Jump to content

duongXua

Thành viên
  • Số bài viết

    360
  • Gia nhập

  • Đăng nhập

Bài viết được đăng bởi duongXua


  1. Một danh thắng không thể thiếu trong tấm bản đồ du lịch của mùa Hè là đầm Vân Long thuộc huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Vẻ đẹp của đầm được nhân dân địa phương và du khách yêu mến đặt cho cái tên khác là “Hạ Long trên cạn” hay “Hạ Long không tiếng sóng”...

    t36a.jpg

    Đầm Vân Long là khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước lớn nhất vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ. Trên con đê dài 6 km dẫn vào khu trung tâm của đầm cơ man hàng hoa tím, hoa đỏ đua nở, dưới nước trong xanh in bóng mây trời, những ngọn núi trùng điệp ẩn hiện trong mây mù... tạo nên một khung cảnh non nước thật hữu tình.
    Chúng tôi đỗ tại bến thuyền nan nằm san sát, im lìm giữa một vùng trời - mây - nước bát ngát, cũng là khu trung tâm của đầm Vân Long. Hành trình du ngoạn đầm bắt đầu từ đây. Người phụ nữ chèo thuyền chở chúng tôi tên là Lan, cũng là một hướng dẫn viên tận tình, từng nhịp chèo của chị đưa chúng tôi lướt qua những khung cảnh đẹp như mơ.

    t36-1.jpg
    Một góc Vân Long kỳ vĩ và thơ mộng

    Chị Lan tâm sự, mùa Hè du lịch ngoài trời thế này dường như không mấy hấp dẫn với những ai sợ nắng, nên khi nhiệt độ lên tới hơn 40oC là thuyền du lịch như chị bị thất nghiệp thường xuyên. Chúng tôi là những vị khách đầu tiên của chị trong tháng này vì vậy mà có phần được ưu ái hơn.

    Khua nhẹ mái chèo, chiếc thuyền của chị đưa chúng tôi ra giữa đầm nước phẳng lặng như gương, trong vắt in bóng núi, trời mây. Phía dưới là những thảm thực vật tràn đầy nhựa sống như tóc tiên, cây răng cưa, rong đuôi chó... Những đám liễu, năn, lác rậm rạp quá đầu người càng tô điểm cho cảnh sắc nơi đây thêm nguyên sơ.

    t36-5.jpg
    Một hòn đá hình thù kỳ lạ nhô lên mặt nước
    Mải ngắm nhìn những chú bìm bịp ngụp lặn, chúng tôi lọt vào trong một hang động lúc nào không biết. Đây là Hang Bóng, có chiều dài hơn 100m, tựa như một thiên đường, xứng với danh xưng “Hạ Long giữa đồng bằng”.

    Những khám phá bất ngờ thú vị hiện dần theo từng nhịp chèo. Trên trần hang là cả một công trình kiến trúc kỳ công của thiên nhiên. Những nhũ đá ngàn năm tuổi rủ xuống với hình dáng lạ kỳ làm cho những du khách vô cùng thích thú. Nào là những hình cô tiên, hình bông hoa, hình cái quạt, hình con cá, hay con cua...

    t36-3.jpg

    Bên sườn hang còn có nhiều hang nhỏ khác. Sóng vỗ vào vách hang tấu lên những âm thanh lạ tai, khi thì như tiếng chuông ngân, khi thì như tiếng đàn cầm rủ rỉ... Trong hang lấp lánh những ánh sáng phát ra từ dải nhũ đá trên trần hang.

    Hang không cao nên du khách có thể thoải mái lướt nhẹ tay trên những nhũ đá nhẵn mịn hay gồ ghề, mát lạnh. Chị Lan giới thiệu: “Thật may là mùa này nước lưng chừng vừa tầm cho thuyền vào, chứ mùa Đông nước xuống cạn hay mùa nước cả sẽ không thể vào hang được. Vì vậy, nếu thích thú du khách có thể lội xuống nước để tự mình khám phá mọi ngóc ngách trong hang”.

    t36-4.jpg
    Du khách thảnh thơi du thuyền nan giữa đám nước xanh trong

    Đi hết Hang Bóng, chúng tôi ghé qua Hang Cá tại chân núi Hoàng Quyển. Tương truyền xưa kia nhân dân trong vùng bắt được con cá lạ nặng đến hàng trăm cân, từ đó mà đặt tên hang như vậy. Hang này còn là nơi trú ngụ của nhiều loài cá như cá trê, cá chép và cá rô...
    Điểm đến cuối cùng của cuộc hành trình là “vịnh” Kẽm Trăm. Ở đây có hai dãy núi dựng đứng như chiếc phi tiêu song song cắm giữa trời và nước. Khi thuyền vào “vịnh”, gió và sóng xô làm chông chênh cả tay láy của người đã gắn bó với sông nước mấy chục năm.

    t36-2.jpg

    Sóng và gió đã vỗ, khoét vào sườn núi tạo thành những hang, những mái đá sâu đến chục mét. Ánh nắng Mặt trời phản chiếu vào vách đá, vào làn nước tạo nên những sắc màu lạ mắt. Cảnh tượng này gợi cho chúng tôi nhớ đến câu thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương khi nói về Kẽm Trống: “Hai bên là núi, giữa là sông... Gió đập cành cây khua lắc cắc/Sóng dồn mặt nước vỗ long bong”.

    Chúng tôi nhớ đến chuyện bác tiều phu già đã kể vài tiếng trước đó về những người kiếm củi ở Vân Long. Rằng, trước đây thanh niên trai tráng thường hay lên núi kiếm củi, chiều đến họ lại cùng những gùi củi nhảy xuống dòng nước để về nhà trước khi trời tối. Bây giờ không còn người kiếm củi nhưng thỉnh thoảng khách Tây vẫn hay xuống dòng sông này tắm. cảnh tượng ngoạn mục như những bãi tắm tiên!

    Sau gần 2 giờ, chuyến du ngoạn bằng thuyền nan cũng kết thúc. Vừa lúc trời dần tắt nắng, bầu trời xanh hơn, mặt nước trong vắt, in rõ hình mây trời, núi non. Chúng tôi không đi xe mà cuốc bộ trên con đê để hóng mát và tranh thủ ngắm cảnh dọc đường.

    Cứ một đoạn lại bắt gặp những mục đồng thả lưới bắt cá, hay bác chèo thuyền lùa đàn vịt về chuồng... Bức tranh Vân Long sẽ in dấu trong cảm xúc của du khách về cảnh bình yên làng quê đồng bằng Bắc Bộ.

    t36-6.jpg

    Đầm Vân Long rộng 3.500ha nằm trải dài trên địa bàn 7 xã của huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Năm 1960, khi nhân dân đắp đường đê dài trên 30km để trị thủy sông Đáy đã tạo ra một vùng đất ngập nước mênh mông giữa đồng bằng này. Với 45.000 đồng/vé/người, du khách sẽ được du thuyền nan trên mặt nước, khám phá những hang động như Hang Cá, Hang Bóng, Hang Rùa, hay những ngọn có hình thù kỳ lạ như núi Mèo Cào, núi Mâm Xôi, núi Hòm Sách, núi Mồ Côi, núi Cô Tiên… Đặc biệt, còn có cơ hội ngắm những động vật quý hiếm như voọc quần đùi trắng, rắn hổ chúa, kỳ đà hoa, tắc kè, gấu ngựa, cu li lớn, khỉ mặt đỏ… cùng các loại thực vật như kiềng, lát hoa, tuế lá rộng…

    BÍCH THẢO - TIẾN THÀNH - DNSG

  2. Dẫu biết huyền thoại muôn đời vẫn là huyền thoại, nhưng khi chiêm ngắm Núi Đôi thì bất cứ ai, dù chưa được nghe câu chuyện về bầu sữa của nàng tiên cũng đều liên tưởng đến bộ ngực căng tròn và gợi cảm của người con gái đang độ xuân thì.

    t44-4-1.jpg

    Với hình dáng kỳ dị, lại được gắn những câu chuyện mang đầy màu sắc huyền thoại, Núi Đôi Quản Bạ, mà dân địa phương thường gọi là núi Cô Tiên, đã trở thành một trong những điểm nhấn quan trọng trong hành trình lên cao nguyên đá Đồng Văn của du khách, là đề tài hấp dẫn đối với những tay săn ảnh chuyên nghiệp.

    Nằm phơi mình giữa một thung lũng nhỏ bé bên phố núi Tam Sơn, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang, bao quanh là những thửa ruộng cao thấp, được tô điểm thêm những nếp nhà đất nâu đậm sắc màu miền cao nguyên đá, Núi Đôi luôn hút hồn lữ khách.

    Thời gian đẹp nhất để chiêm ngưỡng cảnh sắc kỳ thú của Núi Đôi là vào mùa Xuân và mùa Hạ, lúc mà những thảm cỏ, cây bụi trên “bầu vú” Cô Tiên xanh tươi mơn mởn, hay lúc mùa lúa chín vàng óng, rực rỡ trên các thửa ruộng bậc thang trên cánh đồng Tam Sơn.

    t44-1-3.jpg

    Bao đời nay, Núi Đôi vẫn đẹp và hấp dẫn thế, vẫn được các dân tộc nơi đây tôn thờ, bảo vệ, và câu chuyện huyền thoại về núi Cô Tiên đã ăn sâu vào tiềm thức của họ.

    Chuyện kể rằng, ở miền Quản Bạ sương núi giăng giăng này có một chàng trai người Hmông tuấn tú mà tiếng đàn môi của chàng réo rắt như tiếng suối, ríu rít, lảnh lót như tiếng chim rừng, lúc sâu lắng, trầm bổng, lúc da diết như tiếng gió giữa đêm khuya cứ bay xa, bay xa mãi, vang lên cả trời xanh, làm mê đắm, xiêu lòng bao thiếu nữ miền sơn cước.

    Có một nàng tiên trên thượng giới tên Hoa Đào, xinh đẹp tuyệt trần tình cờ nghe được tiếng đàn, đã theo gió trốn xuống trần gian tìm người thổi lên những giai điệu tuyệt trần ấy, rồi phải lòng chàng nên tìm cách ở lại mà không về trời. Cuộc hôn nhân giữa người và tiên đã thành. Họ nên vợ nên chồng và sinh được một bé trai.

    t44-2-1.jpg

    Khi Ngọc Hoàng biết chuyện Hoa Đào bỏ trốn xuống trần gian lấy người phàm, đã vô cùng giận dữ, sai người đi bắt nàng về. Thương chồng một mình nuôi con vất vả, thương con thơ thiếu sữa mẹ, nàng đã bỏ lại đôi nhũ của mình dưới hạ giới cho con bú.
    Đôi nhũ nuôi con nàng ngày càng khôn lớn, sau này đã biến thành hai quả núi dáng hình bầu vú mẹ, tròn trịa, đều đặn. Hai quả núi đó được gọi là Núi Đôi hay núi Cô Tiên.

    Tương truyền, nhờ dòng sữa của nàng mà vùng đất này có khí hậu mát mẻ, đào, mận, lê, hồng... (những sản vật của huyện Quản Bạ) có hương vị thơm ngon lạ thường, rau cỏ thì luôn xanh tươi, lúa ngô luôn nặng hạt. Nước mắt khóc thương chồng con của nàng đã biến thành dòng sông Miện xanh ngắt bao bọc lấy miền núi đá tai mèo.

    Dẫu biết huyền thoại thì muôn đời vẫn là huyền thoại, nhưng khi đứng trên đỉnh đèo Tam Sơn để chiêm ngắm Núi Đôi thì bất cứ ai, dù chưa được nghe câu chuyện về bầu sữa của nàng tiên cũng đều liên tưởng ngay đến bộ ngực căng tròn và gợi cảm của người con gái đang độ xuân thì.

    Vẻ đẹp quyến rũ và khó cưỡng của Núi Đôi cùng các giá trị địa chất và thiên nhiên kỳ thú là điều kiện để năm 2010, Núi Đôi được Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch công nhận là Danh thắng cấp quốc gia. Cùng với Công viên Địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn, Núi Đôi trở thành một biểu tượng, một điểm đến hấp dẫn và quan trọng của miền sơn cước độc đáo này.


    KIM SA

  3. Chỉ cách trung tâm TP.Hà Nội khoảng 20km, nằm trầm mặc bên bờ con sông Nhuệ hiền hòa, làng Cự Đà (xã Cự Khê, Thanh Oai) đã có lịch sử gần 5 thế kỷ nhưng vẫn giữ được nét cổ xưa của làng quê Việt.

    t46-7.jpg
    Miếu Cự Đà
    Đến Cự Đà, du khách bắt gặp đầu tiên là những gốc đa, gốc si già bên bờ sông Nhuệ. Cây đã đứng đó cả thế kỷ nay, che nắng để bọn trẻ đánh bi, đánh đáo trong những ngày Hè oi ả, tỏa bóng mát cho quán nước chè xanh của mẹ, của chị. Dưới ánh nắng sớm mai, cành lá rì rào trong gió, tiếng chim ríu rít trong không trung.

    Mỗi góc sân, bờ tường, hiên nhà ở Cự Đà đều toát lên nét cổ xưa. Mỗi ngõ ở đây là một xóm, với những cái tên nghe rất lạ tai, như xóm Hiếu Đễ, xóm Con Cóc, xóm Quang Trung I, xóm Quang Trung II, xóm Đồng Nhân Cát... Chỉ cần bước qua chiếc cổng nhà, ta như lạc vào một không gian sống cùng cảnh tượng của thời xa vắng, của hoài niệm xưa.

    Hiên cổng phủ đầy rêu xanh, cỏ dại, cùng với màu mốc mác, hoen ố lưu cữu từ hàng trăm năm qua. Trên các bức tường nhà, từng mảng vữa dần dần rơi xuống để lộ màu đỏ của những viên gạch cổ.

    t46-1-1.jpg
    Mỗi con ngõ là một xóm nhỏ

    Những ngôi nhà cổ ở Cự Đá được xây theo ba lối kiến trúc: Thuần Việt, kiểu Pháp, hoặc kết hợp cả hai. Đặc biệt, những ngôi biệt thự 2 tầng được thiết kế rất cầu kỳ với những nét chạm trổ tinh xảo, cùng với phù điêu, họa tiết theo kiểu phương Tây, mặt tiền thường khảm đá hoặc sành sứ, nền nhà lát gạch hoa.

    Theo thống kê của xã Cự Khê, trước năm 1975, làng Cự Đà còn khoảng 100 ngôi nhà cổ, trong đó có 25 nhà theo kiến trúc Pháp, xây hai tầng. Số còn lại là nhà kết hợp Á - Âu hoặc mang nét kiến trúc đặc trưng của đồng bằng Bắc bộ - còn gọi là nhà đại khoa.

    Với những ngôi nhà kết hợp theo phong cách Á - Âu thì nét đặc trưng nhất có thể nhận ra là bờ tường hoa trước sân mang dáng kiến trúc vòm, còn nhà thì tầng 2 thường có ban công hóng mát, nhưng ở tầng 1 lại mang phong cách nhà ngói ba gian của vùng đồng bằng Bắc bộ xưa.

    t46-8.jpg
    Một con ngõ nhỏ cổ kính

    Giữa làng có một cột cờ với cái bệ bề thế, được xây dựng từ năm 1929. Thời đó, làng nào có được cột cờ như vậy là hiếm lắm. Đến nay, đỉnh cột cờ vẫn tung bay cờ lễ hội làng. Năm 1929 cũng là dấu mốc làng Cự Đà chính thức có điện chiếu sáng.

    Cự Đà có hai công trình công cộng khá độc đáo mà du khách có thể khó tìm thấy ở địa phương nào khác, đó là trụ sở HĐND và UBND xã Cự Khê, là hai ngôi nhà có niên đại gần 100 năm.

    Hai công trình này chính là nơi hội họp, giải quyết những công việc chung của làng từ trước Cách mạng tháng Tám. Rêu phong, mốc mác, hoen ố hiện hữu trên những bức tường, mái hiên đã biến các công trình này thành những chứng nhân lịch sử của một ngôi làng.

    t46-4.jpg
    Biệt thự cổ kiểu Pháp với họa tiết đắp nổi độc đáo

    Cùng với cây cổ, nhà cổ, những di sản văn hóa vật thể khác như đình, đền, chùa, miếu ở Cự Đà cũng là những tài sản vô giá. Miếu Cự Đà còn giữ được một số hiện vật lịch sử có giá trị, như đôi kiệu có niên đại gần 300 năm, tương truyền là vật báu của vua Lê Cảnh Hưng.
    Hoa văn rồng phượng được chạm khắc nổi trên tường miếu và cả trên chiếc kiệu thờ bằng đá. Miếu Cự Đà đã được Nhà nước công nhận là Di tích cấp Quốc gia.

    Dấu ấn đậm nét nhất ở chùa Cự Đà là những voi đá, nghê đá, rồng đá chầu trước sân, dưới bóng cây đa cổ thụ. Chùa còn có chiếc chuông cổ được treo dưới gác mái cong uốn lượn hình long phượng.

    Cùng với làng cổ Đường Lâm, Cự Đà là ngôi làng có không gian văn hóa cổ tiêu biểu nhất vùng đồng bằng Bắc bộ còn sót lại đến ngày nay.

    t46-5.jpg
    Cột cờ có từ năm 1929

    t46-9.jpg

    t46-3.jpg

    t46-2-1.jpg

    t46-10.jpg

    NGUYỄN HẢO - DNSG

  4. Tỉnh Bạc Liêu đang lập hồ sơ, đưa vào diện trùng tu, bảo tồn 21 ngôi nhà cổ phong cách kiến trúc Pháp để cho vào tuyến điểm du lịch phục vụ du khách. Đó là những ngôi nhà cổ nằm dọc bờ sông Bạc Liêu. Tất cả đều có tuổi đời gần trăm năm.

    bl-1.jpg
    “Phố Tây” Bạc Liêu về đêm

    Đi trên đường Hai Bà Trưng (P.3, TP. Bạc Liêu), du khách sẽ được tham quan Thư viện Bạc Liêu, một ngôi nhà cổ được xây từ những năm đầu thế kỷ XX. Ít người biết rằng đây là ngôi nhà của ông Trần Văn Chương, thân sinh bà Trần Lệ Xuân, vợ cố vấn Ngô Đình Nhu.

    Bảo tàng tỉnh nằm kề Thư viện Bạc Liêu cũng là một ngôi nhà cất theo kiểu Tây. Trong bảo tàng trưng bày hình ảnh người dân Bạc Liêu xưa qua các thời kỳ xây dựng và phát triển, đặc trưng văn hóa dân tộc Kinh, Khmer, Hoa tại Bạc Liêu. Đặc biệt, rất nhiều cổ vật đặc trưng nền văn hóa Óc Eo thời vương quốc Phù Nam được sưu tầm và lưu giữ tại đây.

    Không chỉ tham quan, thông qua những ngôi nhà cổ này, các du khách có “máu” sưu tầm, nghiên cứu kiến trúc nhà Tây và tìm hiểu lịch sử sẽ hiểu thêm nhiều câu chuyện lý thú về cuộc sống, con người ở vùng đất mà từ năm 1882, vị quan chủ tỉnh Lamothe de Carrier đã báo với thống đốc Nam kỳ rằng: “...trong tương lai sẽ nhanh chóng trở thành thành phố lớn nhất của Nam kỳ, sau Sài Gòn”.

    Ghé nhà công tử Bạc Liêu

    Ngôi nhà nổi tiếng trên đường Điện Biên Phủ (P.3, TP. Bạc Liêu) hiện được trùng tu sửa chữa để đón khách tham quan. Buổi tối, đứng trên cầu Quay nhìn qua, du khách sẽ chiêm ngưỡng được hết vẻ đẹp cổ kính và uy nghi của ngôi nhà. Nhà quay mặt ra bờ sông, bốn phía đều có cửa sổ.

    Ngôi nhà thường được đông đảo khách dừng chân tham quan bởi toàn bộ vật liệu xây dựng như thép đúc, cửa, cẩm thạch lát nền, gạch, khung sắt trang trí... đều từ Pháp chở qua. Từ bù loong, ốc vít đến các chi tiết xây dựng đều được đóng dấu chìm chữ “P” hoa mỹ, chứng thực sản xuất tại thủ đô Paris hoa lệ.

    Bên trong nhà hiện còn lưu giữ một số hiện vật của công tử Bạc Liêu như bình, lọ gốm sứ, bàn ghế cẩn ốc xà cừ, đặc biệt là chiếc điện thoại cổ cậu Ba Huy sử dụng lúc đương thời.

    Theo ông Nguyễn Chí Thiện, Giám đốc Sở VH-TT&DL tỉnh Bạc Liêu, ngôi nhà sẽ được trùng tu theo hướng phục dựng cảnh sinh hoạt của gia đình công tử Bạc Liêu thời đó. Du khách ghé chơi sẽ được sử dụng đồ dùng, các phòng trong nhà như sống lại không khí sinh hoạt thượng lưu của gia đình giàu có, thế lực một thời này.

    Ngoài ra, du khách còn được chụp ảnh chung với ông Trần Trinh Đức, con trai còn lại duy nhất của công tử Bạc Liêu, đang sống ở quê nhà.

    Phủ thờ dòng họ Cao Triều

    bl2.jpg
    Một ngôi nhà cổ trên đường Điện Biên Phủ (phường 3)

    Từ trung tâm TP Bạc Liêu, đứng trên cầu Quay nhìn qua mé trái sông Bạc Liêu là thấy ngay căn nhà của dòng họ Cao Triều (đường Đống Đa, P.5, TP. Bạc Liêu).

    Nhà có kiến trúc kiểu Tây pha trộn kiến trúc Trung Hoa với nét đường bệ, nền đúc cao, quét vôi vàng, bao quanh là tường rào bằng sắt và cổng vào rộng lớn. Nhà có ba cửa gồm một cửa chính ở giữa, hai cửa phụ hai bên. Vòm cửa hình bán nguyệt, tường xây cao theo kiểu giấu mái. Nét độc đáo ở mặt dựng ngôi nhà là có khắc hình lưỡng long tranh châu ngay trên cửa chính. Bên cạnh cửa là bốn cây cột đứng hàng ngang, trên có hình điêu khắc các biểu tượng thần linh hết sức tinh xảo.

    Trong nhà, cách bài trí và đồ dùng đều được giữ nguyên trạng. Giữa phòng khách, gian chính ngôi nhà là bộ bàn ghế cổ xưa cẩn ốc xà cừ lấp lánh. Kế đó là hai bộ trường kỷ bằng đá cẩm thạch trắng dày cả tấc, ngồi lên nghe mát lạnh. Nhìn vào trong, gian thờ còn nguyên bộ khánh thờ chạm trổ công phu, trên hàng cột gỗ mun là hàng câu đối sơn son thếp vàng. Trên bàn thờ có lẽ khó tìm đâu ra bộ lư đồng lớn, được coi là độc nhất vô nhị xứ Nam kỳ lục tỉnh thời bấy giờ.

    Điều đáng trân trọng chủ nhân ngôi nhà vốn là một nhân sĩ trí thức yêu nước: ông Cao Triều Phát - nguyên ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tại đây, du khách cũng biết thêm về gia phả dòng họ Cao Triều, những nhân vật lịch sử gắn liền với tiến trình hình thành và phát triển tỉnh Bạc Liêu.

    Nguồn: TT

  5. Điện Biên, Phong Nha, Nam Cát Tiên, ba điểm du lịch ở Bắc Trung Nam không xa lạ gì với dân du lịch bụi. Nhưng nếu bạn cho rằng mình đã thuộc như lòng bàn tay những nơi này, thì e là chưa chắc. Hãy thử đi theo cách này xem, chắc chắn bạn sẽ thấy những điều mới lạ từ những vùng đất quen trên đất nước mình.

    Hành trình tốn ít nhất hai ngày một đêm nếu khởi hành từ thành phố Điện Biên lên Tủa Chùa, các xã không có nhà trọ và hàng quán phục vụ, nên chuẩn bị võng để ngủ chợ, lương khô, thịt, gạo xin nấu nhờ ở các gia đình ven đường. Cao nguyên đá từ xã Tả Sìn Thàng, kéo dài đến tận xã cuối cùng của huyện là Xín Chải. Mây núi ở cung đường này sáng sớm rất đẹp. Trà cổ thụ Tủa Chùa là một sản vật quý. Rừng trà cổ thụ ở các xã cũng rất độc đáo, thân trà cao to, mọc san sát, là rừng trà cổ đẹp và nhiều nhất của cả Đông Bắc – Tây Bắc.

    ImageHandler.ashx?ImageID=176773
    Đường lên Tủa Chùa, Điện Biên.

    ImageHandler.ashx?ImageID=176774
    Người H’Mông đen ở Tủa Chùa lên nương.

    ImageHandler.ashx?ImageID=176775
    Rừng trà cổ thụ ở bản Hấu Chua, Tủa Chùa, Điện Biên.

    Tủa Chùa – tau thích mi

    Hơn 200km từ thành phố Điện Biên, lên Tuần Giáo, rồi Huổi Lóng, rẽ vào đường 129 thế là đến Tủa Chùa. Nơi có cao nguyên đá đẹp long lanh chẳng khác mấy với Hà Giang, chỉ nhỏ hơn về diện tích. Nơi có chợ Tả Sìn Thàng của người H’mông đen (tên gọi phân biệt theo trang phục) lớn nhất Điện Biên – Sơn La họp sáu ngày một phiên. Nơi có rừng chè cổ thụ hoành tráng nhất cả nước với những thân chè trăm năm tuổi hai người ôm không xuể. Những nét đẹp quyến rũ ấy sẽ khiến tôi không hối tiếc khi bỏ tám tiếng bò xe máy từ Điện Biên qua cung đường gian nan còn hơn đi off-road mới lên tới vùng cao nguyên đá đẹp như tranh sơn thuỷ dưới cảnh chiều tà miền sơn cước Tủa Chùa.

    Đến Tả Sìn Thàng một xã của Tủa Chùa, không nhà nghỉ, không nước giếng, cả xã xài chung một bể nước đưa từ suối về, tôi cũng mon men ra bể tẩy bụi trần sau một ngày dằn xóc vất vả. May mắn được tá túc và dùng bữa tối ở một gia đình người Xạ Phạng – một nhánh người Hoa – bữa cơm thịt heo muối để hơn hai tuần, chả hiểu đói hay lạ miệng mà ngon chi lạ. Gia chủ mời vài chén rượu Mông Pê, trời lạnh, rượu nặng nức mùi nếp, uống đến mềm môi. Khuya chui vào chăn ấm của người Xạ Phạng hiếu khách, với miên man hạnh phúc: “Tủa Chùa – tau thích mi”.

    Sáng mơ tỉnh dậy, đổi con Dream chiến lấy con Win tàu vào rốn trà Tủa Chùa, bản Hấu Chua xã Xín Chải. Đường xấu khiếp đảm, trơn trượt, sạt lở, nhưng bù lại Hấu Chua đẹp dã man với rừng trà dày đặc, san sát, cây cao hơn chục mét, to hơn hai người ôm. Ông trưởng bản cũng là vua trà Hạng A Chư mời ấm trà vừa sao sấy xong, ngồi nhâm nhi vị chát đậm, hậu ngọt thanh của trà giữa mây vờn đục mờ quanh bản, tự dưng thấy ghen tị với ông vua trà quá đi mất. Đường về cũng là dịp may khi gặp đúng ngày họp chợ phiên Tả Sìn Thàng, một phiên chợ đầy hoang sơ, chưa bị du lịch hoá, cả chợ nhuộm một màu đen kịt của váy áo các cô gái, cánh đàn ông lo ôm chai rượu Mông Pê lướt khướt ở vách núi hết cả.

    Khám phá hang động hoang sơ ở Phong Nha – Quảng Bình cần chuẩn bị: nón bảo hiểm loại nhẹ, dao đi rừng, võng, tăng che mưa, thuốc chống vắt, giày vải địa hình cao cổ, găng tay tốt để leo núi đá tai mèo, áo quần chống thấm nước, đèn pin công suất lớn, GPS, dây thừng, áo phao (nếu có ý định khám phá hệ thống hang nước – river caves), bộ lọc nước và khẩu phần ăn vừa đủ cho hành trình, lương khô quân đội là lựa chọn hợp lý. Nên chọn lộ trình vừa phải, khoảng 2 – 3 ngày. Không nên chọn đi dài ngày nếu chưa quen đi rừng. Phải đi cùng người dẫn đường địa phương.

    ImageHandler.ashx?ImageID=176776
    Cửa hang Tú Làn ở rừng Phong Nha – Kẻ Bàng.

    ImageHandler.ashx?ImageID=176777
    Thạch nhũ hang Ươi trong thung lũng Tú Làn.

    ImageHandler.ashx?ImageID=176778
    Đoàn thám hiểm chuẩn bị vào hang Chuột ở Phong Nha – Kẻ Bàng.

    Phong Nha – không tiếp những tay mơ

    Phong Nha – Kẻ Bàng gần đây như một thỏi nam châm thú hút những người đam mê hang động và rừng già. Dân thám hiểm dõi mắt về Sơn Đoòng – một hang động lớn nhất thế giới vừa được khám phá. Riêng tôi không dám mơ được khám phá hết Sơn Đoòng, lần đi trước mới chạm mặt làm quen với Sơn Đoòng từ cửa sau, đi hết 600m đến điểm mà nhóm hiệp hội Hang động Hoàng gia Anh đặt tên là “bức tường Việt Nam” với chiều cao khoảng hơn 60m thì bó tay, lộn ngược trở lại. Sơn Đoòng lớn khủng khiếp, quá vĩ đại, chuyện khám phá nó không dành cho những tay chơi nửa mùa, thiếu kinh nghiệm hang động, thiếu thiết bị hỗ trợ, đèn chiếu sáng, lẫn thể lực để có thể đi hết chiều dài 6.481m trong lòng hang.

    Nhưng Phong Nha – Kẻ Bàng còn chứa đựng nhiều nét đẹp kỳ vĩ khác của vô vàn hang động chưa từng được khám phá. Tôi may mắn được tham gia cùng đoàn thám hiểm hang động Hoàng gia Anh trở lại thung lũng Tú Làn (cách Phong Nha hơn 80km) với lỉnh kỉnh thiết bị chuyên dụng để khám phá từng nét đẹp của hang Chuột, hang Tú Làn (hang khô, hang nước). Nhờ “ăn ké” đèn đóm của nhóm thám hiểm, cùng với phao nổi, dây leo chuyên dụng, hang Tú Làn mở ra trước mắt tôi đẹp hơn bao giờ hết.

    Nhưng cái đã nhất là theo nhóm thám hiểm lần đầu khám phá hang Ươi và hang Ken. Mất vài ngày luồn rừng, ăn ngủ bên sông suối mới đến được cửa hang, từng bước theo chân đoàn thám hiểm khám phá mọi ngóc ngách hang động, độ sâu, chiều cao bằng các thiết bị đo đạc bằng tia laser chuyên dụng, càng đi vào hang sâu âm u, tối như bưng, nhưng đèn pha đến đâu cũng thấy đều là góc đẹp. Hành trình cũng là những pha nghẹt thở khi cheo leo bên vách núi hay những giây phút đầy kinh ngạc trước khối thạch nhũ triệu năm tuổi đang sở hữu một vẻ đẹp trường tồn theo thời gian.

    Nam Cát Tiên có hai hoạt động thú vị về đêm: ra trảng cỏ xem nai, mễn, hoẵng đi ăn đêm, cần có đèn công suất mạnh để mắt thú ăn đèn, dễ quan sát. Hoặc đi Bàu Sấu xem cá sấu, cẩn thận mùa cá đẻ vì chúng rất hung dữ. Không nên đi một mình vào rừng hay các lùm bụi rậm rạp, ẩm ướt, vì có nhiều loại rắn độc thường săn mồi về đêm.

    ImageHandler.ashx?ImageID=176779
    Một chú sấu con ở Bàu Sấu bị thộp cổ luôn lên thuyền để đoàn chiêm ngưỡng.

    ImageHandler.ashx?ImageID=176780
    Phút nghỉ ngơi bên suối trong rừng nguyên sinh Nam Cát Tiên.

    ImageHandler.ashx?ImageID=176781
    Những chú cá bắt được từ suối ở Nam Cát Tiên dành cho bữa ăn đêm.

    Mạo hiểm với rừng nguyên sinh

    Trở lại Nam Cát Tiên vào mùa mưa, cũng đúng là mùa sinh sản của cá sấu, tôi quyết chí làm một chuyến đi “săn” cá sấu đêm. Gọi đi săn cho oai chứ thực tình đi với hy vọng xem được con cá sấu tự nhiên khi đêm xuống nó thế nào. Dân quanh vùng tả về Bàu Sấu ngày xưa cá sấu dày đặc, khi đêm xuống mắt cá sấu ăn đèn nhìn nhiều như sao trời. Lời kể lể ấy khiến chuyến ra Bàu Sấu thêm phần hấp dẫn. Đêm xuống, mượn xuồng chèo đi tìm cá sấu, cứ ven theo mép nước cuối cùng cũng thấy đôi mắt ăn đèn, lại gần thì ra là chú cá sấu con, dài gần 50cm.

    Ông bạn Tây sẵn máu mạo hiểm, thộp cổ luôn chú sấu con lên thuyền để tiện bề chiêm ngưỡng. Vừa chèo tới lui được vài nhịp, thuyền như đụng phải vật gì nghe đánh cộp, tròng trành vài giây, lại thêm một tiếng va chạm nữa. Cả nhóm tự an ủi nhau, chắc là va phải mấy gốc cây hay đụn cỏ. Đến khi tiếng nước rào rào của vật gì trồi từ dưới hồ lên, người chèo thuyền phản xạ nhanh thụt tay lại, ngay lập tức tiếng va đánh bốp của quai hàm con cá sấu mẹ vừa phi lên đớp hụt khiến cả thuyền tái mặt. Con cá sấu mẹ dài hơn sải tay hung hăng hơn, lại trồi ngay lên đeo bám theo thuyền. Hoá ra chúng tôi đang cướp con của nó nên mới ra cơ sự. Vội thảy trả lại sấu con đáng yêu, ai nấy ngồi trên thuyền khép nép, im thin thít, rón rén chèo về. Hú hồn với Bàu Sấu.

    Sớm hôm sau, tôi theo chân một nhóm lủ khủ với đám tây ta gần chục người, hành quân học cách đi rừng. Dựa trên bản đồ cả nhóm sẽ luồn rừng tìm điểm đến, hạ trại, tự đi tìm lương thực mà chủ yếu là cá suối và đọt mây rừng. Bắt được cá thì có cái ăn, lỡ không bắt được thì nhịn vì mãi đến hôm sau mới trở lại điểm xuất phát ban đầu.

    Chuyến đi thử thách độ chịu đựng những trải nghiệm rừng xanh, tôi cũng học được các kiến thức như cách giữ lửa trong điều kiện thời tiết ẩm ướt. Khoái nhất là học cách đi ngược dòng nước, bởi mùa này, các con sông ở Nam Cát Tiên nước lũ về, đỏ ngầu, chảy rất xiết. Xuống nước theo bài bản với tư thế chân trước chân sau, người luôn chồm về phía trước, chân sau làm điểm trụ, cứ thế nhích người ngược dòng, mắt đảo phía sau định hướng các lùm bụi ven bờ để lỡ sảy chân, nước cuốn thì sẽ theo hướng lùm bụi để bám vào. Nhờ cách di chuyển bài bản, cảm giác nhìn dòng nước xiết thấy tự tin hơn, sẵn sàng đối mặt mà không còn sợ như ban đầu. Kết thúc hành trình, lúc ra khỏi rừng, người vẫn còn đờ đẫn vì mệt, nhưng cảm giác được trải nghiệm với rừng thật đã.

    BÀI VÀ ẢNH: NGUYỄN ĐÌNH - SGTT

  6. VỀ MIỀN TÂY ĐI CHỢ NỔI... THIỆT

    Nếu đã lội bộ đến căng cơ trong các vườn cây trĩu quả ở miền Tây mùa này, bạn có thể tiếp tục ngồi ghe đi chợ nổi Cái Răng, xem đời sống thương hồ bềnh bồng và ngắm ghe xuồng đầy ắp hàng hoá, cây trái...

    K69D.jpg
    Ảnh: Ghe bún riêu tấp nập khách ăn trên chợ nổi – một dạng dịch vụ trên vùng sông nước.

    Đi chợ nổi nhớ… Sài Gòn

    5 giờ sáng, bình minh đang lên trên bến Ninh Kiều. Ngoài cái không khí thoáng đãng, bến Ninh Kiều không có vẻ gì hữu tình, lãng mạn như trong thơ ca. Nhà cửa san sát, hầu như ở mỗi ngôi nhà giáp mé sông đều có cây cầu nhỏ để ghe xuồng cập bến. Có vườn xoài mà trái oằn hẳn ra ngoài hàng rào, khi ghe chạy ngang nếu nhanh tay có thể với tay hái được. Ngồi trên ghe máy ngắm cảnh sông nước đôi bờ khi nắng lên cùng gió sông lồng lộng của buổi sớm mai, lúc này cảm xúc của du khách mới phơi phới.

    Gần đến chợ nổi, khách được nhắc nhở không để tay ra ngoài cửa sổ. Thỉnh thoảng chiếc ghe máy tròng trành vì bị chiếc ghe khác áp sát. Có người thốt lên: “Giống y chang giao thông ở Sài Gòn”.

    Chợ nổi Cái Răng đầy ắp nông sản. Nào là thơm, dưa hấu, xoài, bưởi, củ sắn, củ hành… Còn có ghe bán tạp hoá, cắt tóc, bún riêu, hủ tíu, nước giải khát… Anh Nguyễn Tấn Công, hướng dẫn viên, nói: “Ở đây người ta chạy ghe máy như trên Sài Gòn chạy xe gắn máy. Chạy ghe đưa con đi học, ghé mua ly càphê, rồi tấp ghe vào tiệm cắt tóc… đậm nét sinh hoạt vùng sông nước”.

    Chợ nổi Cái Răng là chợ đầu mối nên khách phương xa luôn có cảm giác háo hức được mua trái cây vừa rẻ vừa tươi. Một ghe xoài cát Hoà Lộc tấp vô mời chào: “40.000 đồng/ký”. Vài chị khách mỗi người mua một, hai ký nhưng không quên so sánh: “Giá cũng bằng ở Sài Gòn nhưng được cái tươi”.

    Ghe khách cập mạn ghe bún riêu của bà Năm, đang luôn tay múc bún. Tô bún riêu bằng sành, nước lèo đỏ au, có miếng riêu cua, vài miếng thịt, chả lụa, giá 20.000 đồng/tô. Có người thắc mắc tô bún riêu giá như ở Sài Gòn, rồi nhận câu trả lời mà ai cũng biết: “Bán cho du khách mà!” Hương thơm hấp dẫn toả ra từ nồi bún riêu khiến nhiều người cầm lòng không đậu. Nhưng, tay chưa kịp cầm tô bún bà Năm đưa thì ghe thình lình nổ máy chạy. Bà Năm khoát tay phóng khoáng, rồi đưa ngay tô bún cho cánh tay khác ở ghe kế bên vẫy chờ. Một du khách nữ miệt ngoài đi cùng đoàn khen: “Người miền Tây dễ chịu thật. Gọi mà bỏ đi như vầy ở ngoài Bắc là bị mắng te tua”.

    Chợ nổi Cái Răng ghe xuồng tấp nập, buôn bán sôi động không khác gì cái chợ trên bờ. Thỉnh thoảng cũng có vài ghe máy chở đoàn khách Tây, giơ máy ảnh chụp lia lịa. Tiếc là họ đến hơi trễ, không mục kích được cảnh nhộn nhịp nhất của chợ trên sông. Một người chung đoàn tiếc: “Chợ nổi Cái Răng của mình là chợ thiệt, hấp dẫn hơn chợ nổi “giả” ở Thái Lan nhiều. Vậy mà du lịch xứ mình chưa khai thác hết”. Chợ xứ người chỉ nằm gọn trên cái hồ nước, chợ của ta nhóm trên cả mặt sông rộng lớn...

    Chuyện của vùng sông nước

    Nói về tên Cái Răng, có nhiều cách giải thích khác nhau. Có giai thoại cho rằng ngày xưa vùng này có con cá sấu lớn, răng của nó cắm vào mỏm sông nên gọi là Cái Răng. Theo cụ Vương Hồng Sển thì tên Cái Răng có nguồn gốc từ chữ “cà ràng” đọc trại mà ra. Hướng dẫn viên thì kể, ngày xưa trên dòng sông này có đôi tình nhân yêu nhau tha thiết. Một hôm, cô gái bị một con cá sấu lớn ăn thịt. Chàng trai bèn giết chết cá sấu trả thù cho người yêu. Chàng lột da, chặt con sấu ra nhiều mảnh. Cái răng của con cá sấu nằm ở khúc sông này, còn da và đầu sấu nằm ở khúc sông phía trên nên có cây cầu tên Cái Da và Đầu Sấu. Giai thoại tuy có vẻ rùng rợn nhưng du khách lại thích câu chuyện tình yêu, lãng mạn nơi dòng sông lao xao này hơn.

    Quote:

    Chợ nổi Cái Răng họp từ tờ mờ cho đến khoảng 7 – 8 giờ sáng thì vãn. Đi chợ nổi vào khoảng 5 giờ sáng là thời điểm đẹp để tham quan. Từ bến Ninh Kiều ngồi ghe đến chợ nổi mất khoảng 30 phút.
    Trở lại chuyện buôn bán, hướng dẫn viên nhắc mọi người chú ý đến cây bẹo cắm trên mũi ghe, tàu. Nhìn món hàng treo trên cây bẹo để biết ghe, tàu đó bán món gì. Trước đây, từng có chuyện vài du khách nữ “sớn sác” hỏi mua quần áo của chủ ghe đang phơi trên dây!

    Cũng vì ghe xuồng đông như xe gắn máy ở Sài Gòn mà nhiều khách ú ớ khi nghe hướng dẫn viên đố: “Cái chỗ đổ xăng ở đây gọi là gì?”. Du khách Sài Gòn lại có dịp cười ha hả khi nghe dặn dò: “Mai mốt có dịp đi xe máy về vùng sông nước này mà hết xăng, nên hỏi người ta cây dầu ở đâu để đổ... xăng”.

    BÀI VÀ ẢNH: MINH CÚC

  7. Tiếc quá! ĐX không hay thông tin in tuyển tập để gửi bài tham gia. Đành hẹn lại tuyển tập sau vậy. ĐX đăng ký mua ủng hộ diễn đàn 5 quyển. ĐX đã gửi thông tin đăng ký vào mail BQT.

     

    HiHi! Hay quá tuyển tập như là món quà mừng sinh nhật của Thanh hải ngày hôm nay! Chúc mừng!

    Hôm nay là Sinh nhật anh Thanh Hải à! Xin chúc mừng anh! :flowers: Chúc anh sang tuổi mới được nhiều sức khỏe và có nhiều sáng tác hay nhé!


  8. Một bữa nào đó, chợt thấy mình là người miền Tây, lại làm báo, mà rất ít hiểu biết về miền Tây, giống in như một người con cứ mãi rong chơi đâu đâu, lâu lắm không thèm về quê mẹ, hoặc nếu có cũng chỉ đáo qua. Vậy là cứ mỗi khi có dịp, tôi lại “kiếm cớ” một chuyến đi…

    3Xhpm.jpg
    Đánh cá trên sông Cửu Long.

    Muốn “đi bụi” miền Tây, bạn không cần gì nhiều đâu. Vài bộ đồ nhẹ nhàng, giờ có thẻ ATM thì tốt rồi nhưng vẫn phải dằn túi chút đỉnh, bởi cái máy này chỉ khi vui nó mới chịu nhả tiền ra thôi. Và thể nào cũng phải có người thân, bạn bè chí cốt, đủ để chia sẻ những hoàng hôn lặng lẽ hoặc vài tia nắng đầu ngày…

    Miền Tây là xứ sở sông nước, nên có thể men theo sông mà đi miết là có thể tới bất cứ nơi đâu.

    Nếu bắt đầu từ “cái rốn” là Vĩnh Long, cứ ngược sông Hậu sẽ đến nơi mà dòng Mekong bắt đầu có tên gọi Cửu Long và chia làm 2 nhánh sông Tiền và sông Hậu tại Tân Châu. Chẳng hiểu sao, khi đứng ở ngã ba sông này, lòng chúng tôi cứ nôn nao, như thể “chạm” được vào quê hương.

    Sông cái mênh mông là vựa cá cho Nam Bộ. Cá bông lau, cá ngát và con cá tra, ba sa từ biển Hồ theo mùa nước nổi về đây, đã làm nên làng bè lớn vào bậc nhất miền Tây. Từ đây, con khô cá tra phồng, khô sặt rằn, khô cá dứa thơm nức cả vùng. Chỉ ngó món mắm ruột làm từ ruột cá lóc hay món mắm thái, lạng từ nạc cá lóc cũng đủ hình dung ra vùng đầu nguồn cá bạc tôm vàng.

    UbZOn.jpg
    Nét đồng quê, mộc mạc của miền Tây.

    Đứng bên đây bờ Tân Châu, ngó qua bên kia đã là sông Tiền miệt Hồng Ngự (Đồng Tháp), nơi mà con cá tra giống nhân tạo đầu tiên được sinh ra, đã giúp người miền Tây hơn chục năm nay thêm nhiều triệu phú, tỷ phú, đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia hàng đầu về xuất khẩu thủy sản nước ngọt. Và cũng trải lắm thăng trầm để học bài học “chợ nhà- chợ quốc tế” không thiếu đắng cay.

    Như Trưởng Phòng Nông nghiệp và PTNT Hồng Ngự, Nguyễn Trạng Sư đăm chiêu nói với chúng tôi: “Bây giờ không còn ai làm nghề vớt cá giống, vì còn đâu mà vớt. Nhưng cũng không ít những “đại gia cá giống” mà tên tuổi đã vượt rất xa khỏi huyện lỵ nhỏ bé này”.

    Men theo sông Tiền, đi qua những xóm làng trù phú. Với những tên cây tên trái mang bóng hình xứ sở, đậm vị quê hương, sầu riêng Sáu Ri hay vú sữa Lò Rèn, xoài cát Hòa Lộc… Rồi xuôi dòng ra biển cả, để qua xứ dừa Đồng khởi- Bến Tre, nơi có diện tích dừa lớn nhất, nhiều giống dừa nhất cũng như nhiều sản phẩm chế biến từ dừa- không chỉ nhất của ĐBSCL mà còn nhất nước. Ngó cây dừa sai oằn trái và nhấp ngụm nước dừa xiêm, làm sao không nhớ mấy câu thơ “tôi lớn lên đã thấy dừa trước ngõ, dừa ru tôi tiếng hát tuổi thơ…” mát rượi tận đáy lòng.

    Đứng trên đập Ba Lai lộng gió- một trong chín cửa sông rồng đã được đầu tư cải tạo thủy lợi, để cảm nhận sự giàu có của vùng duyên hải miền Tây. Bên này đập là biển mặn đục ngầu, nhưng bên trong đã là nước ngọt phù sa. Đã có nhiều tranh cãi về chuyện làm thay đổi một vùng đất đặc thù cửa sông. Nhưng theo người dân nơi đây, đập đã giúp giữ ngọt ngăn mặn trong thời gian qua. Chắc sẽ càng có ích trước biến đổi khí hậu và nước biển dâng trong tương lai.

    Con nghêu Bến Tre giờ đây cũng đã hết phận long đong, nổi tiếng tầm “quốc tế”, ngư dân hét giá hàng vài chục ngàn đồng một ký. Cũng ở đây, cảnh tranh cướp nghêu đã gợi lên nhiều suy nghĩ lẫn băn khoăn...

    Một chiều nào đó, “nghe tiếng đàn ai rao sáu câu…” tôi lại men theo dòng Hậu Giang về xứ Bạc Liêu, vùng đất của bản ca vọng cổ đầu tiên “Dạ cổ hoài lang” buồn man mác, để ra cửa biển Trần Đề ngóng vọng xa khơi. Làm quen với những người đầu sóng ngọn gió và nếm thử con cá dạ đỏ ngọt lừ, đang là “vua xuất khẩu” giá mỗi ký vài trăm ngàn đồng. Nếm thử hạt muối mặn lừ của mưa gió thị trường. Lắng lòng nghe câu chuyện đường sá khó đi, xăng dầu đắt đỏ, bão tố nguy nan… của ngư dân. Hiểu rằng, mỗi miếng ăn từ biển đẫm mồ hôi và nước mắt.

    AHTN2.jpg
    Mưu sinh mùa nước nổi.

    Đi qua những ruộng vườn, sông nước mà không gặp người miền Tây thì coi như… chưa tới đất này.

    Thật mà, tôi đã gặp những người miền Tây, mà qua thời gian, nhiều người tôi đã quên mặt, quên tên, nhưng tình người vẫn đậm đà trong hoài niệm. Đó là chén xôi nếp than với tôm thẻ kho mặn lúc nửa đêm- mà chị chủ nhà nuôi chúng tôi những ngày đi công tác đã đánh thức: “Nghe mấy em nói chưa biết ăn xôi nếp than. Chồng chị mới trút được mớ tôm tươi, chị nấu xôi, kho tôm liền. Dậy ăn đi cho biết”. Và chén xôi nửa đêm ấy- hẳn vợ chồng chị không hề biết rằng, đã nuôi dưỡng tâm hồn tôi, niềm tin tình người của tôi qua biết mấy quãng đường đời mà đôi khi rất thất vọng.

    Đó là dì Sáu vừa nhai trầu, vừa chỉ căn nhà trống huơ hoác, không cửa nẻo trước sau: “Có hai bồ lúa lận mà, bây ở tới chừng nào cũng được. Làm hết công chuyện hả dìa trển” ở một miệt đồng xa mút của Giá Rai. Còn anh Bảy thì băng cánh đồng xa mỏi mắt trong chiều chạng vạng để kiếm một ống khói đèn- giữ ánh sáng đêm bằng hạt đậu cho chúng tôi… ngủ.

    Đó là anh Việt, là chú Tám, chú Hai,… trải từ sông Tiền qua sông Hậu, từ cánh đồng đến đảo khơi, đã sẵn lòng giúp những “khách bụi đường xa” mà không hề mong một ngày đáp lại. Tôi thầm nghĩ, nếu ai chưa từng hiểu hoặc chưa từng biết tại sao Lục Vân Tiên có sức sống lâu bền đến vậy thì hãy vác ba lô lên lưng, làm một chuyến miền Tây.

    Tính ra, mình cũng đã có hàng chục năm trời với những chuyến đi, nhưng là một người miền Tây và thêm chút nữa- một nhà báo, tôi thấy mình mới hiểu được một phần quá nhỏ, mới chỉ “ngang qua” mà lại nợ nần biết bao nghĩa tình, biết bao điều chưa nói hết, chưa viết được. Như trăn trở của kỹ sư Nguyễn Trạng Sư cũng là của người miền Tây: “Nếu Ủy ban quốc tế sông Mekong không làm quyết liệt để tạo sự thông thoáng cho sông, thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến ĐBSCL cả về sinh hoạt, đời sống và sản xuất của người dân”. Cho nên ước mơ- bạn đừng cười đấy nhé, là sẽ “xuyên qua miền Tây”.

    Thật thích cảm giác khi thành phố nhỏ còn mơ ngủ, trong sương khuya lành lạnh, lặng lẽ chất ba lô lên xe rồi băng vào màn đêm mờ tối…

    PHƯƠNG NAM

  9. Làm nên nét đặc trưng Hà Nội là sự hội tụ của các yếu tố từ lối sống, văn hóa, kiến trúc nghệ thuật, là vẻ đẹp của phố cổ, của cầu Thê Húc, nhưng có lẽ chỉ những người đã sống, gắn bó và tìm hiểu nhiều mới biết được cái hay của ngõ Hà Thành. Chỉ là những ngõ những ngách nhỏ cũng đủ tạo nên một cái gì mang vẻ đẹp rất riêng của Hà Nội.

    avatar.aspx?ID=3508&at=0&ts=300&lm=63421

    Trong khi cả nước cùng hướng về Đại lễ, vui niềm vui chung của Thủ đô nghìn tuổi thì những người dân sống giữa Hà Nội, còn rất nhiều những cư dân phố cổ vẫn miệt mài với cuộc sống thường ngày của họ.

    Ngõ nhỏ, hồn xưa

    Cái ngõ giản dị đơn sơ là thế, có khi chỉ là cái lối đi quen thuộc nhưng lại đi vào thi ca nhạc họa cũng chẳng ít. “Nơi tôi sinh, Hà Nội, ngày tôi sinh một ngày bỏng cháy. Ngõ nhỏ, phố nhỏ nhà tôi ở đó..” Bài hát ấy đã từng là niềm day dứt, là nỗi nhớ của biết bao người con thủ đô mỗi khi xa nhà, xa quê hương.

    Hà Nội còn rất nhiều ngõ phố mà mỗi cái tên đều chứa một phần lịch sử. Những Tạm Thương, Đại Đồng, Cống Trắng, Liên Trì, Thổ Quan, Lệnh Cư, ngõ 16 phố Ngõ Gạch... đều đậm đà dấu ấn riêng, làm nên hồn cốt của phố phường Hà Nội.

    Bác Trần Trọng Hiếu, 62 tuổi sinh ra và lớn lên ở ngõ Cống Tráng, ngày ngày vẫn ra đầu ngõ ngồi nhâm nhi chén trà nóng, đánh cờ ôn chuyện xưa cùng với mấy ông bạn già.

    Với bác Hiếu, cuộc sống thường ngày của những người dân trong con ngõ nhỏ nơi bác sống vẫn không có chút thay đổi mấy, ngõ nhỏ là những kí ức của thời xã xưa nơi lưu giữ những kỉ niệm tuổi thơ nô đùa cùng đám bạn trong phố, là những ngày ra đầu ngõ đứng đợi mẹ đi chợ mua quà về...

    “Nếu nói về Hà Nội, tôi có thể nói được về những địa danh nổi tiếng như hồ Hoàn Kiếm, Văn Miếu hay những đặc trưng như cốm Vòng, hương thơm hoa sữa… Đó là những nét đẹp của Hà Nội không thể xóa nhòa, nhưng từ trong sâu thẳm trái tim tôi, Hà Nội đẹp từ những điều bình dị nhất, chẳng hạn như con ngõ nhà tôi vậy…,” bác Hiếu chia sẻ.

    Không chỉ bác Hiếu, mà rất nhiều người Hà Nội đều muốn đi tìm lại nét xa xưa, hay lặng mình sống với thời gian yên tĩnh trong phút chốc, tránh xa cuộc sống hối hả, xô bồ chảy trôi.

    Nằm lọt thỏm trong con ngõ Tạm Thương là cửa hàng sửa đồng hồ của bác Phú, căn phòng tối, ẩm thấp lại bừng lên ánh sáng một góc phòng, người thợ già vẫn chăm chỉ nâng niu sửa những chiếc máy” đếm thời gian”. Công việc của bác cũng chính là nhịp đời của những người dân trong ngõ, vẫn bình lặng, nhẹ nhàng và phảng phất chút xưa trong phố.

    Góc phố nhỏ bác ngồi dù lặng lẽ vẫn "thoảng" lên một không khí rất Hà Nội. Nó toát ra từ những chiếc cờ được cắm ngay trên nóc nhà, từ bức ảnh bác Hồ nâng niu trong căn nhà nhỏ, từ sự cần mẫn chịu khó làm ăn của người thợ sửa đồng hồ, từ những bài hát quen thuộc về Hà Nội mà bác đang nghe từ chiếc đài đặt trên tường.

    Bác Phú lại chọn cho mình cách cảm nhận về không khí Đại lễ rất riêng: “Không khí Đại lễ nơi đâu cũng nhộn nhịp và sôi nổi, nhưng mỗi người đều có cách đón nhận khác nhau. Tôi thích đi dạo những con đường phố cổ vào ban đêm, được ngắm nhìn phố phường Hà Nội và Hồ Hoàn Kiếm lung linh ánh điện trông rất huyền ảo và đẹp mắt.”

    Ai đã ở Hà Nội lâu năm, đã từng đến nhiều con ngõ nhỏ thì dù có đi xa về gần cũng không bao giờ quên nét đẹp bình dị, thân thương này của phố phường Hà Nội.

    Lắng đọng thời gian của phố

    Trên đường Thụy Khuê, một cái cổng làng bằng gạch cũ kĩ mở ra một con ngõ nhỏ lát gạch sạch sẽ, đó có thể là đường dẫn vào một làng cổ. Bước vào thế giới đó, ta không bị ngợp trong khói bụi, ồn ào mà chỉ thấy những khoảng tường lộ gạch lên rêu màu thời gian. Lặng lẽ đắm mình trong không gian ấy để thấy chút hoài niệm xưa cũng là sở thích của không ít người. Đôi khi muốn ngồi lặng trong cái quán trà nơi ngõ nhỏ mà nhìn ra cảnh phố thị ồn ào tấp nập, nhìn dòng người xe hối hả ngược xuôi, để thấy ngõ cho mình những cảm xúc dịu dàng dấu kín.

    Theo bác Trà, một cư dân lâu năm trong ngõ Thổ Quan thì sống trong những con ngõ nhỏ mới thấy được những rung động tận chiều sâu tâm hồn, để nghe tiếng gọi ngàn xưa vang vọng lại chính là những mảng tường thô ráp, những mái ngói nhấp nhô trong các ngõ nhỏ, những chiều ngồi trên tầng hai của nhà hướng mắt xuống con phố để ngắm nhìn những ánh nắng vàng mật chiếu rọi suống đường.

    Lục trong góc hòm bụi bặm, bác Trà mang cho chúng tôi xem những bức thư và chiếc tem cũ kỹ ngày trước mà chồng bà đi bộ đội gửi thư về. Những bức thư với nét chữ vội vàng bị thời gian làm mờ đi nhưng vẫn tròn vành rõ chữ, gửi gắm vào đó là những câu chuyện về thời chiến tranh, những lời hỏi thăm về gia đình, về sự thay đổi của góc phố.

    Những ngày Đại lễ, bác Trà lại cố gắng đi xem những sự kiện mang tính dân tộc như triển lãm ảnh chợ xưa, những điệu múa cổ, những di tích lịch sử để gợi nhớ về những tinh hoa văn hóa, những giá trị lịch sử hào hùng của dân tộc.

    Mỗi ngõ nhỏ Hà Nội đều lưu giữ hồn xưa trong đó. Nói về các con ngõ nhỏ thân thương của đất Hà thành, nhà văn Băng Sơn, một người cả đời dành những trang viết cho Hà Nội đã từng viết: “Xin một lần ghé thăm để đừng quên là Hà Nội vẫn còn nhiều ngõ nhỏ rất riêng Hà Nội, như tâm hồn ta vẫn còn những khoảng sâu lắng đôi khi mới có dịp lần giở đến... vào một hôm nào trở gió... Mong sao những ngõ nhỏ ấy, những góc sâu trong tâm hồn ấy đừng bị những ào ạt của xây dựng phá phách, xâm lăng mất”.

    Trong không khí Đại lễ, những người dân trong các ngõ nhỏ và các khu phố cổ vẫn lựa chọn cho mình một cách chào mừng sự kiện trọng đại văn hóa lớn của đất nước, dù thầm lặng nhưng vẫn thể hiện tình yêu Hà Nội luôn có trong trái tim họ.

    Bác Nguyễn Đức Nam, đã mấy chục năm nay sống tại ngõ Chợ Khâm Thiên, con ngõ hun hút sâu, chạy ngoằn ngoèo suốt dọc khu phố bom ngày trước. Mấy hôm rồi, lá cờ đỏ bay phần phật trước cửa nhà bác. Bác kể, tối nào, cả gia đình 5 người cũng bắt xe buýt lên phố cổ, đi dạo và nhìn dòng người ngược xuôi đủ sắc màu.

    Khác với bác Nam, cụ Nguyễn Thị Mùa, năm nay 80 tuổi sống tại ngõ Trạm nhiều năm về trước. Đến tuần Đại lễ, cụ cứ nằng nặc đòi con cháu đưa về con ngõ nhỏ gắn liền với tuổi thơ của mình.

    “Dịp này, nhìn con ngõ ngày nào rực rỡ cờ hoa, đông kịt người, tôi lại nhớ da diết những ngày còn bé,” cụ Mùa rưng rưng.

    Cụ cũng bảo, Hà Nội bước vào Đại lễ, lòng những người đã sinh ra, lớn lên và gắn bó cùng với những góc nhỏ nhất của thành phố này cũng đang rung lên những nhịp điệu riêng của mình./.

    Mạnh Hùng - Sơn Bách (Vietnam+)

  10. Trong phần đất thuộc khu mộ Quốc Công Phạm Đăng Hưng - thân sinh của Hoàng Thái Hậu Từ Dụ ở Lăng Hoàng Gia (ấp Lăng Hoàng Gia, xã Long Hưng, thị xã Gò Công, Tiền Giang) có hai tấm bia đá phía trước.

    Đó là hai tấm bia ghi nhận công lao của cụ do vua Tự Đức ban tặng. Điều lạ là một trong hai tấm bia đó lại có khắc chữ tiếng Pháp mang tên một viên sĩ quan Pháp là Barbe. Tấm bia được chuyển bằng đường biển từ Huế vào Gò Công năm Tự Đức thứ 10 (1858). Nhưng phải mất 140 năm sau, tấm bia triều Nguyễn ấy mới về tới Lăng Hoàng gia. Gắn liền với thân phận lưu lạc của nó là một câu chuyện dài của lịch sử...

    Hành trình lưu lạc

    Theo tài liệu ghi lại, văn bia do Phan Thanh Giản và Trương Quốc Dụng soạn vào năm Tự Đức thứ 10 (1858) nhằm ca ngợi công đức của Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng.

    Vua Tự Đức sai chở bằng thuyền từ Huế vào Gò Công cùng với tượng Phật A Di Đà bằng gỗ mít, sơn son thếp vàng mang vào dâng cúng chùa Khải Tường - nơi Thuận Thiên Cao Hoàng hậu Trần Thị Đang đã hạ sinh Hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm (sau làm vua tên hiệu Minh Mạng) trên đường bôn tẩu trốn sự truy nã của quân Tây Sơn.

    Đó là tấm bia được tạc bằng đá trắng xứ Quảng Nam (có kích thước 160x120x15cm) được chuyển vào Gò Công để đặt tại lăng mộ Hoàng Gia, nơi thờ Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng.

    NOylF.gif
    Lăng mộ của Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng.

    Phạm Đăng Hưng là một vị quan văn võ song toàn, nổi tiếng liêm khiết nên rất được triều đình và nhà vua trọng dụng. Ông được triệu về Kinh giữ chức Lễ Bộ Thượng Thư. Sau đó, ông được giao giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều như: chưởng trưởng Đà sự, Quản Khâm Thiên giám, rồi tổng tài Quốc sử quán...

    Ông còn là cha vợ của Thái tử Miên Tông - con trai vua Minh Mạng, sau lên ngôi lấy tên hiệu là Thiệu Trị. Đồng thời là cha chồng của công chúa Quy Đức - Hoàng nữ thứ 18 của vua Minh Mạng. Năm 1825, ông bị bệnh rồi qua đời tại Huế, được mang về an táng tại quê nhà. Đến năm 1826 thì Lăng Hoàng Gia được xây dựng bởi những bàn tay khéo léo của các nghệ nhân từ cung đình Huế do nhà vua phái vào. Đây cũng là nơi thờ tự của 5 đời dòng họ Phạm Đăng.

    32 năm sau, vua Tự Đức cho người làm tấm bia đá ca ngợi công đức của ông. Nhưng khi tàu thủy từ Huế chở vào đến cửa ô Cấp - Vũng Tàu (cửa biển Cần Giờ ngày nay) thì bị quân Pháp bắt giữ, chúng tịch thu toàn bộ, đưa về chùa Khải Tường (hiện nay là Bảo tàng Chứng tích chiến tranh ở TP HCM) cất giữ.

    Sau khi đánh chiếm thành Gia Định tháng 2/1859, hải quân Pháp bố trí đồn trú hầu hết các nơi có đình chùa linh thiêng và những dinh thự liên quan đến triều Nguyễn.

    Viên Trung úy Pháp Barbe chiếm giữ chùa Khải Tường lập đồn trú, đem hết tượng Phật quăng ra ngoài, cưỡng bức sư sãi rời chùa. Tượng Phật vua Tự Đức ban làm bằng gỗ mít và tấm bia đá chúng cướp tại cửa biển ô Cấp - Vũng Tàu, trên chuyến thuyền của nhà Nguyễn từ kinh đô Huế vận chuyển vào, cũng từ đó bắt đầu số phận lưu lạc của mình.

    Nhưng tượng đá cũng có linh hồn, văn bia cũng có số phận, không ai có thể ngờ được rằng, tấm bia nặng vài tấn kia lại mang trên mình lịch sử của một triều đại, một dân tộc, gắn với một dòng tộc thuộc vào hàng hoàng thân quốc thích thời Nguyễn.

    Do rất thích tấm bia đá to sừng sững, viết chi chít chữ Tàu nên viên sĩ quan Barbe giữ nó lại. Sau đó, Barbe bị nghĩa quân Trương Định dùng mưu "mỹ nhân kế" giết chết. Cái chết của viên sĩ quan người Pháp được lưu truyền trong sử sách với công đầu tiên thuộc về một người con gái có tên Thị Ba (còn gọi là Nàng Hai Bến Nghé). Sau này được dựng thành vở cải lương nổi tiếng ở Nam Bộ "Nàng Hai Bến Nghé". Nàng Hai này bị chồng - một tên tay sai két tiếng tàn ác thả bè trôi sông cùng với gười yêu cũ do hắn ta nghi ngờ hai người còn tư tình với nhau.

    Trong khi anh người yêu bị cá sấu cắn mất một chân đến mất máu mà chết, thì Nàng Hai không chết mà được Barbe cứu sống. Viên sĩ quan Pháp nhìn thấy cô gái trẻ đẹp thì đem lòng si mê và ép Nàng Hai làm vợ.

    Nàng giả vờ ưng thuận rồi xin được trở về nhà thu xếp. Khi về nhà, nàng tiếp tục bị chồng trói lại giam dưới một cái hố. May mắn nàng gặp được Trương Định đi qua và cứu nàng thoát chết. Và Nàng Hai nhận lời dụ Barbe tới chỗ hẹn, giúp cho nghĩa quân Trương Định mai phục, diệt quân xâm lược, trừ khử bọn ngoại bang cướp nước. Còn tên sĩ quan Pháp Barbe đã mắc mưu, một mình phi ngựa tới chỗ hẹn với nàng Hai, và bị nghĩa quân bất ngờ giết chết vào năm 1860.

    Khi viên sĩ quan Barbe chết, quân Pháp rất tức giận. Biết lúc sống, Barbe thích tấm bia đá nên quân Pháp mang luôn tấm bia đặt tại mộ Barbe trong nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi (công viên Lê Văn Tám ngày nay). Chúng quay mặt trước của bia vào trong, mặt sau bia thì chúng ghi tên họ, mộ chí Trung úy Barbe và quay ra ngoài. Bên trên dùng sơn màu đen khắc vẽ hình cây Thánh Giá, ngày nay vẫn còn dấu khắc chạm và màu sơn khá rõ. Lâu dần, tấm bia đổ xuống, nằm phơi sương gió trong sự quên lãng của người đời.

    Tháng 5/1983, khi UBND TP HCM quyết định di dời nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi để xây dựng Công viên Văn hóa Lê Văn Tám. Sau khi bốc cốt trung úy Barbe đưa về Pháp, các công nhân dọn dẹp san lấp mặt bằng phát hiện một tấm bia đá lớn nhưng không biết đó là báu vật của vua ban lưu lạc trên 140 năm.

    Tấm bia được giao cho các nhà khảo cổ nghiên cứu. Họ đã phát hiện ẩn bên trong hình cây Thánh giá là chi chít chữ Hán khắc chạm rất công phu và tinh xảo, xem xét kỹ thì đó chính là bia văn do vua Tự Đức ban gửi về Gò Công đặt tại mộ ông ngoại của mình. Nhưng phải đến tháng 7/1998, tấm bia mới được đưa về ấp Lăng Hoàng Gia, xã Long Hưng, TX. Gò Công, kết thúc hành trình 140 năm lưu lạc của mình.

    Trở về chầu phục trước lăng mộ Quốc Công Phạm Đăng Hưng

    Ngày nay, đến thăm Lăng Hoàng Gia, ghé qua khu mộ dòng họ Phạm Đăng và cụ Phạm Đăng Hưng, sẽ thấy phía trước là hai tấm bia đá lớn đặt đối diện nhau. Nếu tính từ cổng vào, tấm bia đá bị lưu lạc 140 năm đặt ở phía trái. Tấm bia bên phải là tấm bia do vua Thành Thái sai làm năm 1899, thay thế cho tấm bia mà triều Nguyễn tưởng rằng đã bị mất vĩnh viễn.

    Lại gần nhìn kỹ, trên tấm bia đá này chồng chéo những chữ viết bằng tiếng Hán và cả tiếng Pháp. Một tấm bia đá mang tên của hai người chết. Một người là cha vợ vua, có công với nước. Còn một là vị quan Pháp, là kẻ đi cướp nước. Người ta đã tôn trọng lịch sử, giữ nguyên hiện trạng của nó khi tìm thấy mang về đây. Và tiền nhân, chắc cũng không nỡ trách gì hậu thế, khi mà đất nước một thời chìm trong loạn lạc bởi giặc ngoại xâm. Và tấm bia đá cũng chịu chung số phận.

    Đất Tiền Giang - Gò Công chưa từng là nơi đóng đô của một triều đại phong kiến nào. Cũng chưa từng là nơi an táng của bất kỳ ông vua bà chúa nào, chỉ có khu lăng mộ của dòng họ Phạm Đăng, bên ngoại của nhà vua, nổi tiếng đất Nam Bộ thế kỷ 18 - 19. Nhưng người đời vẫn gọi tên khu lăng mộ có kiến trúc mang đậm nét phong cách cung đình Huế này là Lăng Hoàng Gia.

    Nằm cách đường Quốc lộ 50 chỉ khoảng 100m nhưng khu mộ Lăng Hoàng Gia này dường như tránh xa khỏi sự ồn ào vốn có của đời sống thường nhật và tiếng còi xe qua lại. Sau bức tường bao quanh, khuôn viên khu Lăng Hoàng Gia yên tĩnh vô cùng, chìm trong không khí của sự cổ kính, tôn nghiêm vốn có của nó.

    Dòng họ Phạm Đăng từ Quảng Ngãi vào vùng Gò Công này lập nghiệp và sinh sống đến đời thứ tư là ông Phạm Đăng Dinh. ông Phạm Đăng Dinh là một nhà nho học, chuyên dạy học cho dân quanh vùng.

    Tương truyền, vào một đêm mưa gió bão bùng, có một vị khách lạ người Hoa vượt qua sông thì đói lả người, dáng đi ngả nghiêng xiêu vẹo, ghé vào nhà ông Dinh xin bữa ăn và ở nhờ qua đêm mưa bão bất thường. Vốn thương người và hiếu khách nên ông Dinh sai vợ con làm cơm đãi khách và trò chuyện thâu đêm.

    Hôm sau thức dậy, vị khách rất cảm kích tấm lòng ông Dinh, nên đã nói rằng là một thầy địa lý đang vi hành tìm long mạch. Để tạ ơn ông Dinh, vị khách này chỉ cho ông biết đất Gò Rùa có dáng khom khom như dáng cái mai rùa, táng huyệt thân phụ ông vào đó, ngày sau con cháu sẽ được thịnh vượng tột đỉnh công danh.

    Nghe lời vị khách ông Dinh bèn sai con trai Phạm Đăng Long về Quảng Ngãi mang hài cốt ông nội là Phạm Đăng Tiên vào táng tại Gò Rùa. Quả nhiên lời thầy địa lý năm xưa rất linh ứng? Năm 1796, cháu nội ông Dinh là Phạm Đăng Hưng sinh năm 1764 tại Gò Rùa, thi đỗ Tam trường tại trường thi Gia Định. Vào thời kỳ vua Gia Long lưu lạc, Phạm Đăng Hưng có công phò vua dựng nghiệp nên rất được trọng dụng. ông hai lần kết sui gia với vua Minh Mạng, giúp dòng họ Phạm Đăng trở thành dòng dõi hoàng thân quốc thích qua mấy đời vua.

    Chuyện về phong thủy trên, có lẽ phần nhiều do hư cấu, mà chính là truyền thống hiếu học, thông minh, phẩm cách đạo đức của một gia đình truyền thống nho học đã giúp dòng họ Phạm Đăng được rạng danh như vậy.

    Thậm chí tới nay, khi có một số mộ chí, từ đường của các vị hoàng thân quốc thích khác bị bỏ quên, hoang tàn, không ai nhắc tới, thì khu lăng mộ này vẫn nổi tiếng và được chăm sóc, gìn giữ cẩn thận. Danh tiếng của một dòng họ tưởng đâu chỉ một thời vang bóng đến giờ vẫn không hề mất đi, đời đời được nhắc nhớ. Thú vị làm sao, đến ngay một tấm bia đá ghi nhận công lao của họ mà cũng có một thân phận khác lạ đến vậy, lưu lạc trong nhân gian những 140 năm.

    Theo Nguoiduatin

  11. Mùa hè, tôi lại ưa về miền Tây Nam bộ hơn bởi là mùa trái cây rộ nhất. Chợ Lách là nơi tập trung đủ các loại vườn chuyên canh trái cây đặc sản Nam bộ, mà hầu như vườn nào cũng cho trái ngon. Bởi xứ này sản xuất giống cây ăn trái lớn nhất nước, nên nhà vườn ở đây tuyển toàn giống ngon để trồng.

    ImageHandler.ashx?ImageID=176496
    Trái chín được hái ăn bằng thích!

    Tôi nhớ cách nay mười năm, lần đầu tiên được rủ “đi Lách” (cách nói tắt của người dân huyện Chợ Lách, Bến Tre) vào dịp tết Đoan Ngọ. Sau khi đi hết mấy vườn trái cây, cơ sở làm cây giống, kiểng thú, rồi ra cồn Tiên xem dân địa phương trẩy hội tắm bùn sông, chị Minh Hương, giám đốc một công ty du lịch, nhận định ngay “xứ này làm du lịch được đấy!” Nhưng suốt mấy năm sau, cầu, đường trong huyện đều nhỏ hẹp, nhà nghỉ sơ sài đã làm cho bao lượt công ty lữ hành về đây khảo sát rồi lại đi. Còn chúng tôi vẫn cứ mê những vườn sầu riêng, măng cụt, xoài tứ quý, nhãn, bưởi da xanh, chôm chôm…, mê những nhà vườn giỏi làm cây giống, trồng hoa kiểng, mê những nghệ nhân uốn kiểng thú nên ít nhất hai năm lại cùng gia đình về chơi.

    Vào vườn no trái

    Không còn cảnh chờ qua phà nữa, nên chỉ hai tiếng rưỡi ngồi xe từ TP.HCM, 9 giờ sáng chúng tôi đã về đến Chợ Lách. Đi lần này có bốn anh chị người Hà Nội vào Nam làm việc, rất muốn khám phá miệt vườn sông nước miền Tây. Chợ Lách thay đổi khá nhiều, đường sá rộng rãi, khang trang hơn so với những năm trước. Mùa trái cây nên đi đâu cũng thấy vườn trĩu quả, từ đường làng đến lộ lớn, nhà vườn chở trái cây ra vựa liên tục. Các anh chị người Hà thành háo hức vào vườn ăn cây trái Nam bộ mới hái xuống vì ở quê họ, phải bỏ ra gấp đôi ba lần tiền mới mua được.

    Xem ra người dân Chợ Lách đã muốn làm du lịch, tìm một chiếc ghe để đi dọc sông, qua các cồn không khó như trước. Chiếc ghe của anh Tấn Đức ở xã Vĩnh Bình đóng mái khá đẹp, lòng ghe có ghế ngồi, có bạt che hai bên khi mưa. Ghe ghé vào vườn có tấm bảng “Điểm dừng chân vườn du lịch sinh thái Tám Lộc”, trên đó có tên công ty du lịch Bảo Duyên và phòng văn hoá thông tin huyện Chợ Lách. Hoá ra đến giờ tiềm năng du lịch ở Chợ Lách đã được các công ty du lịch nhìn thấy, có họ bắt tay vào, nhà vườn biết cách đón khách bài bản hơn. Mấy cây nhãn ngay lối vào oằn trái, nhưng chưa thơm; ông Tám Lộc đãi mọi người sầu riêng, chôm chôm rồi dẫn mọi người ra vườn bẻ trái, ghi hình... Nhà ông Tám Lộc cũng có nhận đặt bữa ăn cho khách. Tiếc quá, chúng tôi đã ăn trưa trên thị trấn, nếu không đã được dịp dùng bữa cơm gia đình nhà vườn miền Tây.

    Ghe anh Đức tiếp tục đưa chúng tôi đến vườn xoài Thanh Sơn. “Giống xoài Thanh Sơn trái bốn mùa, trái nhỏ thì 800 – 900g, trái to đến 2kg, ăn giòn hay ăn chín đều ngon, giá ra chợ là 60.000 đồng/kg”, chủ vườn có vẻ tự hào về giống xoài do chính gia đình mình lai tạo. Không cần biết chúng tôi có mua hay không, chị chủ gọt ngay một trái vỏ màu vàng nhạt, một trái chín vàng đậm, trái nào cũng cả ký đãi khách, cũng là để quảng bá. Giống ngon và hột xoài nhỏ xíu. Mới vào hai vườn mà mọi người có vẻ muốn bỏ cơm chiều vì no trái cây!

    Nếu đi cho đủ các loại vườn trái cây, có lẽ bụng ăn không thấu, nhưng không thể bỏ qua vườn măng cụt vì loại cây này chỉ có trái một mùa trong năm. Nhà vườn măng cụt không cho khách vào vườn tự hái vì trái măng cụt khó phân biệt trái chín ăn được, không như chôm chôm...; nhưng để khách thoả thích, chủ vườn đi theo chỉ cho khách trái có thể hái ăn được.

    ImageHandler.ashx?ImageID=176499
    Nếu đi chơi nhiều nhà vườn trong mùa này e bụng không chứa nổi trái cây!

    Ra chơi cồn, ăn ốc, tắm sông

    Khúc sông ra cồn Phú Bình thật đẹp, mùa này nước trong veo, hai bên bờ sông, giữa những vườn trái cây là từng hàng bần xanh mướt soi bóng xuống mặt sông. Anh Hữu Vĩnh, phụ trách du lịch của huyện nói, ban đêm đom đóm sáng cả khúc sông, nhiều hộ làm vườn dọc hai bên sông đang tính tổ chức dịch vụ vừa ngắm đom đóm, vừa câu cá ban đêm cho khách du lịch.

    Sông rạch ở Chợ Lách cũng cung cấp nguồn lợi thuỷ sản lớn cho người dân, đặc biệt ốc gạo cồn Phú Đa là đặc sản độc đáo của xứ này. Vào tháng 5 âm lịch, nhất là dịp tết Đoan Ngọ, người Chợ Lách cứ đãi khách thì làm mấy món: ốc gạo luộc chấm với nước mắm sả, ốc gạo cuốn bánh tráng với dừa nạo, gỏi ốc gạo, bánh xèo ốc gạo…, ai cũng thích thú những món dân dã mà ngon tuyệt này. Dân dã nhưng nó quý vì không phải mùa nào cũng có ốc gạo, thường chỉ có từ tháng 4 – 7 âm lịch, ốc ngon nhất là vào tháng 5. Quán Ba Ngói nổi tiếng cũng nhờ các món ốc gạo.

    Ngày hội tắm sông ở cồn vào dịp tết Đoan ngọ là nét đặc trưng nhất của dân Chợ Lách, đã có hơn chục năm và cả vùng miền Tây Nam bộ, chắc không đâu có ngày hội trên sông độc đáo như vậy. Ngày hội dân gian này trước kia tự phát ở cồn Tiên, ba năm nay đã được dời về cồn Phú Bình, huyện đứng ra tổ chức cho an toàn để bà con và du khách vui chơi. Nhiều người khi nghe về ngày hội này thì tiếc vì họ không có dịp về chơi đúng dịp tết Đoan ngọ. Anh Công Ơn, chủ nhà nghỉ Bình An đã có sáng kiến tổ chức cho khách đi tắm cồn bất cứ ngày nào vì ngoài cồn Phú Bình, Bến Tre còn một số cồn cũng có bãi bồi nước cạn cho khách xuống chơi sông. Nhiều người trước giờ chỉ biết tắm biển, nay mặc áo phao xuống bì bõm trên sông một cách thích thú.

    BÀI VÀ ẢNH: CÁC NGỌC-SGTT

    Quote:

    Xe buýt từ thành phố Bến Tre về Chợ Lách chạy liên tục trong ngày. Du khách đi theo đoàn có thể liên hệ bộ phận du lịch của phòng văn hoá thông tin huyện Chợ Lách (anh Hữu Vĩnh – 0917107111) để được hướng dẫn, tổ chức tour tham quan.

    Chợ Lách có một số nhà nghỉ, trong đó đẹp nhất là nhà nghỉ Bình An (gần cầu Cây Da) ở xã Vĩnh Thành, giá chỉ 80.000 – 160.000 đồng/phòng, nhận khách đặt ăn theo yêu cầu (ĐT: 075.2244233). Chủ nhân nhà nghỉ còn có vườn măng cụt, khách có thể ăn nghỉ trong vườn.

    Chợ Lách không chỉ có trái cây ngon, mà còn là xứ sản xuất hoa kiểng, cây giống. Khách tham quan các nhà vườn tạo hình kiểng bằng cây si, các vườn cây cảnh với nhiều loại kiểng lá, bonsai, các vườn ươm giống cây ăn trái, có thể mua về trồng.

  12. Ra đời từ năm 1923, trải qua nhiều thăng trầm lịch sử, bom đạn chiến tranh, hầm rượu Debay nằm trong lòng núi tại Bà Nà – Đà Nẵng vừa được phục hồi lại gần như nguyên trạng.

     

    20120620170140_hamruou1.jpg

    Cửa vào hầm rượu vừa được phục hồi.

     

    Trong quãng thời gian từ năm 1919-1938, đồng thời với việc xây dựng hàng trăm ngôi biệt thự cùng bệnh viện, bưu điện, ngân hàng… để phục vụ nhu cầu nghỉ mát của các quan chức, sĩ quan quân đội, thương gia người Pháp và những người Việt giàu có, người Pháp đã cho xây dựng hầm rượu này vào năm 1923. Mục đích cơ bản của việc xây dựng hầm rượu là để làm nơi cất giữ các loại rượu, đặc biệt là rượu vang mà người Pháp mang sang từ cố quốc.

     

    20120620170140_hamruou2.jpg

    Bên trong hầm rượu.

     

    Đây là công trình khá độc đáo bởi hầm rượu vốn thường chỉ được nhắc đến ở châu Âu. Đặc biệt hơn nữa, không giống các hầm rượu thường thì được đào sâu xuống lòng đất, hầm rượu này được đào xuyên vào lòng núi.

     

    20120620170140_hamruou3.jpg

    Nhiều loại rượu nổi tiếng thế giới đã được lưu giữ tại đây.

     

    Hầm rượu có tổng chiều dài từ lối vào đến lối ra khoảng 100 mét, chiều cao 2,5 mét, rộng khoảng 2 mét, bên trong có các hầm cất giữ rượu, hầm chưng cất rượu, bar rượu, lò sưởi, sảnh. Vách hầm được xây bằng đá núi và vữa làm từ hỗn hợp đường và nhựa cây bời lời – một loại cây khá phổ biến ở vùng Quảng Nam – Đà Nẵng. Trần hầm được đào theo hình vòm cung thể hiện lối kiến trúc mang đậm chất Pháp.

     

    20120620170439_hamruou4.jpg

     

    Hơn nữa, hình vòm còn giúp tạo nên sự vững chắc cho hầm rượu. Đó là lý do vì sao gần 100 năm qua, hàng trăm ngôi biệt thự lộng lẫy nguy nga một thời nay chỉ còn là những phế tích nhưng hầm rượu vẫn trường tồn với thời gian với sự khắc nghiệt của thiên nhiên và sự tàn phá của bom đạn trong chiến tranh. Đây cũng là công trình duy nhất của người Pháp còn lại khá nguyên vẹn tại Bà Nà – Đà Nẵng.

     

    20120620170439_hamruou5.jpg

    Các hốc rượu không chỉ cất giữ rượu vang mà có cả những bình rượu nấu của Việt Nam

     

    Nhiệt độ bên trong hầm rượu nói chung và các hầm này nói riêng thường khoảng 16 – 20oC. Đây chính là nhiệt độ lý tưởng để cất giữ các loại rượu vang. Trong hầm rượu có tất cả 14 hốc, gồm có 11 hốc nhỏ và 3 hốc lớn, mỗi hốc này đều có chủ riêng – là những chủ nhân của những ngôi biệt thự hoặc khách sạn tại Bà Nà trước đây, đăng ký gửi rượu trong hầm.

     

    20120620170439_hamruou6.jpg

    Trước đây, mỗi hốc rượu đều có chủ nhân.

     

    Một số người lớn tuổi trước đây từng làm phu cho người Pháp ở Bà Nà kể lại rằng, người Pháp cất giữ rượu vang trong những hốc này và mang ra tiếp đãi khách quý trong những buổi khánh tiết.

     

    Cùng với sự ra đi của người Pháp ở Việt Nam vào năm 1945, Bà Nà đã chìm vào quên lãng và hầm rượu cũng chịu chung số phận. Nó đã bị bỏ hoang trong một thời gian dài và khu vực này đã bị bom đạn đánh sập. May mắn thay, hầm rượu về cơ bản vẫn còn nguyên vẹn và đã được phục chế lại.

     

    20120620170738_hamruou7.jpg

     

    20120620170738_hamruou8.jpg

     

    20120620170738_hamruou9.jpg

    Những bàn rượu bên trong hầm rượu.

    Theo Dantri

    • Like 1

  13. Vùng Sài Gòn -Gia Định có nhiều địa danh rất đơn giản, biều lộ tính mộc mạc, tả chân, có gì thì nói đó của dân Nam, rải rác khắp nơi như Xóm Củi, Xóm Chiếu, Xóm Lò Gốm, Xóm Thơm, Xóm Lò Vôi, nhưng hiếm có một xóm có tên của động vật Xóm …Gà.

     

    Tôi cũng không thấy mấy ai viết về những cái xóm này. Tôi không biết ông Cố tôi đến định cư ở đây lúc nào, chỉ biết họ gọi nhà ông tôi là nhà ông Phó, nhà cất theo kiểu Pháp ông mất đi năm 1962 tròn 92 tuổi. Tôi sinh ra và lớn lên ở Xóm Gà cho đến khi rời Việt Nam, nên kỷ niệm của tôi về Sài Gòn và Xóm Gà rất thâm sâu, không bao giờ phai nhạt.

     

    DZRC3.jpg

    Nhà ông Phó

     

    Xóm Gà có một diện tích rất nhỏ (khoảng 3-4 cây số vuông), băt đầu từ ngã tư Xóm Gà (ngã tư Lê Quang Định và Nguyển văn Đậu, tên xưa ngã tư đường làng 15 - giờ là Lê Quang Định và 20) giáp giới với Đông Nhì (Bắc) Cây Thị (Đông) Cây Quéo (Tây) Bình Hòa (Nam)

     

    Xóm Gà, ngày xưa thuộc Bình Hòa Xả, quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định, là xả tiếp cận với quận 1 Sài Gòn chỉ cách nhau qua cầu Bông (trên đường Lê Văn Duyệt bây giờ là Đinh Tiên Hoàng) và cầu Sắt trên đường Bùi Hữu Nghĩa (xưa chỉ dành cho tuyến xe lửa ). Ngày nay thuộc quận Bình Thạnh. phường 11. Ngày xưa có ba ga xe lửa nằm trên đường Lê Quang Định (Bình Hòa, Xóm Gà và Đông Nhì) trên tuyến đường Gò Vấp ra đến Sài Gòn. Tôi nhớ mang mán thấy đường rầy xe lửa và ga nữa. Đối diện vớí ga Xóm Gà là thành cai tổng Huy hay Qui gì đó kiến trúc đồ sộ, kiểu Pháp xưa (có lẽ trước đó là nhà của cai Tổng, sau bị trưng dụng ?). Hồi còn nhỏ, trước 1954 tôi thấy người ta bị bắt dẫn vào thành này thẩm vấn, có lúc bị bao đầu chỉ chừa mắt để chỉ điểm (thời Tây mà !). Sau thành này là đổi thành trường trung học Tân Phương, cạnh bồn nước (giờ vẫn còn) . Sở dỉ có tên Xóm Gà là vì nơi đây là trường đá gà, chớ không phải nuôi gà nhiều (tôi không thấy ai nuôi gà nhiều ở đây, ông cố kể lại trước đây, đức tả quân Lê văn Duyệt Tổng Trấn Gia Định thành rất thich đá gà, và ở vùng Saigon- Gia định có nhiều trường gà , trường gà lớn ở Quân 1 Sài Gòn, nghe nói gần dinh Độc Lập , bây giờ là Hội trường Thống Nhất ) và nhiều trường gà nhỏ, một ở Xóm Gà ! Đức tả quân thường đến trường gà lớn để chơi đá gà. Mộ đức tả quân và phu nhân hiện nằm trong khu Lăng Ông ở Bà Chiểu (gọi tắt là Lăng Ông Bà Chiểu).

     

     

    Gd6jv.jpg

     

    Đường Nguyễn Văn Đậu (trước đây là Ngô Tùng Châu, trước đó đường làng 20 không đèn, những ngày đầu được điện hóa, bà con đi dạo chơi như đi mở hội dưới ánh đèn vàng, không may tôi lại bị xe đạp tung vào, phải vào nằm nhà thương Chợ Rẫy mất một tuần). Đường này ngày xưa có một khu vườn rất lớn, gọi là vườn ông Thinh (của gia đình thủ tướng Nguyễn Văn Thinh thời Nam Kỳ tự trị ?), đoạn đường gần ngã tư Xóm Gà cũng nên thơ lắm có hai hàng cây sao ở hai bên đường, hoa sao có hai cánh nâu lúc rơi quay như bông vụ đặc biệt khi có gió thổi nhiều, học trò đi học về, nhặt hoa thẩy tung lên biến thành cả đàn chim cánh nâu tung bay quây tròn đẹp mắt. Tuổi thơ ngây thơ và đẹp quá phải không! Trên đường Ngô Tùng Châu củng có một đặc điểm thời đó là nhà hàng cây vườn bán thịt dơi, gọi là Quán dơi, theo tôi đuợc biết đây là quán dơi đầu tiên ở Sài Gòn-Gia Định, chuyên bán nhiều món thịt dơi, hình như sau đó một thời gian thì đóng (không nhớ khi nào).

     

    Ngay ngã tư Xóm Gà trước 75 có “bót” cảnh sát Nguyễn Văn Gặp và một tiệm mì-hủ tiếu-xíu mại-dầu chao quẩy-bánh bao, điển hình cho những tiệm ăn Tàu ở các ngã tư, ngả năm đông người qua lại thời đó. Thường má tôi sai tôi mang “gà mên” đi mua đem về ăn.

     

    Đường Lê Quang Định Xóm Gà đi về hướng về ngã tư Bình hoà, có nhà ông Thầy nước lạnh, ngày xưa , người ta đồn rằng nước lạnh được ông làm “phép” trị bá bịnh. Dân chúng có một thời đổ xô tới đây tràn cả ra đường, nhiều khi đến hổn loạn, ngày nào cảnh sát cũng phải đến giữ trật tự. Khu đất nhà ông thầy bây giờ là cao ốc cách ngã tư Xóm Gà khoảng hơn 100m, còn mộ của ông nằm trong Hưng Gia Tự ? phía bên kia đường cách đó khoảng 100m.

     

    Lúc nhỏ tôi chẳng hiểu tại sao và ba tôi không bao giờ tin điều ấy, ông Thầy nước lạnh làm chung sở với ba tôi, là một viên lục sự tại tòa án Sài Gòn nằm trên đường Công Lý (bây giờ là Nam kỳ khởi nghĩa) .

     

    Ngã tư Bình Hòa trước có quán cơm tấm rất nổi tiếng, giá bình dân, ngon nhất là cơm bì xườn, hoặc cơm với lòng heo phá lấu. Quán của bà chỉ bán từ 5 gìờ sáng đến 11-12 giờ trưa là xong. Mì Minh Sanh nổi tiếng vùng này giống như mì Cây Nhản ở Đakao, nhưng cách nấu khác với mì Cây Nhãn-trong nước lèo không có thịt heo bầm nhỏ, thường tôi và các bạn sau một chầu dạo đêm Honda vòng quanh Sài gòn ghé đây ăn mì và Xâm bảo lượng rồi chia tay về trước giới nghiêm 12 giờ đêm. Một điểm đáng chú ý có lẻ nơi đây là nơi xuất phát món bánh mì thịt có bơ đánh hột gà và paté. Xe bán bánh mì này dĩ nhiên rất thành công, mỗi lần ba tôi “thăm” ông hớt tóc – cũng mua bánh mì về cho các con vì tiệm này sát xe bán mì. Tất cả, bây giờ chỉ còn là kỷ niệm đẹp của một thời, ngọai trừ cây xăng Bình Hòa vẫn còn đó như còn thương chốn cũ.

     

    Đường Lê Quang Định Xóm Gà, đi về hướng Gò Vấp, bên phải có chùa Dược Sư, Tịnh Thất Liên Hoa, hẻm vào chùa Linh Ứng-bây giờ là Châu An tự, tịnh xá Ngọc Phương và chùa Già lam, hai chùa Dược Sư và Già Lam là hai chùa nổi tiếng ở miền Nam, nhất là trong khoảng thời gian 1960-1974. Chùa Già Lam được xem là nơi lai vảng của các Hoà Thượng, Thượng Tọa thuộc khối Ấn Quang. Chùa Dược Sư chỉ dành cho sư nữ. Đối diện với chùa là viện nuôi trẻ mồ côi, bây giờ không còn nữa.

     

    9Tiek.jpg

    Chùa Già Lam

     

    dsc09896.jpg

     

    Chùa Già Lam cũng là nơi yên nghỉ của một số nhân vật nổi tiếng miền Nam như Nhạc Sĩ Y Vân, người đã làm bao nhiêu người nhỏ lệ với bản nhạc bất hủ Lòng Mẹ . Cặp nghệ sĩ tiền phong khét tiếng Năm Châu và Kim Cúc hoạt động trong nhiều lảnh vực nghệ thuật : Cải lương-kịch-điện ảnh.

     

     

    HFSNc.jpg

    NS Y Vân

     

    h9ne.jpg

    NS Năm Châu và Kim Cúc

     

    Tiếp đó là rap Đông Nhì đối diện với trại cưa (nay không còn nửa), vượt qua cầu Hang đến chợ Gò Vấp, bên hông phải chợ là đường Gia Long (bây giờ là Nguyễn văn Nghi) có rạp hát Lạc Xuân (không thấy được trong ảnh, nay là nhà sách Lạc Xuân). Đường Lê Quang Định khúc Xóm Gà bây giờ nổi tiếng gà quay về chiều tối với những hàng bán trái cây đủ loại. Ngoài những chùa kể trên, trong xóm còn có chùa Vạn Đức (không còn nửa), chùa Pháp Vân cách hãng nước đá lâu đời trên đường Nguyễn Văn Đậu, mà người lái Taxi trọng tuổi đều biết.

     

    Xóm Gà còn là nơi cư ngụ , lai vãng của những văn, thi sĩ , nhà báo tên tuổi ngày xưa như Tản Đà, Phan Khôi, Ngô Tất Tố, Tế Xuyên, Trần Tấn Quốc ( người đã sáng lập giải Thanh Tâm cho lảnh vực cổ nhạc Cải lương (một trong những nghệ sĩ đoạt giải thưởng này là cô Thanh Nga). Trước 75, Trang Thanh Lan và một sô ca sĩ thuộc lò Tùng Lâm ở đây và một số ca kich sĩ thường hay lai vảng như Hùng Cương, Thanh Hùng…Về sau Tùng Lâm cũng nhận Xóm Gà “làm quê hương”. Cách nhà tôi không xa có một gia đình vớí tên tuổi mà hầu như ai cũng biết đến -Tô Văn Lai và Thúy Nga Paris và gia đình cha mẹ cô Thúy (em là Nga) ở cư xá Thanh Bình 2 đường Ngô Tùng Châu (nay Nguyễn văn Đậu).

     

    Theo Wikipedia “Trong những ngày tháng “rong chơi” Sài Gòn, Xóm Gà cũng là nơi Trung niên thi sĩ (Bùi Giáng) đã dạo qua:

     

    Ngoại ô

     

    Sài Gòn bất tận ngoại ô

    Xóm Gà Bình Thạnh xóm mô Chuồng Bò

    Ghé thăm Chuồng Ngựa quanh co

    Chạy về thẳng tắp viếng chùa Già Lam.

    Năm 2001, địa danh Xóm Gà được nhắc tới lần nữa trong tập truyện Sài Gòn vang bóng của Phan Thứ Lang. Đó là bài “Xóm Gà – vùng đất của mấy tay anh chị thời xưa” và bài “Thi sĩ Tản Đà đóng Cinéma ở Xóm Gà”.

     

    Gần đây hơn, năm 2006, sân khấu kịch Sài Gòn cũng đã ra mắt khán giả kịch bản Xóm Gà của Vương Huyền Cơ. Vở bi hài kịch này do Trần Ngọc Giàu làm đạo diễn.”

     

    Xóm Gà trong trí nhớ của tôi không phải là khung trời văn nghệ, Xóm Gà với cái tên bình dân, khiêm nhường, bé nhỏ nhưng tràn đầy kỷ niệm thương yêu, những đêm hè có đom đóm bay trên hàng rào bao phủ mồng tơì, tiếng ve sầu vang trên xóm vắng, tiếng gà gáy bên nhà hàng xóm hay chiều về én liện trên không, đêm trăng sáng với tiếng rao bán mời mọc của các người bán hàng rong, chè, bắp, chuối nướng, tiếng cóc cóc của hai thanh gổ nhỏ đánh vào nhau của xe mì dạo.

     

    Từ 1975 trở về trước nữa đầu thế kỷ, người xưa trong xóm mà Vương Hồng Sển gọi là người Sài Gòn xưa, ở những vùng như Xóm Gà là nguồn cung cấp sức lao động cho Sài Gòn, ra đi khắp bốn phưong trời rồi kẻ đến muôn phương,nhà cất lên san sát, không trật tự, đổi đời, nhưng dù sao những ngôi chùa vẫn còn đó để chửng kiến bao nhiêu chuyện đổi thay, nơi dừng lại cho bao nhiêu tâm hồn rạn nứt, “tâm tình biết tỏ cùng ai” đi tìm chút thanh thản và thầm ước an lành trong cuộc sống.

     

     

    Y Nguyên - Mai Trần

    Nguồn: maivantran.com


  14. Đền Sri. Thenday Yutthapani


    Những ngôi đền Hindu giáo xuất hiện cùng những thương nhân người Ấn Độ đến Việt Nam vào khoảng cuối thế kỷ 19. Theo tài liệu nghiên cứu*, họ là những người Tamil từ cộng đồng Chettiar (Nagatar) và lập ra những đền thờ này để cầu nguyện và thực hành tín ngưỡng. Về sau, đền mở cửa rộng rãi cho người dân đến cúng lễ, cầu nguyện.

    Đền Sri. Thenday Yutthapani – Chùa Ông (66 Tôn Thất Thiệp, Quận 1)

    7092383011_0bc9d72813_c.jpg
    Cổng đền Sri. Thenday Yutthapani
    Đền Sri. Thenday Yutthapani là đền thờ con trai thần Shiva – Murgan. Đây là ngôi đền đầu tiên mình đến trong số 3 ngôi đền Hindu giáo ở Sài Gòn. Đền khá vắng, có thể vì nằm ở cung đường cũng khá yên tĩnh giữa quận 1.

    Từ cửa đền nhìn vào là khu vực chánh điện rộng, và cao hơn nền chung của ngôi đền. Chính giữa chánh điện là phòng thờ Thánh – nơi này giới hạn số người được phép ra vào, thường chỉ là những người quản lý, làm lễ hoặc Phật tử** trung thành. Bao quanh chánh điện là một hành lang khá rộng, trên tường treo nhiều tranh vẽ các vị thần của Hindu giáo, nhiều nhất là thần Ganesh – thần đầu voi. Và một điều khá đặc biệt, trong đền có rất nhiều gương lớn.

    7092386699_94a9b3ea79_z.jpg
    Chánh điện

    6946321252_ba5fcaf625_z.jpg
    Hành lang quanh chánh điện.

    7092393949_d42c685c7c_z.jpg
    Tranh vẽ các vị thần.

    7092397839_730c1f1211_z.jpg
    Thần đầu voi Ganesh.

    Phía trên khu vực chánh điện – mái điện thờ – có một sân thượng rộng và trống, chỉ có duy nhất một ngọn tháp đặt ngay trên phòng thờ Thánh. Đây là một ngọn tháp giật cấp, với nhiều tượng thần, tượng người được đắp tinh tế. Khu vực nhà hậu tách bao quanh chánh điện, và tách rời chánh điện bằng khoảng sân trải dài không có mái che.

    7092401329_4fa2f85179_c.jpg
    Phía trên mái điện thờ là một khoảng sân rộng, với tòa tháp giật cấp đặt ngay phía trên phòng thờ Thánh

    Đây có vẻ là kết cấu chung của những ngôi đền Hindu giáo, vuông vức bằng nhiều hình vuông đồng tâm – là phòng thờ Thánh và ngọn tháp bên trên. Những ngôi đền thường xây theo kiến trúc bốn hướng nhìn ra vũ trụ, cổng chính đa phần hướng về phía Đông.

    Đền Sri. Thendy Yutthapani mở cửa hằng ngày từ 6 giờ sáng. Mỗi sáng, người quản đền sẽ làm lễ vào khoảng 9g. Trong lúc làm lễ thường đánh chuông như chuông nhà thờ.

    6946332970_cc6f23eebd_z.jpg
    Khi làm lễ, đền Hindu giáo có đánh chuông, tương tự các nhà thờ Thiên Chúa giáo.

    Một ghi chú bé bé, linh vật trang trí nhiều ở đền Sri. Thendy Yutthapani là con công xanh, xuất hiện cả trên cửa đền và tháp giật cấp.

    (Còn tiếp)

    ~~~

    * Lịch sử của đền Ấn Độ ở Việt nam – Vương Liêm, được treo trong chùa Bà Mariamman (45 Trương Định)

    ** Xin phép mượn chữ “Phật tử” của một cô ở trong chùa Bà Mariamman (45 Trương Định) để gọi những người đến cúng bái, cầu nguyện ở những ngôi đền Hindu giáo.

    Bài vài ảnh: ĐĂNG ANH

  15. Bạn bè tôi thường hỏi: “Sài Gòn có gì hay ngoài bụi bặm, kẹt xe, một cuộc sống đầy bon chen áp lực?” “Chẳng lẽ mày chôn đời ở đó hả P.?” Có khi, bạn không-sống-ở-Sài Gòn nói với tôi những câu vu vơ: “Tao thích sống chậm, Sài Gòn quá nhanh!” “Tao thích Đà Nẵng thanh bình!” “Hay mày về Đà Nẵng với tụi tao!”

    Tôi không biết phải nói sao cho bạn hiểu, rằng Sài Gòn đẹp và quyến rũ như thế nào! Sài Gòn cuốn hút như cô nàng gypsy trong phim của Tony Gatlif, vừa phóng khoáng, tự do, vừa dơ bẩn, bất an, lại vừa điên cuồng và tha thiết. Nếu bạn muốn biết Sài Gòn đẹp ra sao? Hãy ngồi lên xe máy, chạy ra đường, và ngó!

    chungcusg.jpg
    Chung cư Sài Gòn

    Những ngày này, nếu bạn đi lòng vòng khu Thủ Thiêm, bạn sẽ thấy những bức tường nham nhở, gạch ngói đổ nát bên cạnh cái tủ bán bánh cuốn buổi sáng. Những cây nhàu vẫn bền bỉ ra trái, trổ đọt mới bên những chiếc máy xúc nện ầm ầm. Có thể bạn sẽ chợt thấy trên đống gạch đổ nát đó, vài dòng chữ nguệch ngoạc: “Tạp hóa A. dời về…”, “Tiệm sửa xe B. chuyển về…” và bên cạnh đó là một tấm bia loang lổ, trước có cắm hương, bên trên để vỏn vẹn một chữ: “ĐỤ”. Từ bến phà cũ Thủ Thiêm, đi vòng qua hầm Thủ Thiêm mới, băng qua những đôi tình nhân, băng qua đám săn ảnh hoàng hôn đang lặn sau những tòa nhà ở quận 1, bạn sẽ gặp một khu đồng trống. Đừng dừng xe, đi tiếp đi, băng qua một bãi rác, lướt qua những ngôi miếu Ngũ Hành, những mái đình nằm chỏng chơ, bạn sẽ đến bến cảng. Mấy thằng nhỏ người nhem nhuốc dầu nhớt, ngồi trên đò ngó ra sông, làm xị rượu mà nhậu. Một thằng khác ngồi chồm hổm trên bờ, tay cầm đoạn cây nhàu chừng 1m đang ngồi câu bên cái hố nước chỉ lớn hơn cái xô một tí. “Em câu cá bống, câu tôm chị ạ. Tụi cá bống ngoài sông chui vô đây hết à! Nhậu với tụi em không?”

    Đừng nghĩ chỉ có sự hoang liêu, điêu tàn của Thủ Thiêm mới là đẹp. Qua cầu Sài Gòn, nếu rẽ trái thì sẽ gặp Thảo Điền. Ở đây thì Tây ta lẫn lộn, nhôm nhựa, sắt vụn, trộm cướp, sinh viên, bán rau, đại gia, chân dài, Thái Lan, da đen, da trắng các thể loại đều tụ họp về đây. Chỉ khác nhau là người nghèo thì chường mặt ra đường, người giàu thì chui trong nhà với bức tường cao 2m, sau đó chui tiếp vô cái xe có dán phim đen thui. Thảo Điền trong tôi có hai thứ đáng thăm: một là cái hồ tiểu cảnh rộng chừng 1m2 bên hàng rào một nhà giàu có. Cái hồ này có hai con hạc trắng bằng xi măng, con ngó lên trời, con thọt mỏ xuống hồ. Còn cây bông súng trong hồ cứ ra hết cái bông này đến cái bông khác, cái thì núp dưới cổ con hạc ngó lên, cái thì đè lên cổ con hạc chúi xuống. Thứ hai là con chó đen ở gần cái hồ đó. Con chó đen này kỳ lắm, nó giống như một con Husky cao to lai với một con chó Phú Quốc màu đen, sau đó bỏ lên cái thớt, dùng cái chai cán qua cán lại nên nó vừa cao, vừa đen, lông bám vào người, xoáy chạy dài sau lưng, còn mình nó thì dẹp lép. Mỗi một chiều, nó làm cái trò hết sức đãi bôi là ra đứng bên cái hồ, cứ thấy người đến là nhào vô, quấn lấy, cứ như thể tình yêu từ kiếp trước giờ mới tao ngộ vậy. Lúc đầu, tôi tưởng mình đáng yêu đến mức chó cũng mê, hổng dè, ai nó cũng mê chứ không riêng gì tôi.

    Sài Gòn cho tôi hết bất ngờ này đến bất ngờ khác. Người Sài Gòn năng động, cái gì mới họ cũng đều thử, muốn kinh doanh, muốn thu hút người khác, họ làm tất cả những gì có thể gây bất ngờ. Cách đây bốn năm năm, phong trào hát hò bán kẹo kéo bắt đầu. Nhiều người gắt gỏng, đưa tờ mười ngàn rồi đuổi đi, người thì hào hứng, nhào vô hát phụ. Cứ vậy, phong trào càng lúc càng nổi, cứ chập tối chừng 8 giờ, những chiếc xe máy chở bộ ampli phía sau, chàng trai cầm lái, còn cô gái hoặc chàng trai khác thì nhét dẹp lép chính giữa như con Husky-Phú Quốc ở Thảo Điền, chạy vù vù từ quán nhậu này đến quán nhậu khác. Chừng vài năm lại sau, có lẽ hát hò không đủ cuốn hút thì Sài Gòn lại xuất hiện hàng loạt Micheal Jackson. Bề ngoài thì đa phần các chàng bán kẹo kéo không giống MJ như chàng Diego Luna trong phim Mr. Lonely nhưng các chàng cũng nhảy nhót hết mình lắm. Trước tiên là nhấc gót, đá chân, ngả mũ, quăng lên quăng xuống, cả màn hốt chim giật giật băng qua đầu xe tải, băng qua đầu xe taxi, len lỏi giữa hàng xe máy để tiếp cận khách hàng. Có lẽ kẹo kéo ít người ăn nên giờ các chàng chỉ bán Happydent White thôi. Tìm mấy chàng MJ kẹo kéo ở Sài Gòn không khó, chỉ cần ngồi ở quán Sài Gòn Xưa và Nay trên đường Nguyễn Trung Trực từ khoảng tám đến mười giờ đêm, bạn sẽ thấy con đường này giống như một sân khấu tạp kỹ. Đầu tiên là một anh MJ, đầy đủ các màn hất mũ, đá chân, ôm chim giật giật. Sau đó là một cô khác đứng ưỡn ẹo, lại giật giật theo nhạc dưới gốc me tây từ phía đường Lý Tự Trọng hướng về phía Nguyễn Du. Sau đó nữa là một thằng nhỏ nuốt lửa, hò hét, nhét con rắn vô miệng, kéo ra đàng lỗ mũi. Khán giả kẻ ngồi nhâm nhi bia, kẻ ngó mông cô phục vụ bàn, người thì vỗ tay bẹt bẹt. Vài đứa Tây ba lô dòm thằng nhỏ kéo con rắn ra đàng lỗ mũi thì rụt vai, mặt dúm dó như xem phim kinh dị của Mỹ.

    Cái điên ban đêm ồn ào, hào nhoáng bao nhiêu, thì cái điên ban ngày lại lặng lẽ nhưng không kém phần rực rỡ bấy nhiêu. Bởi chưng, ban ngày thì xe cộ nhiều, việc ồn ào có lẽ không đủ thu hút. Sáng nay ngồi ở cà phê Vy, tôi lại mắt chữ O, miệng cũng chữ O khi thấy một ông thần tài đội mũ mão ngũ sắc, râu đen, áo dài thêu rồng phượng và đeo hia đính kim tuyến vàng chói lóa. Ông thần tài cầm xấp vé số, lững thững đi, không chào, không mời. Đó, bán vé số là phải có style. Có lẽ kiểu cầm xấp vé số, khóc khan không nước mắt bên miệng ống cống của nhiều người đã là style cũ. Ông thần tài đã thành công trong việc tạo ấn tượng và xây dựng hình ảnh khá chuyên nghiệp. Ông cứ đi, kẻ nào muốn may mắn vào nhà thì phải rước ông chớ, làm thần tài sao lại phải năn nỉ kẻ khác mua cái may mắn chớ.

    Nhích từ cà phê Vy sang một chút bên công viên 23/9, bạn sẽ thấy một cuộc sống khác. Ở đó, trong những ngôi chòi kia, người người dìu nhau nhảy tango, chachacha, rumba… với cái loa rè rè. Những con nghiện ngồi lừ đừ nhìn đám người nhảy nhót như những xác ướp. Công an, bảo vệ công viên đi lòng vòng, dòm đám con nghiện, gái bán dâm với cái nhìn lúc soi xét, lúc thờ ơ. Người ngồi trong New World nhìn xuyên lớp kính, ngó ra cái công viên với đám người nhảy nhót, con nghiện, gái điếm, cướp giật, công an, bảo vệ như thể đang xem tivi. Những thứ đó tồn tại bên ngoài New World.

    Và như thế, mỗi sáng, tôi lại ngó Sài Gòn, khi thì bên bờ sông Vàm Thuật hôi thúi ở Gò Vấp, tiếng máy bay át tiếng hát Cẩm Ly, lúc thì bệt ngoài công viên 23/9 mà trò chuyện với mấy cô gái điếm, khi thì chạy dông dông băng qua cầu Nguyễn Văn Cừ, qua tận quận 8 để cà phê. Và để ngó Sài Gòn của tôi! Với một người yêu cá tính, điên cuồng, rồ dại, tuyệt vọng, đớn đau như Sài Gòn, sao tôi có thể bỏ đi!

    Phan Thị Lan Phương - Theo Litviet
    Ảnh: Trần Việt Đức - thegioif5

  16. Trong số các con sông ở Huế, Ngự Hà là một ngoại lệ. Nó là một con sông bán nhân tạo, được đào men theo một nhánh cũ của sông Hương chảy từ chợ Kim Long đến Bao Vinh, dài gần 4km, phục vụ cho việc ra vào kinh thành Huế.

     

    Bài văn bia “Ngự chế Ngự Hà bi ký” (văn bia vua viết về sông Ngự Hà) do chính vua Minh Mạng viết mở đầu bằng câu “Thử hà nguyên tiền Hương thuỷ chi phân lưu”. Tạm dịch là “Sông này nguyên trước là phân lưu của sông Hương”.

     

    Được khơi đào lần đầu tiên dưới triều vua Gia Long vào khoảng năm 1805, bắt đầu từ sông Đông Ba đến Võ Khố, lúc đầu được đặt tên là Thanh Câu. Lại khơi đào tiếp đến sông Kẻ Vạn dưới triều vua Minh Mạng vào năm 1825, sông được đổi tên thành Ngự Hà, có nghĩa là “dòng sông vua”. Con sông Ngự Hà như một phần trong bộ sưu tập “ngự” có sức hấp dẫn đặc biệt gắn liền với kinh thành, chốn Hoàng cung của Vương triều Nguyễn trong hệ thống di sản văn hoá Huế.

     

    cd226song1.gif

    Sông Ngự Hà. Ảnh: Wordpress.com.

     

    Trong một bài văn bia nhan đề “Ngự chế Khánh Ninh kiều bi ký” (văn bia vua viết về cầu Khánh Ninh, một trong 10 cây cầu bắc qua sông Ngự Hà), vua Minh Mạng đã nói đến hai chức năng của Ngự Hà. Đó là “rất tiện lợi cho mọi người trong đi lại” và nước sông có thể “cung ứng cho việc ăn uống và sử dụng của quân đội và dân chúng”.

     

    Cũng trong một bài văn bia khác nhan đề “Ngự chế dẫn thượng”, vua Minh Mạng lại bàn đến chức năng cấp thoát nước tự nhiên cho địa bàn Thành Nội của sông Ngự Hà. Rằng: “dòng nước chẳng tiếp nối với đầu nguồn thì ứ đọng đục bẩn, không thể cung ứng cho việc ăn uống và sử dụng của quân đội và dân chúng”.

     

    Nhớ về Ngự Hà, tôi lại nhớ nhiều hơn về một “dòng sông vua”. Được tạo nên bởi con người, dòng sông Ngự Hà góp phần tạo nên vẻ đẹp tự nhiên cho tổng thể kiến trúc kinh thành Huế.

     

    Một thuở, nước sông Ngự Hà trong xanh, có nơi sâu đến vài mét, cá tôm nhiều và thuyền ra vào nhộn nhịp. Tôi lại được nghe kể, xưa vào mỗi mùa từ hạ sang thu, sen trắng sen đỏ ở Ngự Hà nở hoa như gấm dệt, khoe sắc toả hương cả một vùng. Và Ngự Hà- dòng sông vua, bao bọc kinh thành một thời vào những chiều hè mát mẻ hay những ngày xuân đẹp trời là nơi dạo chơi bằng thuyền rồng của các vua nhà Nguyễn. Cái cảm giác thú vị khi dạo thuyền rồng trên dòng Ngự Hà trong một đêm trăng đã được đức vua Thành Thái ghi lại trong một bài thơ Ngự chế: “Trăng sáng treo lơ lửng giữa trời/ Ngự Hà nước biếc cả dòng khơi…”.

     

    Có thể cảm nhận được nỗi buồn lo khi một thời bị lãng quên, thiếu sự quan tâm nạo vét và bảo vệ của con người, Ngự Hà bị lấp dần và nó đã nổi tiếng theo một cách khác với các danh hiệu về “dòng sông bèo”, “dòng sông rau muống” và hơn thế là một “dòng sông chết”. Và lại cũng có thể cảm nhận được niềm vui khi “dòng sông vua” hôm nay đang được cứu vãn bởi những dự án chỉnh trang và tôn tạo. Không chỉ là cuộc sống hiện tại, Ngự Hà - dòng sông vua đã là một phần của di sản Huế. Nó cần được gìn giữ như một tài sản quý báu mà ông cha để lại.

     

    Theo TTH


  17. Ông Lê Thanh Nghị, giáo viên trường PTTH Thuận Thành 2 (Bắc Ninh), người đã tìm ra chiếc thuyền được cho là từ thời Kinh Dương Vương, cho rằng khối đá này nếu tính ra tiền phải cả nghìn tỷ đồng.

    Lai lịch huyền bí của khối rồng

    Quanh khối đá này là cả một câu chuyện dài mà muốn kể về nó phải bắt đầu từ Thái thú Giao Chỉ Sỹ Nhiếp, thành cổ Luy Lâu và ngôi chùa Bình An hay còn gọi là chùa Bình Văn cách đây khoảng 1.800 năm.

    Theo “Đại Việt sử ký toàn thư” thì trong thời kỳ Bắc thuộc, vua Ngô đã cử Sỹ Nhiếp (137-226), một quan chức người Hán làm Thứ sử Giao Châu (miền Bắc Việt Nam hiện nay). Sỹ Nhiếp đã cho xây dựng lại thành Luy Lâu làm trung tâm bộ máy cai trị của mình. Ngay tại cấm thành Luy Lâu, Sỹ Nhiếp đã xây dựng một ngôi chùa, đó là chùa Bình An (Bắc Ninh).

    VH-176-B-in1.jpg
    Tương truyền chùa Bình An được xây trên khối đá rồng tụ linh khí đế vương.

    Một người có kiến thức uyên thâm như Sỹ Nhiếp, chắc chắn sẽ không chọn bừa một vị trí nào đó để xây thành lũy và chùa để mình cầu cúng hàng ngày. Sỹ Nhiếp đặc biệt ưu ái ngôi chùa này. Theo sử sách ghi lại, xưa kia, vị thứ sử này đã dùng chùa Bình An để lựa chọn nhân tài, phúc khảo quan lại, bình văn bình thơ hàng năm. Chùa Bình An cũng được coi là thiền viện đầu tiên của Việt Nam.

    Theo thần phả của chùa Bình An thì bí mật của việc Sỹ Nhiếp đặc biệt ưu ái ngôi chùa này chính là ở chỗ chùa Bình An “nằm trên một viên ngọc là nơi bảo tồn, hội tu linh khí đế vương”. Tuy nhiên, tất cả những người quan tâm tới viên ngọc hội tụ linh khí đế vương này đều gọi nó là đá rồng. Họ bảo nói như vậy thích hợp hơn.

    VH-176-B-in2.jpg
    Bia đá từ thời Cảnh Hưng kể về khối đá rồng trên.

    Thần phả còn ghi chép một câu chuyện khá cụ thể về khối đá rồng này. Tương truyền, năm 1750, một người đàn bà có tên là Đinh Thị Điểm, người thôn Đông, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành Hưng đã nằm thấy Phật hiện lên nói rằng chùa Bình An là nơi tích tụ long khí , dưới lòng đất nơi đó bảo tồn một viên đá rồng linh khí của trời đất, con hãy về đó tôn tạo và tu thành chính quả. Vậy là sau đó, bà Đinh Thị Điểm đã tôn tạo lại chùa Binh An và tu ở đây.

    Có một khối đá rồng và 50 viên đá rồng con?

    Câu chuyện về khối đá rồng hay viên ngọc hội tụ linh khí đế vương tại chùa Bình Anh không chỉ tồn tại trong truyền thuyết hay thần phả. Rất nhiều người tin vào sự tồn tại của nó, trong đó có GS sử học Trần Quốc Vượng. Ông Lê Thanh Nghị, giáo viên trường PTTH Thuận Thành 2 cho biết thuở còn sống, GS sử họcTrần Quốc Vương đã nhiều lần về chùa Bình An tìm “những viên đá rồng”. GS cho rằng ngoài viên đá rồng nằm ở dưới nền đất chùa Bình An còn có 50 viên đá rồng nhỏ khác nằm rải rác quanh đó. Lần cuối cùng về đây, GS Trần Quốc Vượng đã than với ông Lê Thanh Nghị rằng không thể lấy được 50 viên đá rồng, bởi chúng đang nằm rải rác trong làng đông dân cư quanh chùa Bình An.

    VH-176-B-in3.jpg
    Tai của chiếc chuông đồng thời Cảnh Thịnh, một hiện vật lích sử quý hiếm của chùa Bình An.

    Ông Lê Thanh Nghị cũng tin tưởng tuyệt đối vào sự tồn tại của khối đá rồng. Gần đây, ông định thuê máy móc về chùa Bình An để đào tim khối đá rồng nhưng cuối cùng, ông lại thôi vì sợ quấy đảo trốn linh thiêng nơi cửa Phật. Ông Nghị là người chính gốc ở Thuận Thành, Bắc Ninh. Gia đình ông có truyền thống Nho giáo. Ông nội, cha, cụ kỵ của ông Nghị đều là những thầy Nho được kính trọng ở vùng này và họ đều tin vào sự tồn tại của khối đá rồng trên. Trong một lần dịch văn bia cho chùa Bình An, ông Nghị đã tình cờ phát hiện ra cụ tổ của mình là một vị quan được nhắc đến và ông cho rằng đó là cái duyên của dòng họ mình. Ông Nghị cũng là người tìm ra chiếc thuyền độc mộc dài 9,7m được cho là có từ thời Kinh Dương Vương cách đây hơn 2000 năm. Ông Nghị tìm thấy chiếc thuyền này từ một gợi ý của GS Trần Quốc Vượng nhiều năm về trước nhưng phải tới đầu năm nay, ông mới chợt hiểu ra.

    Ông Cao Từ Linh, nhà tư vấn phong thủy và kinh dịch hàng đầu Việt Nam, tác giả của những cuốn sách Dịch học ngũ linh, Phong thủy ứng dụng trong kiến trúc hiện đại, Việt danh học… cũng nhiều lần đến chùa Bình An. Ông biết về truyền thuyết rằng chùa Bình An được xây trên viên ngọc hội tụ linh khí đế vương và không rõ khối đá rồng ấy có thật không nhưng ông khẳng định rằng khu vực đất chùa Bình An có một nguồn năng lượng mạnh đặc biệt rất hữu ích cho sức khỏe của con người. Chính vì vậy, ông thường về đây để thiền khi có dịp.

    “1.000 tỷ đồng là cái giá không có gì quá lố”

    VH-176-B-in4.jpg
    Chiếc thuyền độc mộc mà ông Nghị tìm thấy trước cửa đền Kinh Dương Vương được đấu giá với giá khởi điểm là 1 triệu USD. Ảnh: Phạm Quốc Trung

    Theo ông Nghị, khối đá rông này, nếu được tìm thấy và định giá thì nó phải hơn hẳn chiếc thuyền độc mộc mà ông tìm thấy. Ông Nghị cho biết chiếc thuyền của ông đã được một công ty lớn chuẩn bị đem ra đấu giá với giá khởi điểm là 1 triệu đô la Mỹ. Bợi vậy, khối đá rồng, nếu định giá thì cũng phải tới 1.000 tỷ. Bởi nó không chỉ có giá trị tâm linh, thứ không thể tính bằng tiền, mà còn có giá trị sử dụng. Với nguồn năng lượng mạnh đặc biệt, nó có thể chữa bệnh.

    Theo một chuyên gia về đá phong thủy, mức giá 1.000 tỷ của ông Nghị “không có gì quá lố”. Bởi vì với người chơi đá, điều quan trọng nhất của khối đá là giá trị tâm linh mà nếu khối đá rồng kia có thật thì nó có thừa giá trị ấy. Chuyên gia phong thủy này cũng cho biết khối đá quý "đình đám" nhất trong làng chơi đá cảnh Việt Nam hiện nay là của nghệ nhân Đào Trọng Cường. Năm 2009, ông Cường mua khối đá này về Việt Nam với chi phí là 1,5 triệu UDS. Khối đá của nghệ nhân Đào Trọng Cường là ngọc bích Jade nặng 35 tấn, cao 3 m, rộng 2,3 m và dày 2,4 m. Nếu khối đá rồng có thật thì giá trị của nó chắc chắn phải hơn khối ngọc của ông Cường kia hàng trăm lần và cái giá 1.000 tỷ là “bình thường”.

    Trường Giang

  18. lSgF2.gif

     

    Chúng ta không ngất đi vì ngạc nhiên thì cũng... choáng váng đến tận mấy hôm.

     

    Một nghệ sĩ người Pháp tên là Micaël Reynaud đã trộn lẫn các tấm hình đen trắng do tác giả Michael Jang chụp để tạo nên 1 clip biến động kỳ ảo, nó có thể làm choáng váng bất cứ ai xem.

     

    Ngay khi clip biến ảo như thôi miên đăng trên Youtube cách đây 2 ngày, tác phẩm thu hút sự chú ý lớn. Bức ảnh đạt tới hơn 1 triệu lượt xem cùng 8.000 lượt bình chọn.

     

    Chia sẻ trên tờ Daily Mail nghệ sỹ Reynaud chia sẻ:

    "Tôi luôn muốn tạo ra những tác phẩm gây ngạc nhiên với chất lượng tốt nhất dù ai đó có thể nói tôi không bình thường".

     

    "Bạn nên chuẩn bị khi xem những hình ảnh này", một thành viên chia sẻ trên trang Reddit. Bởi não bạn sẽ phải hoạt động liên tục để nhận diện từng khuôn mặt có trong clip đấy nhé.

     

    (St)


  19. Cùng với "thứ phi" Mộng Điệp, khi nói về những chuyện tình của Vua Bảo Đại liên quan đến quãng thời gian sống ở Đà Lạt, một trong những người được nhắc đến nhiều là bà Phi Ánh. Bà này cũng được vua mua tặng cho một ngôi biệt thự sang trọng nằm trên đường Quang Trung ngày nay. Biệt thự Phi Ánh là ngôi biệt thự đá có kiến trúc kiểu Tây Ban Nha duy nhất ở Đà Lạt từ trước đến nay; được xây dựng trong những năm 30 của thế kỷ XX.

    18.jpg

    Cuối những năm 40, cựu hoàng Bảo Đại mua lại để tặng cho "thứ phi" Phi Ánh. Biệt thự Phi Ánh gồm hai khối nhà nối liền nhau bằng một hành lang hình bán nguyệt với phần tường bên ngoài được xây dựng hoàn toàn bằng đá tự nhiên. Công trình này có điều "lạ" là tuy không to lớn nhưng nó có đến hàng trăm cửa sổ và cửa ra vào với rất nhiều kích cỡ và không cái nào trùng khớp cái nào. Trong quá trình sửa chữa biệt thự (năm 2007), trong lúc cọ rửa tường vách bằng nước có axit pha loãng, những người thợ đã phát hiện trên phần tường bên trong có đến 12 bức phù điêu hai mặt, kích thước các bức phù điêu này từ 40x40cm - 40x80cm đắp hình hoa sen cách điệu và hình chim thú lạ.

    Bên trên tường phía trong nhà còn có 8 bức phù điêu khác được đặt liền nhau trông giống như những chiếc đồng hồ treo tường khi được cọ rửa thì hiện lên những hoa văn rất kỳ lạ. Nhiều kiến trúc sư, họa sĩ cho rằng nhìn tổng thể, phong cách nghệ thuật trên những bức phù điêu này lại mang dáng dấp hội họa Ấn Độ.

    Theo ông Lê Cảnh Cương (đại diện Công ty Hoài Nam), trong quá trình trùng tu, sau khi cọ rửa bằng nước pha axid loãng, phần tường trong và ngoài biệt thự xuất hiện nhiều điều đáng chú ý. Anh em công nhân đã phát hiện 12 bức phù điêu hai mặt, có kích thước khác nhau (từ khoảng 40 x 40cm đến 40 x 80cm). Trong phòng khách ngôi biệt thự có tới 8 bức phù điêu liền kề thoáng nhìn giống hình các đồng hồ treo tường, nhưng khi cọ rửa sạch thì không nhìn rõ hình thù và không lý giải được ý nghĩa.
    Trong biệt thự còn có 4 bức hoa sen cách điệu, một bức có hình hai đầu chim lạ được bố trí ở gần cửa sổ mặt ngoài. Trong một biệt thự rất "Tây" như thế tại sao lại có những họa tiết, phù điêu mang đậm nét đặc trưng văn hóa phương Đông như hoa sen, đầu chim...? Những bức phù điêu lạ được vẽ và đắp tại nhiều vị trí khác nhau trong biệt thự có trước hay sau khi thứ phi Phi Ánh đến tiếp quản biệt thự? Phải chăng chủ nhân đầu tiên của ngôi biệt thự là người am hiểu và đam mê văn hóa phương Đông? Những bí ẩn này vẫn chưa có lời giải.

    Khi đến tìm hiểu về ngôi biệt thự Phi Ánh, tình cờ chúng tôi nghe được câu chuyện kỳ lạ nhuốm màu hoang đường liên quan đến những bức tượng Chăm bị bỏ quên trong khuôn viên biệt thự.

    Bà Nguyễn Thị Phú, người sống trong khuôn viên biệt thự kể rằng: Năm 1992, khi chồng bà là ông Bùi Như Gôm bị bệnh điên, trong một đêm đang ngủ, ông Gôm mơ thấy giấc mơ lạ và bật dậy mang cuốc đến rãnh nước thải trong khuôn viên biệt thự hì hục đào đào, bới bới. Ai cũng nghĩ ông mắc bệnh, nhưng khi đào sâu khoảng nửa mét thì ông Gôm phát hiện 2 bức tượng không còn nguyên vẹn bị chôn vùi lâu ngày trong bùn đất. Sau đó gia đình bà Phú đã thỉnh hai bức tượng này về một góc vườn sạch sẽ để lập miếu thờ. Kỳ lạ thay, sau đó ông Gôm hết bệnh điên. Điều lạ nữa, hai bức tượng do ông Gôm tìm thấy có hình dáng tương tự bức phù điêu cô gái Chăm cao khoảng 1,5 mét, đầu đội mũ vàng hình 3 ngọn tháp Chăm, chân quấn 3 vòng vàng được đắp nổi ở phần cửa chính của biệt thự Phi Ánh (còn nguyên vẹn).

    LHVV tổng hợp

  20. Những ai từng chứng kiến anh bắt lươn đều phải thốt lên, đúng là một “ma lươn”. Ao chuôm đục ngầu, nước ngang cổ, vậy mà hai tay anh lần mò trong giây lát, những con lươn to bằng ngón chân cái được vứt lên bờ như… củi lụt.

    Nhắm mắt bắt được lươn

    Nhiều lần nghe tiếng tăm về người đàn ông sống chân dãy núi Tam Đảo thuộc xóm Dưới, xã Văn Yên (Đại Từ, Thái Nguyên) có biệt tài bắt lươn bằng tay như thần, tôi quyết định mục sở thị xem sự thực hay chỉ tin đồn.

    Hỏi thăm đường vào nhà “ma lươn” Nguyễn Văn Ba, tôi được anh Lưu Sỹ Chiến, hàng xóm của Ba tâm sự: “Có lẽ cả tỉnh Thái Nguyên này không ai bắt lươn giỏi như tay Ba. Cứ chỗ nào có lươn là hắn bắt được hết. Ai đời, ao chuôm nước ngập đến cổ, hắn lội xuống hai tay lần mò vài phút đã quăng lên bờ cả chục con lươn to bằng ngón chân cái đơn giản như không vậy. Có lần, tôi đi làm đồng thấy hắn cầm hai con lươn trên tay nhảy lò cò dưới ao của làng, tưởng hắn dẫm phải mảnh chai, nào ngờ khi lên bờ thấy hắn kẹp thêm con lươn nữa ở chân trái. Chứng kiến cảnh đó, tôi và nhiều người lắc đầu bảo: Mày là con ma lươn chứ không phải người Ba ạ!”.

    l2.jpg
    Đứng trên bờ quan sát
    Ngôi nhà của Ba nằm yên bình rìa cánh đồng làng dưới chân núi Tam Đảo. Khi chúng tôi đến cũng là lúc anh nghỉ ngơi xem ti vi sau một ngày mưu sinh. Thân hình nhỏ bé nhưng rắn rỏi, Ba khá ngạc nhiên khi có người tận Hà Nội nghe được tiếng bắt lươn của anh.

    Sinh năm 1963 trong gia đình thuần nông nghèo có tới 11 thành viên, Ba cho biết, đời ông nội rồi đời bố anh trước kia đều sinh sống và nuôi các con trưởng thành nhờ nghề bắt lươn. Tuy nhiên, trong 9 anh chị em chỉ có duy nhất Ba theo nghề cha ông. Ba đến với nghề bắt lươn năm 10 tuổi, ngày đó, trong 9 anh chị em Ba là người quấn bố nhất. Ngày nào cậu bé cũng xách giỏ theo bố đi bắt lươn khắp đồng trên, ao dưới. Trong quá trình theo cha, Ba dần học được những thủ thuật, kinh nghiệm của người thân sinh ra mình, vốn cũng là cao thủ bắt lươn có tiếng trong vùng. Có lẽ do bản năng có sẵn nên chỉ trong thời gian ngắn, anh đã vượt bố mình về kỹ năng và đẳng cấp bắt lươn.

    l3.jpg
    Thọc tay xuống bùn
    Khi tôi hỏi làm cách nào để phát hiện ra lươn giữa biển nước mênh mông như vậy? Ba cười và bảo rằng, cái đó rất khó trả lời bởi không biết diễn tả thế nào, cảm giác đó chỉ anh mới có được. “Khi đến chỗ nào có lươn tự tôi linh cảm thấy, trong quá trình đưa tay xuống nước bắt lươn, nếu có lươn bàn tay tôi cũng cảm nhận thấy có sự khác lạ nên dân làng bảo tôi nhắm mắt bắt được lươn là họ nói đúng đấy. Quả thực, những chỗ nước sâu tôi bắt lươn bằng cảm giác của đôi tay chứ chưa bao giờ nhìn thấy chúng”, Ba tâm sự.

    300/365 ngày ngoài đồng

    Năm nay bước sang tuổi 50, Nguyễn Văn Ba theo nghề bắt lươn ngót nghét 40 năm. Trong ngần ấy năm trời, không một ao chuôm nào ở huyện Đại Từ anh chưa đặt chân tới. Như đã thành thông lệ, 8h sáng anh thức dậy chạy xe máy (trước là đạp xe đạp và đi bộ) lang thang khắp đồng trên, ao dưới để bắt lươn. Trước đây lươn nhiều, mỗi ngày anh bắt được cả yến đem đổi lấy gạo ăn, giờ do nạn đánh bắt thuỷ sản bằng kích (xung) điện nên số lượng lươn suy giảm rõ rệt, anh Ba chỉ bắt từ 4 - 5 kg/ngày, vừa đủ để lo cho gia đình mà không tham lam.

    “Tôi chỉ bắt lươn bằng tay và bắt những con nặng 1 lạng trở lên chứ không bao giờ bắt lươn bé vì để chúng còn lớn. Một năm có 365 ngày tôi đi bắt lươn 300 ngày. Hai tháng tôi nghỉ ở nhà là mùa nước lớn, lươn đang trong thời gian sinh sản và nuôi con.

    l4.jpg
    Lập tức bắt lên một con lươn

    Bình quân, mỗi ngày tôi bắt khoảng 40 con lươn đổ lại, được 4 - 5 kg, bán ra thị trường với giá 150.000 đồng/kg là tôi có 600.000 - 800.000 đồng rồi. Dù có thể bắt được gấp ba chỗ đó nhưng nguyên tắc của tôi chỉ dừng lại ở đó vì quan điểm của tôi là không tham của giời”, Ba cho biết.

    Người dân xã Văn Yên kể rằng, có lần Ba hành nghề ở xã bên gặp nhóm người đang dùng xung điện bắt lươn, đau lòng chứng kiến cảnh bắt lươn kiểu huỷ diệt đó, Ba khuyên can họ không nên dùng xung điện bởi lươn hay các loài thuỷ sinh khác nếu bị điện giật dù không chết nhưng sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh sản. Tự dưng thấy có người “chõ mõm” vào bát cơm của mình, tốp người kia vênh mặt hỏi lại Ba rằng, nếu không bắt bằng xung điện thì bắt bằng gì, chẳng nhẽ bắt bằng tay?

    Nói xong, họ cười toáng lên vì nghĩ Ba sẽ “cứng họng”, nhưng không ngờ anh phản pháo lại. Ba thách đố rằng, nếu anh có thể dùng tay bắt được lươn nhanh và nhiều hơn dùng xung điện thì những người kia phải thề sẽ không dùng kích điện đánh bắt thuỷ sản nữa.

    Nghĩ Ba đem trứng chọi đá nên nhóm người kia nhất trí ngay với ý định cho Ba một vố thua xấu hổ để hết đi “chõ mõm” vào công việc của người khác. Cuộc tỉ thí có một không hai đó thu hút rất đông người dân làm đồng đến chứng kiến.

    l5_1.jpg
    Lập tức bắt lên một con lươn

    Tại khu đầm giữa cánh đồng, khi tiếng hô bắt đầu được vang lên, Ba nhảy xuống đầm thục hai tay xuống nước lần theo bờ đầm và liên tục quăng lên bờ những con lươn nặng vài ba lạng như quăng củi lụt, trong khi đó phía bên kia nhóm người dùng kích điện khua sào loạn xạ, lâu lâu mới vớt được con lươn bé tí bằng đầu đũa. Kết quả, sau hơn 10 phút đồng hồ, Ba bắt được hơn chục con lươn, trong khi nhóm người kia chỉ chích điện được vài ba con lươn bé xíu. Sau bận thua thảm hại đó, trước toàn thể dân làng, nhóm người dùng kích điện kia đã phải bỏ nghề.

    Chưa thực sự tin khả năng bắt lươn thần sầu của Ba, tôi đề nghị anh cho tôi tận mắt được chứng kiến. Mặc mỗi chiếc quần đùi, Ba dẫn tôi ra khu ao giữa cánh đồng làng. Thấy Ba đi bắt lươn, trẻ con người lớn hùa nhau chạy theo xem anh trình diễn. Vừa đi trên bờ vừa quan sát, anh dừng lại ở cạnh một vũng nước, thọc hai tay xuống bùn rồi quăng ngay lên bờ một con lươn nhanh đến nỗi tôi chưa kịp chuẩn bị xong máy ảnh để tác nghiệp. Ba bảo, quanh khu vực anh đứng có đúng 5 con lươn, dứt lời Ba lại thọc tay xuống nước rồi lại nhấc lên một con lươn như anh giấu sẵn lươn ở đó vậy.

    Sau khi bắt được đúng 5 con lươn trong thời gian chưa đầy 3 phút, Ba lại thả hết xuống ao vì hôm nay số lươn anh đã đủ. Lý giải việc làm này, anh bộc bạch: “Bao nhiêu năm qua gia đình tôi có cơm ăn, áo mặc, con cái lớn khôn như ngày hôm nay đều nhờ con lươn cả nên tôi tự ý thức cần phải bảo môi trường sống. Làm nghề 40 năm qua, tôi cảm thấy buồn nhất là tình trạng đánh bắt lươn bằng kích điện như hiện nay, đây là một hành động hủy hoại môi trường vô cùng dã man”.

    Nguyễn Huân - NNVN

  21. Tiền Giang là cửa ngõ Miền Tây. Lên Nhà Bè, ghe tàu có thể đi nhiều ngả. Từ thượng lưu sông Tiền về biển có các ngã rẽ: Rạch Ruộng, Ba Rài, Long Định, Bảo Định, Kỳ Hôn, Cửa Tiểu. Khúc sông Tiền chảy từ Rạch Ruộng (Cái Bè) về Cửa Tiểu (biển Đông) khoảng 110 km.Tùy điểm xuất phát, ghe tàu có thể chọn ngã rẽ về Nhà Bè, nếu không tính thời gian, trọng tải, thủy triều và tình trạng thuận lợi các sông, kinh, rạch.

    ChoGaoCanalConstruction1876.jpg
    Đào kênh Chợ Gạo

    Thủy lộ Chợ Gạo là con đường tốt nhất thông thương giữa Sài Gòn và Miền Tây. Trước khi Pháp đặt chân tới Sài Gòn (1859), đã có ba lối đi lại giữa hai nơi này; nhưng quân Pháp chỉ chọn một. Sau khi Pháp chiếm Nam Kỳ, thêm 3 lối đi nữa về Sài Gòn, nhưng tàu thuyền vẫn đổ về đường thủy Chợ Gạo, vì tiện ích của nó. Con đường biển từ ngã ba Nhà Bè ra cửa Soi Rạp xuống Cửa Tiểu, ngược dòng sông Tiền về Mỹ Tho, tàu chiến Pháp ít gặp sự chống cự; nhưng họ không chọn con đường ấy khi đánh Mỹ Tho (1861), vì xa (độ 75km) và đường biển tiềm ẩn nhiều bất trắc. Không lợi cho chinh chiến, làm gì lợi cho giao thương. Trong quá trình điều nghiên vùng Mỹ Tho, Pháp tính tới hai con đường ăn thông ra sông Tiền. Từ ngã ba Nhà Bè, xuôi dòng Vàm Cỏ Tây và tại Tân An có hai ngã về Mỹ Tho: ngã Rạch Chanh và rạch Bảo Định.

    Đi theo Rạch Chanh về rạch Bà Bèo (Bàu Bèo). Hết rạch Bà Bèo đến rạch Ba Rài, ra cửa Ba Rài (Cai Lậy) sông Tiền, theo dòng hạ lưu về Mỹ Tho. Con đường này, người Pháp gọi Arroyo Commercial (kinh Thương Mại - Con đường tiện cho ghe thương hồ, nhất là vùng Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang). Nhưng từ cửa Ba Rài về Nhà Bè rất xa, sông rạch ngoằn ngoèo, uốn khúc, nhiều đoạn hẹp, cuộn tròn, đổi hướng. Đoạn từ Nhà Bè đi Vàm Cỏ Tây tới Rạch Chanh khoảng 80km. Theo Rạch Chanh, rồi rạch Ba Rài đi sông Tiền 70km. Khúc sông Tiền từ Ba Rài về Mỹ Tho 35km nữa. Tính chung đường thủy này độ 185km. Quân Pháp nhận định: “Kinh Thương Mại đánh vòng xa hơn kinh Bưu Điện, nhưng cũng đổ vào sông Tiền, kinh lại cạn, cỏ nhiều rất vướng, các phương tiện thủy vận của ta không dùng kinh này được”. (L. Pallu, Histoire de L’Expédition de Cochinchine en 1861).

    Quân Pháp đánh Mỹ Tho theo ngã Vàm Cỏ Tây qua Bảo Định hà (rạch Bảo Định), về Sông Tiền, cạnh thành phố Mỹ Tho. Người Pháp gọi Arroyo de la Poste (kinh Bưu Điện – kinh chuyển thư tín từ Sài Gòn qua Tân An đến Mỹ Tho và các tỉnh đồng bằng). Tuy đến Mỹ Tho gần hơn “kinh Thương mại”, nhưng “kinh Bưu Điện” cũng xa. Tính chung, từ ngã ba Nhà Bè về Mỹ Tho trên 90km. Khi về gần thành phố Mỹ Tho có những đoạn hẹp, hiện nay khó có thể mở rộng, vả lại nhánh sông Vàm Cỏ Tây về ngã ba sông Vàm Cỏ hết sức ngoằn ngoèo, không tiện cho tàu bè giao thương.

    Năm 1877, thấy sự bất tiện của đường biển và sự bất tiện của hai con kinh Thương Mại và Bưu Điện, Pháp cho đào kinh Chợ Gạo (kinh Duperré), dài 11,8km. Từ vàm Kỳ Hôn, cách Mỹ Tho không xa, ghe tàu trên sông Tiền rẽ vào, theo rạch Kỳ Hôn nối kinh Chợ Gạo về Rạch Tra (sông Tra), ra sông Vàm Cỏ hướng về ngã ba Nhà Bè, dài chừng 55km (30km từ sông Tiền đến Vàm Cỏ, 25km từ Vàm Cỏ đến Nhà Bè). Đoạn đường thủy này lúc đầu đào tay, bề mặt 20m, sâu 3m. Thủy lộ Chợ Gạo có vị trí thuận lợi giúp ghe tàu giao thương an toàn, đi ngang về tắt giữa Sài Gòn – Miền Tây, nên được nạo vét hai lần: một lần làm thủ công, năm 1892 huy động 40.000 người, mất 2 tháng; một lần bằng cơ giới, năm 1906 mất vài năm. Nay mặt thủy lộ rộng đến gần 100m, nước ròng còn một nửa.

    Năm 1896, Tổng đốc Trần Bá Lộc cho đào một con kinh nối từ ngọn Rạch Ruộng chạy lên phía Đông Bắc, trên dưới 20km, rẽ ngang hướng đông tiếp giáp rạch Bà Bèo. Cả rạch Bà Bèo và Rạch Chanh được nắn lại ngay ngắn hơn. Khi khánh thành năm 1987, kinh được đặt tên kinh Tổng Đốc Lộc. Sau này, được đổi tên kinh Nguyễn Văn Tiếp. Có kinh Nguyễn Văn Tiếp B nối với Rạch Ruộng (Cái Bè) và kinh Nguyễn Văn Tiếp, để lên Vàm Cỏ Tây, ghe tàu có thêm một lối rẽ từ Sông Tiền đi Sài Gòn. Nhưng ngã này cũng không gần. Riêng đoạn từ Rạch Ruộng qua hai kinh Nguyễn Văn Tiếp B và Nguyễn Văn Tiếp đến Vàm Cỏ Tây cũng mất 65,9km. Hơn nữa, lòng kinh Nguyễn Văn Tiếp chỉ rộng 40m, không phải thủy lộ lí tưởng cho tàu thuyền lớn.

    Năm 1918, chính quyền Pháp đào kinh xáng Lacombe (kinh Nguyễn Tấn Thành), dài 19,3km, nối kinh Nguyễn Văn Tiếp ở ngã ba Mỹ Phước. Từ đây, có thể theo kinh Nguyễn Văn Tiếp về Vàm Cỏ Tây đi Nhà Bè. Kinh Nguyễn Tấn Thành hẹp, nhiều rong, tảo, không tiện cho tàu thuyền lớn giao thương Sài Gòn.

    Như vậy, trong các thủy lộ về Sài Gòn, đường thủy Chợ Gạo giữ vai trò quan trọng hơn hết. Nó giúp ghe tàu đi lại an toàn, rút ngắn thời gian vận chuyển; ghe tàu lớn có thể thông thương. Tiếc là không có con số thống kê hàng hóa được vận chuyển qua các thời kì; nhưng thực tế cho thấy, 133 năm đường thủy Chợ Gạo góp phần vận chuyển một khối lượng hàng hóa khổng lồ. Chắc chắn giữ vị trí “vô địch” so với các kinh, rạch khác.

    Ngày nay, đi theo rạch Bảo Định về ngã ba Nhà Bè, chắc không tiện vận chuyển hàng hóa, vì con đường nhỏ, quanh co và chật hẹp hơn ngày xưa. Như vậy, không có thủy lộ Chợ Gạo, chắc chắn tàu ghe phải nhiều phen vất vả, đối mặt biển Đông, chưa thể lường hết những rủi ro, mất mát, do gió to, sóng cả gây nên. Nếu so sánh, con đường thủy Chợ Gạo giống như “kinh đào Panama” giúp tàu bè có thể đi ngang, về tắt giữa Sài Gòn và Miền Tây, vừa tiết kiệm thời gian, lại không hiểm nguy.

    Đường thủy Chợ Gạo thể hiện tầm nhìn kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên và con người. Gọi là kinh (do người đào) thì không hẳn, gọi là sông (do tự nhiên) thì không phải. Đường thủy này có cả hai dạng địa hình của con người và tự nhiên: giữa là một địa hình thẳng được người đào, theo đề án Đô đốc Chánh tham biện tỉnh Mỹ Tho Duperré. Hai đầu con kinh, một nối liền với rạch Kỳ Hôn (còn có tên Trà Hôn, Cà Hôn, Kỳ Hôn Giang), hướng ra vàm Kỳ Hôn, sông Tiền (Mỹ Tho); một nối với sông Tra (sông có nhiều cây tra mọc hai bên bờ) ra sông Vàm Cỏ, chảy về biển, tạo thành ngã ba: Vàm Cỏ, Nhà Bè, Soi Rạp. Hai đoạn đường sông này quanh co, có chiều dài độ 18km.

    Đường thủy Chợ Gạo hiền hòa, chế độ nhật triều lên xuống đều đặn, tiện cho tàu ghe di chuyển ngày đêm. Thủy lộ Chợ Gạo an toàn giao thông, còn rút ngắn một nửa thời gian, nếu phải di chuyển ra biển về Sài Gòn. Ghe thương hồ thường chọn con đường thủy Chợ Gạo ngược xuôi giữa Sài Gòn và Miền Tây. Sau lần đào đầu tiên, con đường thủy này được nạo vét nhiều lần. Với thời gian, tàu bè qua lại như mắc cửi, khúc sông kinh này có đoạn bên lở, bên bồi như hiện trạng.

    Quote:

    Những chiếc cầu bắc qua dòng Mekong làm cho giao thông bộ có vai trò tích cực hơn giữa ĐBSCL với cả nước. Tuy nhiên, thủy lộ Chợ Gạo một thời và trong tương lai vẫn đóng vai trò quan trọng đối lưu hàng hóa cả nước với đồng bằng. Vì vận chuyển bằng đường thủy được khối lượng lớn, cước vận chuyển thấp, nên vẫn là con đường nông sản miền Tây – con đường thương mại lí tưởng của những nhà sản xuất lớn và giới thương hồ. Con đường thủy Chợ Gạo, tương lai sẽ còn là đường du lịch rất hấp dẫn những ai đam mê du lịch sông nước!
    Hàng Miền Tây đi Sài Gòn trên thủy lộ Chợ Gạo ngày ấy gồm: hàng thực phẩm có lúa, gạo, dừa, cau, trầu, chuối, trái cây, cá muối, cá khô, cơm dừa, tôm cua, rùa rắn, mật ong…; hàng gia dụng là bông, tre, tơ tằm, dâu tằm ăn, da thú, lông chim. Hàng về Miền Tây có bàn tủ ghế, đồ thờ mỹ nghệ, lu hũ, tô chén, đồ gốm, sành sứ, hàng gia dụng, vật liệu xây dựng…

    Diện tích sản lượng nông sản cung cấp cho Sài Gòn có lúa gạo các tỉnh Miền Tây, khoảng 1.290.000 ha. Năm 1905, với dân số chưa đến 3 triệu dân, bình quân đầu người được 637 kg lúa, thì tổng sản lượng sẽ trên 1.700.000 tấn. Những con số trên cho thấy tầm quan trọng giao thương thủy lộ Chợ Gạo hết sức lớn so với đường sắt và đường bộ ngày ấy. Dân cố cựu ở sông kinh Chợ Gạo cho biết thêm: “Ngày trước, ghe bầu, ghe chài chèo tay hoặc tàu kéo theo sau năm bảy ghe chài Sài Gòn, miền ngoài, thường tấp nập về đây “ăn gạo”, nên vùng này mang tên Chợ Gạo. Con đường thủy cũng mang tên địa danh ấy”.

    Ngày nay, ngoài những mặt hàng truyền thống, ghe tàu còn vận chuyển lượng lớn phân bón, xăng dầu, vật liệu xây dựng cát đá, sắt thép, xi măng… Thủy lộ này trở nên nhỏ bé, quá tải, buổi chiều thường gây ùn tắc giao thông, đoạn hai bên cầu Chợ Gạo. Cầu được xây dựng năm 1972, khoảng thông thuyền cầu quá nhỏ và chật hẹp với mật độ thuyền bè lưu thông trên thủy lộ này. Đã có kế hoạch mở rộng tuyến đường thủy lên gấp đôi, rộng thêm 80m nữa và sẽ xây lại cầu Chợ Gạo, để đảm bảo sự qua lại tàu thuyền.

    Nguồn: Báo nông nghiệp Việt Nam

  22. Ngày 24/5, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã báo cáo kết quả sơ bộ công tác thám sát khảo cổ học tại di tích Quan Tượng Đài - đài thiên văn cổ triều Nguyễn cũng như đài thiên văn cổ duy nhất còn lại tại Việt Nam.

    Di tích Quan Tượng Đài tọa lạc trên pháo đài Nam Minh, phía tây nam Kinh thành Huế. Đây từng là nơi cơ quan Khâm Thiên Giám đặt đài quan sát các hiện tượng thời tiết, dự báo khí tượng thủy văn cho triều đình Nguyễn. Trên đài này, vua Minh Mạng đã cho dựng đình Bát Phong năm 1827. Cuối thời Nguyễn, cùng với sự suy tàn của triều đại, hoạt động của cơ quan Khâm Thiên Giám dần dần bị thu hẹp và triệt tiêu. Quan Tượng Đài hiện chỉ còn là phế tích. Đây là đài thiên văn cổ duy nhất của các vua chúa còn lại tại Việt Nam - một công trình vô cùng độc đáo.

    Được sự đồng ý của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tại Quyết định số 687/QĐ-VHTTDL ngày 27/2/2012 về việc cho phép khai quật khảo cổ di tích Quan Tượng Đài. Từ tháng 4/2012, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã triển khai hoạt động thám sát khảo cổ tại đây nhằm tìm hiểu vị trí, kích thước, cấu trúc nền móng của kiến trúc đình Bát Phong trên Quan Tượng Đài; xác định kích thước cấu trúc của hệ thống thoát nước, nền di tích, hệ thống bậc cấp, v...v..nhằm thu thập các chứng cứ khoa học cho việc tu bổ, phục hồi di tích trong tương lai.

    2751_e2118.jpg
    Các chuyên gia tại đài thiên văn cổ còn lại duy nhất

    Tại buổi báo cáo, nhóm khảo cổ cũng đã nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các nhà chuyên môn, các phóng viên và các thành viên của Hội đồng Khoa học Trung tâm về những giả thuyết đặt ra cho một số nghi vấn còn tồn tại xung quanh việc xác định màu sắc ngói lợp công trình, chức năng của một số di vật hiện còn lại.

    Nhóm nghiên cứu của Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế đã triển khai 3 hố khai quật để tìm hiểu cấu trúc của nền đài, đình Bát Phong, bậc cấp lên xuống và móng. Kết quả cho thấy, nền gốc của di tích xuất lộ một số mảng gạch Bát Tràng trong tình trạng bị dập vỡ; đình Bát Phong có cấu trúc hình bát giác, nền móng của công trình này còn khá nguyên vẹn.

    2756_06a1b.jpg
    Nền Quan Tượng Đài

    Ngay dưới hệ thống tường bao khu vực nền đài đều được trổ các lỗ thoát nước mặt. Tuy nhiên các lỗ thoát nước đều cao hơn nền sân từ 12 đến 14cm. Vật liệu chủ yếu mà người xưa dùng để xây dựng công trình này là gạch vồ, đá Thanh (chân đá táng), gạch Bát Tràng, ngói lưu ly, vữa vôi, đá gan gà...

    Dựa trên những kết quả khảo cổ bước đầu, công tác nghiên cứu, thiết lập hồ sơ khoa học cho di tích Quan Tượng Đài sẽ tiếp tục được thực hiện để phục vụ công tác bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của di sản trong thời gian sắp đến.

    Xin giới thiệu đến độc giả những hình ảnh về đài thiên văn cổ nhất Việt Nam hiện còn sót lại tại Huế vừa được khai quật:

    2752_6d9b5.jpg
    Đường dẫn lên Quan Tượng Đài


    2755_c29a8.jpg
    Đài được đúc bằng đất, đá và gạch kiên cố

    2753_37f8d.jpg
    Những bậc cấp là đá thanh được khắc chữ Hán

    2754_c95c3.jpg
    Đá nằm vương vãi có khắc chữ
    27510_6a309.jpg
    Nền còn lại của đình Bát Phong - nơi các quan đứng để quan sát thiên văn

    2757_3db59.jpg
    Phần bên của đình Bát Phong

    2758_4c854.jpg
    Các khối đá để dựng cột đình

    2759_cdf63.jpg
    Mảnh sành sứ còn sót lại của mái ngói đình

    27511_77e1b.jpg
    Hố đào thám sát

    27512_69d4a.jpg
    Gạch, đá chất chồng để nghiên cứu

    27513_ea57f.jpg
    Đài thiên văn cổ này nhìn ra sông Hương và hướng Nam kinh thành Huế. Những hiện tượng thời tiết thông thường như mưa, nắng, gió và các hiện tượng bất thường như hạn hán, lũ lụt đã được ghi nhận từ đây rồi báo cáo về cho vua nhằm có kế hoạch ứng phó trong triều đình và dân chúng

    27514_13b94.jpg
    Nền gạch Bát Tràng cổ

    27515_5cfb0.jpg
    Đá tảng cỡ lớn

    27516_9090d.jpg
    Gạch cũng được đóng dấu của triều đình vua Nguyễn

    27517_efb81.jpg
    Dấu thời gian

    27518_f9e41.jpg
    Những bí mật của Quan Tượng Đài thời gian tới sẽ được giải mã toàn bộ

    27519_45991.jpg
    Đài thiên văn cổ duy nhất còn lại tại Việt Nam sẽ là một địa điểm tham quan thú vị sau khi công tác khai quật hoàn tất

    Đại Dương

Footer title

This content can be configured within your theme settings in your ACP. You can add any HTML including images, paragraphs and lists.

Footer title

This is an example of a list.

Footer title

This content can be configured within your theme settings in your ACP. You can add any HTML including images, paragraphs and lists.

Footer title

This content can be configured within your theme settings in your ACP. You can add any HTML including images, paragraphs and lists.

×
×
  • Create New...