở Liễu Châu, giờ tôi được đọc

    Trên chuyến tàu qua giữa đất Liễu Châu!

    Như có chuyện hẹn hò từ núi thẳm sông sâu:

    Thơ Cha đó, dành cho con mai mốt...

    Người là quê hương,

     

    là tình yêu đất nước

     

    Người lại là thơ

     

    mang biết mấy tâm hồn!

     

    Anh bạn Trung Hoa nhìn dãy núi chon von:

    - Tôi vốn ở Quế Lâm từ thuở bé

    Nhắc đến Bác Hồ, mẹ tôi vẫn kể

    Người đã từng qua từng ở Quế Lâm.

     

    Mẹ đã được thấy Người trong lúc gian truân

    Một bọn Hán gian giải Người qua bãi

    Mẹ cứ nói một câu mà tôi nhớ mãi

    - Hồi ấy có một người dong dỏng cao cao

    Đi từ đâu không biết tới phương nào...

    Bác Hồ ở quê anh nhưng quê tôi chẳng lạ

    Như chẳng lạ dòng sông với trường thành vách đá

    Bước chân Người còn in dấu quê tôi

    Và chuyện dân gian còn nhắc mãi về Người.

     

    Anh bạn Trung Hoa lại ngồi im. Hai đứa

    Bỗng thấy mình như đôi bạn đồng hươngg.

    Con tàu đi vào giữa những hàng dương

    Tôi đọc tiếp mấy bài thơ Người ấm áp

    Cả lòng tôi lòng bạn biết bao nhiêu!

    Nghe bánh xe lǎn từng nhịp lǎn đều

    Như đất nước đang rì rầm cảm xúc.

     

    Nửa đêm đó, bỗng dưng thức giấc,

    Tôi lại khẽ ngâm thơ theo nhịp con tàu

    Thơ của Người

     

    và cũng của mai sau.

     

    ---------------------

     

    (1) Hai câu cuối bài thơ "Đáo Liễu Châu" trong "Ngục trung nhật ký" của Hồ Chủ Tịch.


  17. Thấm trong di chúc

    Vũ Quần Phương

    12-1969

     

    Suốt một đời Bác đã nghĩ về ta

    Đến phút cuối tim Bác trào lên bút

    Chữ xô dòng, lòng Bác buốt thương dân.

     

    Ôi miền Nam không kịp nữa về thǎm

    Nỗi nhớ tỏa trên mọi nhà mọi ngõ,

    Phút chia biệt Bác nói lời đoàn tụ

    Câu dặn dò nghe ấm vị hàn huyên.

    Bác đi rồi còn trao lại niềm tin

    Con không khóc, nhưng cứ trào nước mắt

    "... đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc" (1)

     

    Bác Hồ ơi! Ngày đó chẳng còn xa

    Ai ngờ đâu, tháng 9 mồng 3...

     

    Quá thương đời và lo nỗi dân đau,

    Bác cố tránh nói những lời ly biệt

    Mượn câu thơ để khuây lòng thương tiếc.

    Ôi lòng Người đo sao hết mông mênh

    Nghĩ việc gì Bác cũng nghĩ từ dân

    Nói về Đảng cũng vì dân mà nói,

    Nước còn giặc, dân còn khi lạnh đói

    Bác đắng lòng trong mỗi miếng cơm ǎn,

    Thắng quân thù dẫu phải mấy mươi nǎm

    Nhưng hạt thóc rụng giữa đồng Bác tiếc.

    Nguồn biển lớn uống muôn đời không hết

    Vẫn kính nhường từng hạt nước trong sông.

    Bác Hồ ơi! Vị muối mặn con ǎn

    Đã kết đậm bao tình thương của Bác,

    Manh áo ấm con mặc khi trở rét

    Đã dệt vào trǎm mối Bác lo toan.

    Phút giã từ trong ánh mắt đǎm đǎm

    Nỗi ưu ái lại trào lên lần chót:

    Hãy giữ đức cho trong, giữ lòng cho khiết

    Sống kiệm cần, tương kết tương thân...

    Ôi giọng Người hiền như giọng cha ông

    Cứ mộc mạc mà thấm vào mãi mãi,

    Con nghe Bác hiểu thêm tầm thời đại

    Sáng thêm lòng nhân ái Việt Nam ta.

     

    Trọn một đời Bác chung thủy gần xa

    Trǎm ơn nghĩa luôn nặng đằm bên dạ.

    Lời vĩnh biệt đã thành lời cảm tạ

    Giọng khiêm nhường ôm bốn bể anh em.

    Thế kỷ này đâu phải đã bình yên

    Trái tim lớn nặng niềm đau mặt đất.

    Tình bè bạn, phút ra đi, còn nhắc

    Dao cắt lòng nhưng vẫn ngập yêu tin.

     

    Lần đầu tiên Bác nói đến niềm riêng,

    Cả nước khóc nghe những lời dặn cuối.

    Ôi trời rộng và núi cao vời vợi

    Sông biển nào sánh được Bác thương ta!

    Bữa cơm ǎn vẫn quen nhút quen cà,

    Lúc nhắm mắt xin dâng đừng tang chế.

    Ôi tim Bác sao mà mênh mông thế!

    Gương trong ngần cho muôn thuở cùng soi.

     

    Triệu lòng người cùng cất gọi: Bác ơi!

    "Muôn vàn tình thương yêu" Bác gửi lại trong lời

     

    Chúng con đọc nghẹn ngào thấm thía

    Tay Bác yếu không còn đều nét chữ

    Tim Bác đập vẫn đồng bào đồng chí

    Giây cuối cùng Bác vẫn gánh lo toan.

    Bác Hồ ơi xin Bác cứ yên tâm!

    Lời Bác dặn chúng con xin nguyện ước.

     

    Mỗi giọt lệ thấm xuống dòng Di chúc.

    Một lời nguyền vang đến suốt mai sau.

     

    -------------------

    (1) Trích trong di chúc


  18. Thǎm Pác Bó

    Xuân Diệu

    10-1964

     

    Nước từ gốc đá chảy tuôn

    Suối xanh ngǎn ngắt một nguồn vô biên.

    Xuôi xa rồi lại trào lên

    Cây thài lài tía mọc bên đá ghềnh.

     

    Một vùng thuần khiết non xanh

    Như mang ánh mắt tinh anh Bác Hồ.

    Hãy còn bàn đá nhấp nhô

    Bác ngồi dịch sử, nghĩ cho muôn đời (1).

     

    Rau mǎng cháo bẹ dâng Người,

    Ngày ra bờ suối, tối thời vào hang.

    Nơi đây Bác vạch đường quang

    Mở ra sông núi, gồm sang biển trời.

     

    Cải soong dưới suối đâm tươi

    Xuống làng mái ngói điểm vui các nhà.

    Thǎm hang trước, nhớ ngày xa

    Bác trồng khóm trúc nay đà xanh um (2)

     

    --------------------

    (1) Hồi ở Pác Bó, Hồ chủ tịch đã dịch cuốn Lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô (B) ra tiếng Việt, làm tài liệu học tập cho cán bộ cách mạng.

    (2) Dưới núi, nước phía bên Tuyên Quang chảy sang bên này (Cao Bằng) như từ trong đá chảy ra. Tháng mười, đồng bào trồng cải soong. Ngày 20/2/1961, sau hai mươi nǎm, Bác về thǎm lại Pác Bó, có trồng một khóm trúc làm kỷ niệm.


  19. Quê Bác

    Nguyễn Trọng Oánh

    1959

     

    Thuyền xuôi xuôi mãi dòng sông

    Dòng sông quê Bác nước trong đôi bờ

    Xôn xao sóng đục con đò

    Đã nghe âm ấm câu hò Nghệ An:

    "Quê ta ngọt mía Nam Đàn

    "Ngon khoai chợ Rộ, thơm cam Xã Đoài..."

     

    Đường sang quê Bác đây rồi

    Con nông giang nhỏ chạy dài đầu thôn

    Nhà xưa Bác ở vẫn còn

    Mái tranh nho nhỏ, nếp vườn thân yêu

    Bác ơi, nhà Bác cũng nghèo

    Quê hương Bác cũng như nhiều quê hương

    Chỉ vì Bác rộng tình thương

    Cho nên nắng đẹp mười phương tràn về.

     

    Để người cuộn chỉ ngừng xe

    Khǎn vuông yếm trắng lên đê giữ làng

    Để người tắm nước quê hương

    Thấy sông thêm rộng thấy đường thêm xinh

     

    Tôi như chim nhỏ giữa rừng

    Bác như nắng đẹp sưởi hồng ban mai

    Lời đâu mà nói hết lời

    Mái tranh còn mãi dấu Người thân yêu

     

    Ra về bãi mía nhìn theo

    Thuyền ai lên Rộ nước triều dâng dâng

    Đất vui đất có anh hùng

    Ta vui ta sống giữa lòng quê hương.


  20. Người đi tìm hình của nước

    Chế Lan Viên

     

    Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi

    Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác!

    Khi bờ bãi dần lui, làng xóm khuất,

    Bốn phía nhìn không một bóng hàng tre.

     

    Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ?

    Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương!

    Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở,

    Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương!

     

    Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp

    Giấc mơ con đè nát cuộc đời con!

    Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp!

    Một mái nhà yêu rủ bóng xuống tâm hồn.

     

    Trǎm cơn mơ không chống nổi một đêm dày

    Ta lại mặc cho mưa tuôn và gió thổi

    Lòng ta thành con rối

    Cho cuộc đời giật dây!

     

    Quanh hồ Gươm không ai bàn chuyện vua Lê

    Lòng ta đã thành rêu phong chuyện cũ

    Hiểu sao hết những tấm lòng lãnh tụ

    Tìm đường đi cho dân tộc theo đi.

     

    Hiểu sao hết Người đi tìm hình của Nước

    Không phải hình một bài thơ đá tạc nên người

    Một góc quê hương, nửa đời quen thuộc,

    Hay một đấng vô hình sương khói xa xôi...

     

    Mà hình đất nước hoặc còn hoặc mất

    Sắc vàng nghìn xưa, sắc đỏ tương lai

    Thế đi đứng của toàn dân tộc

    Một cách vinh hoa cho hai mươi lǎm triệu con người.

     

    Có nhớ chǎng, hỡi gió rét thành Ba Lê?

    Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa bǎng giá

    Và sương mù thành Luân Đôn, ngươi có nhớ

    Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya?

     

    Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể

    Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi,

    Những đất tự do, những trời nô lệ,

    Những con đường cách mạng đang tìm đi.

     

    Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước

    Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà

    ấn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc

    Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa.

     

    Ngày mai dân ta sẽ sống sao đây?

    Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử?

    Bao giờ dải Trường Sơn bừng tỉnh giấc ngủ

    Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây?

     

    Rồi cờ sẽ ra sao? Tiếng hát sẽ ra sao?

    Nụ cười sẽ ra sao?...

     

    Ơi, độc lập!

     

    Xanh biếc mấy là trời xanh Tổ quốc

    Khi tự do về chói ở trên đầu.

     

    Kìa mặt trời Nga bừng chói ở phương Đông

    Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt

    Người cay đắng đã chia phần hạnh phúc

    Sao vàng bay theo liềm búa công nông.

     

    Luận cương đến với Bác Hồ. Và Người đã khóc

    Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin.

    Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp

    Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin.

     

    Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc:

    "Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!"

    Hình của Đảng lồng trong hình của Nước.

    Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười,

     

    Bác thấy:

     

    Dân ta bưng bát cơm mồ hôi nước mắt

     

    Ruộng theo trâu về lại với người cày

    Mỏ thiếc, hầm than, rừng vàng, biển bạc...

    Không còn người bỏ xác bên đường ray.

     

    Giặc đuổi xong rồi. Trời xanh thành tiếng hát

    Điện theo trǎng vào phòng ngủ công nhân

    Những keó quê mùa đã thành trí thức

    Tǎm tối cần lao nay hóa những anh hùng.

     

    Nước Việt Nam nghìn nǎm Đinh, Lý, Trần, Lê

    Thành nước Việt nhân dân trong mát suối

    Mái rạ nghìn nǎm hồng thay sắc ngói

    Những đời thường cũng có bóng hoa che.

     

    Ôi! Đường đến với Lênin là đường về Tổ quốc

    Tuyết Matxcơva sáng ấy lạh trǎm lần

    Trong tuyết trắng như đọng nhiều nước mắt

    Lênin mất rồi! Nhưng Bác chẳng dừng chân.

     

    Luận cương của Lênin theo Người về quê Việt

    Biên giới còn xa. Nhưng Bác thấy đã đến rồi

    Kìa! Bóng Bác đang hôn lên hòn đất

    Lắng nghe trong màu hồng, hình đất nước phôi thai.


  21. Nén hương nhớ Bác

    Huy Cận

    1973

     

    I. Hai chị em

     

    Bà Thanh (1) ra thǎm Bác Hồ tại Bắc Bộ Phủ.

     

    Chị đến thǎm em là Chủ Tịch

    Cho em thân thiết một bu gà.

    Chị em bǎm bốn nǎm xa cách

    Chuyện nước, tình quê: "Chị đó a?"

     

    II. Bàn việc nước

     

    Bác Hồ dặn cụ Huỳnh Thúc Kháng đêm trước hôm Bác đi Paris hồi tháng 5-1946

     

    "Tôi đi, cụ chớ lo chi cả.

    Quyền nước, lòng dân: cụ ở nhà"

    Hai chén trà khuya sương nhẹ tỏa

    Một câu "bất biến" (2) dặn phòng xa.

     

    ----------------------

     

    (1) Bà Thanh: chị ruột của Bác Hồ, đã từng hoạt động cách mạng trong hàng chục nǎm; có ra thǎm Bác Hồ sau khi Bác ở chiến khu về Hà Nội. Hai chị em trong phút đầu gặp nhau chỉ thốt ra: "Em đó à!" "Chị đó à!"

    (2) Đêm đó (25-5-1946), cụ Huỳnh có hỏi Bác Hồ về việc nước nên thế nào trong lúc gặp khó khǎn thì Bác Hồ trả lời: "Dĩ bất biến ứng vạn biến".


  22. Muôn vàn tình thân yêu trùm lên khắp quê hương

    Việt Phương

    4-10 tháng 9 nǎm 1969

     

    I

     

    Trời đổ mưa, đi viếng Bác, đồng bào chờ, bị ướt

    Bác thương đồng bào, con biết Bác không vui

     

    Ngừng đập trái tim tột bậc con người

    Cây cỏ đất trời không thật nữa

    Mặt ta nhìn sắc màu cũng giả

    Ôi ước gì không thật cả nỗi đau mồ côi

     

    Con đóng cửa buồng, ở mình con với Bác

    Chưa muốn cùng ai chia bớt nỗi đau này

    Quanh người con và trong con tất cả đều bỗng khác

    Bác qua đời rồi sao con vẫn ngồi đây

    Con không thể nghĩ rằng Bác Hồ đã mất

    Mà nắng vẫn chuyền như sóc giữa lùm cây.

     

    Con chim đuôi dài được Bác chở che vẫn bay về trước cổng

    Cây vú sữa đầu nhà đang xòe rộng tán sum suê

    Bầy cá rô phi nhớ giờ Bác cho ǎn lại ngoi lên đớp sóng

    Con ra đường quen đứng ngóng Bác quay về

     

    Hôm nay trên vườn ta trời uy nghi lồng lộng

    Hàng bụt mọc trầm tư vút thẳng bên bờ ao

    Gió heo may trong cành đa lao xao tìm gọi nắng

    Lê-Nin trên bàn đang chờ đón Bác đi vào

     

    Bác ơi lúa mùa này đồng thấp đồng cao lên đẹp lắm

    Cơn bão vào đất liền đi chậm lại rồi tan

    Mua bia đã bớt xếp hàng và anh em còn cố gắng

    Đêm qua 140 bốt đồn thù bị ta đánh trong Nam

     

    Con trữ các loại tin đứng chờ đây mong từ Bác một lời ánh sáng

    Như từ lâu nay con thường vẫn hay làm

    Bác lại về đi Bác ơi sau mấy ngày đi vắng

    Khỏe mạnh hồng hào trong nắng óng vườn cam

     

    II

     

    Đêm nay nghìn vạn chúng con xếp thành hàng đi viếng Bác

    Ôi làm sao nguôi được nhớ thương này

    Chúng con đi cho cả người vắng mặt

    Người chưa sinh người đã khuất cũng về đây

    Việt Nam đau cả lòng người dạ đất

    Sao mùa thu như nước mắt trời mây

    Chúng con đi theo tiếng người phía trước

    Đường Hùng Vương dân tộc đi từ dựng nước đến ngày nay

     

    Hãy về đây lũ làng Tây Nguyên đánh tiếng cồng thương xót

    Những con nước Cửu Long bát ngát đợt Cha về

    Đội áo tím sông Hương diệt Mỹ xong bỗng bồi hồi kinh ngạc

    Khi biết tiếng súng mình tai Bác vẫn hằng nghe

    Về đây những tấm lòng trung kiên trong chuồng cọp

    Vết tím bầm thân ghi tạc những câu thề

    Về đây bà mẹ nghèo ở miền cao Hát Lót

    Đã nhiều đêm gặp Bác giữa cơn mê

     

    Hãy về đây những thợ xúc và lái xe khu mỏ

    Vùng than ơi Người nhắc nhở bao lần

    Những o gái Vĩnh Linh đầu tuyết lửa

    Mơ Bác Hồ thương gian khổ vào thǎm

    Ông ké già nhà bên chân Pác Bó

    Còn bàng hoàng hôm gặp gỡ đầu xuân

    Những chiến sĩ treó mǎng trên Cồn Cỏ

    Đài Bác cho đưa đất mẹ thêm gần

    Muôn dòng sông chảy về lòng biển cả

    Bác nằm đây nhớ rõ mỗi người thân

     

    III

     

    Bác thường để lại đĩa thịt gà mà ǎn trọn mấy quả cà xứ Nghệ

    Tránh nói chữ to và đi nhẹ cả trong vườn

    Tim đau hết nỗi đau người ở chân trời góc bể

    Đến bên Người ta thở dễ dàng hơn

     

    Khi đã quyết rất kiên cường mạnh mẽ

    Đốt cháy Trường Sơn đánh Mỹ cũng không sờn

    Lòng trời biển dịu hiền khi gặp treó

    Sấm sét im cho nắng ấm chối non

     

    Bác không bằng lòng gọi trận đánh chết nhiều người là "đánh đẹp"

    Con xóa chữ "đẹp" đi như xóa sự cạn hẹp trong lòng con

    Thêm hiểu lòng Người đối với quân thù như sắt thép

    Mà tình thương mênh mong ôm hết mọi linh hồn

     

    Ngoài bảy nhǎm, Bác vẫn thường ném bóng

    Cái gạt tàn thuốc lá đã hàng nǎm thôi không nóng trên bàn

    Mỗi ban mai Bác luyện chân như ngày xưa tập trèo sườn núi vắng

    Con biết lòng Người quyết sống cho miền Nam

     

    Con biết lòng Người quyết sống cho Việt Nam và thế giới

    Đầu bạc phơ trǎm mối nước non nhà

    Cǎn nhà nhỏ những canh khuya vời vợi

    Vẫn lo toan tháo cởi những bất hòa

    Trái tim lớn đêm ngày quên mệt mỏi

    Dệt dải hồng chắp nối bạn gần xa

     

    IV

     

    Ôi lòng Bác bao la trong di chúc

    Vẫn hạt lúa củ khoai chân chất bình thường

    Cả dân tộc khóc Người thương mình nhất

    Người được thương trên tất cả người thương

    Người suốt đời quên mình cho Tổ quốc

    Khi ra đi chỉ dép lốp chiến trường

    Nguồn ánh sáng đến muôn đời chẳng tắt

    Vượt cao hơn sự chết, vẫn soi đường

    Ba Đình nức nở và ròng ròng nước mắt

    Muôn vàn tình thân yêu trùm lên khắp quê hương

     

    Ôi ta khóc tìm giọt lệ hóa câu nguyền

    Ta chẳng giấu trước bạn bè quốc tế

    Nỗi đau này cao cả thiêng liêng

     

    Ta khóc cho mọi nơi còn xích xiềng áp bức

    Cho đời ta và lớp lớp đời sau

    Cho Trường Sơn, cho Tháp Mười, cho miền Nam ân hận

    chưa được chào đón Bác

     

    Ta khóc những lỗi lầm làm tim Bác thêm đau

    Ta tự biết sức ta trong những dòng nước mắt

    Cho ta khóc hôm nay để từ mai ta lao lên đánh giặc ở tuyến đầu

     

    Sao bao nǎm đồng chí với Người, con gọi Người Đồng chí

    Là khi con vĩnh biệt Người, Đồng chí, Bác Hồ ơi

    Con nguyện làm một mảnh của Người, đến trọn đời tận tụy

    Hồ Chí Minh, người cộng sản rất mực Việt Nam và vô cùng

    chung thủy con người

    Ta gạt nước mắt ngẩng đầu lên, vẫn nắng Ba Đình trong veo

    Người đem về nǎm trước

    Ta thề mang ánh nắng này đến nhà mẹ già ở tận chót Cà Mau

    Những biên đội không quân như hình ảnh dân tộc ta lượn quanh người, lớn vượt

    Cất cánh bay cao theo tay Bác vẫy trên đầu.


  23. Mẹ con

    Nguyễn Xuân Sanh

    Việt Bắc (Tháng 7 nǎm 1954)

     

    Thôn gần cho chí làng xa

    Reo vui trǎm ngả, mừng ca khắp đồng

    Thương con tay mẹ bế bồng

    Con ơi, thương cháu, Bác lòng rộng sao.

     

    Bác cho con má hồng đào

    Cho con mắt sáng như sao cuối trời

    Cho con phần đất phần đồi

    Cho con cả một ngày mai thanh bình.

     

    Ngủ đi con, mộng trong lành

    Cha con chiến thắng Mường Thanh xong rồi

    Lửa khu Hồng Cúm rực trời

    Cha con chắc có đánh đồi Him Lam

    Hai bờ Nậm Rốm nhiều cam

    Chúng dồn từng khóm làng giam chật người

    Các em bản Mị vui chơi

    Giặc về đánh hiếp, tơi bời chim non.

     

    Chiến hào bùn lạnh mưa trơn

    Các chú, các bác, cha con đợi chờ

    Vòng vây thắt chặt từng giờ

    Điện Biên nay đã đỏ cờ Bác trao.

     

    Cha con đi gặp đồng bào

    Đứng nhìn lúa nếp lào rào đưa bông

    Cha nhìn bát ngát con sông

    Chắc cha sẽ nhớ cánh đồng quê hương

     

    Đời cha mong đất, mong vườn

    Cǎm thằng địa chủ, ghét phường giặc Tây

    Cha đi chiến trận đêm ngày

    Cũng mong mẹ có ruộng cày quanh nǎm.

     

    Ngủ đi con, ngủ cho đằm

    Mẹ nâng tay mẹ, con nằm con mơ

    Đời con đã có Bác Hồ

    Mẹ đang đi dưới bóng cờ Bác đây...

Footer title

This content can be configured within your theme settings in your ACP. You can add any HTML including images, paragraphs and lists.

Footer title

This is an example of a list.

Footer title

This content can be configured within your theme settings in your ACP. You can add any HTML including images, paragraphs and lists.

Footer title

This content can be configured within your theme settings in your ACP. You can add any HTML including images, paragraphs and lists.

×
×
  • Create New...